Đề Xuất 6/2023 # Xung Đột Trong Đoạn Trích: Nỗi Oan Hại Chồng (Trích Quan Âm Thị Kính). # Top 8 Like | Athena4me.com

Đề Xuất 6/2023 # Xung Đột Trong Đoạn Trích: Nỗi Oan Hại Chồng (Trích Quan Âm Thị Kính). # Top 8 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Xung Đột Trong Đoạn Trích: Nỗi Oan Hại Chồng (Trích Quan Âm Thị Kính). mới nhất trên website Athena4me.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Lựa chọn câu để xem lời giải nhanh hơn

Dàn ý I. Mở bài

– Giới thiệu khái quát về thể loại chèo (khái niệm, khái quát các đặc trưng cơ bản của thể loại…)

– Giới thiệu về vở chèo “Quan Âm Thị Kính” và trích đoạn “Nỗi oan hại chồng” (tóm tắt, khái quát giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật…)

– Sơ lược về nỗi oan hại chồng của Thị Kính.

II. Thân bài 1. Tóm tắt nỗi oan Thị Kính:

– Thị Kính thấy râu mọc ngược dưới cằm chồng:

+ Tâm trạng: băn khoăn

+ Suy nghĩ: trước đẹp mặt chồng sau đẹp mặt ta, dạ thưa chồng lòng thiếp sao an

+ Hành động: cầm dao khâu xén chiếc râu

– Thiện Sĩ giật mình tỉnh giấc, kêu lên.

– Thiện Sĩ: vừa chợp mắt đã thấy dao kia kề cổ.

2. Xung đột giữa Thị Kính và Sùng bà

– Sùng bà:

+ Nói về nhà mình: giống nhà bà đây giống phượng giống công, nhà bà đây cao môn lệnh tộc, trứng rồng lại nở ra rồng.

⇒ Khoe khoang, hãnh diện, vênh váo.

+ Nói về Thị Kính: liu điu lại nở ra dòng liu điu, mày là con nhà ốc, cả gan say hoa đắm nguyệt, dụng tình bất trắc, gái say trai lập chí giết chồng,mặt trơ như mặt thớt,…

⇒ Coi thường, dè bỉu, khinh bỉ, mắng nhiếc, lăng nhục.

+ Hành động: dúi đầu Thị Kính xuống, bắt Thị Kính ngửa đầu lên, không cho Thị Kính phân bua, dúi tay đẩy Thị Kính ngã khuỵu xuống…

⇒ Thô bạo, tàn nhẫn

– Thị Kính:

+ Hết lời phân bua, minh oan cho bản thân nhưng không được.

+ Hành động: theo cha về nhà, đi theo cha mấy bước,quay vào nhìn từ tràng kỉ đến sách, thúng khâu, cầm chiếc áo đang khâu dở bóp chặt trong tay.

⇒ Sự bất lực của Thị Kính.

III. Kết bài

– Khái quát giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của cả vở chèo nói chung và trích đoạn nói riêng.

– Xung đột ở đây là xung đột cơ bản, khó tìm cách giải quyết.

Bài mẫu

Sân khấu dân gian có hai loại hình quen thuộc là chèo cổ, luống cổ. Chèo cổ của dân tộc ta có đến hàng chục vở, trong đó có 4 vở quen thuộc với mọi người như: Quan Âm Thị Kính, Trương Viên, Kim Nham, Chu Mãi Thần… Trong số những vở chèo kể trên vở chèo Quan Âm Thị Kính được xem là hay nhất.

Trích đoạn Nỗi oan hại chồng là phần đầu của vở chèo Quan Âm Thị Kính. Màn chèo này có 3 cảnh, có đủ 5 nhân vật nhưng chủ yếu xung đột kịch thể hiện qua hai nhân vật: Sùng bà và Thị Kính (mụ ác và nữ chính). Trong chèo Sùng bà thuộc loại nhân vật mụ ác, từ ngôn ngữ đến cử chỉ, hành động của mụ rất tàn nhẫn độc địa. Còn Thị Kính là cô gái gặp nhiều oan khiên.

Chồng của Thị Kính là Thiện Sĩ – con của Sùng bà. Trong một hôm vì mệt mỏi đèn sách, chàng ngơi mình bên tràng kỉ. Vốn yêu chồng, Thị Kính đến bên chồng ngồi ngắm dung nhan chồng. Vô tình Thị Kính phát hiện ra trên mặt chồng có chiếc râu mọc ngược, nàng toan cắt bỏ:

Dạ thương chồng, lòng thiếp sao an

Âu dao bèn, thiếp xén tày một mực

Cùng lúc đó chồng nàng hô hoán:

Hỡi cha! Hỡi mẹ! Hỡi xóm! Hỡi làng

Đêm hôm khuya khoắt bỗng làm sao thấy sự bất thường và Sùng bà quả quyết rằng Thị Kính định giết con bà. Mụ mạt sát Thị Kính là mặt sứa gan lim muốn hại con của bà. Mụ chửi Thị Kính như tát nước vào mặt:

Còn tuồng bay mèo mả gà đồng lẳng lơ

Chứ bây giờ bay mới lộ cái mặt ra

Thị Kính càng vật vã kêu oan, than khóc bao nhiêu thì mụ càng lồng lên dữ dội bấy nhiêu. Mụ chửi mắng xỉa xói không thiếu một lời nào. Mụ cho rằng con dâu mụ gan to bằng trời, định sát hại chồng, hơn thế nó là kẻ hư hỏng đổ đốn.

Này con kia! mày có trót say hoa đắm nguyệt

Đã trên dâu dưới Bộc hẹn hò…

Mụ cho rằng Thị Kính là gái say trai lập chí giết chồng và như vậy mụ đòi chém bổ băm vằm xả xích mặt Thị Kính. Mụ xỉ vả Thị Kính hết lời mặt gái trơ như mặt thớt không hiểu phép tắc lễ nghĩa là gì không, không biết tam tòng tứ đức không? Chúng ta thấy rằng Sùng bà chẳng cần hỏi nguyên cớ ra sao, mụ một mực đuổi Thị Kính về nhà, mụ cho rằng gia đình mụ không thể dạy nổi người đàn bà hư hỏng này:

Ngựa bất kham thôi phó về Bồng Báo

Này, bà bảo cho mà hay này: đồng nát thì về cầu Nôm

Con gái nỏ mồm thì về ở với cha, biết không?

Mụ vênh váo vỗ ngực ta đây là gia đình thế gia vọng tộc, quyền quý cao sang: trứng rồng lại nở ra rồng còn Thị Kính là con nhà hèn kém bé nhỏ con nhà cua ốc, liu điu lại nở ra dòng liu điu.

Với chồng mụ, mụ luôn mắng chồng khinh rẻ chồng, cho chồng là kẻ bợm rượu, ăn nói thì lèm bèm. Còn với Thiện Sĩ mụ hứa lấy cho nó dăm vợ. Thực ra cậu quý tử này là kẻ nhu nhược thậm chí còn đần độn. Đối lập với mụ ác là nữ chính Thị Kính, Thị Kính thật đáng thương. Nàng con nhà nghèo nhưng nhờ có chút nhan sắc nàng lấy được chồng là một nho sinh con nhà giàu có. Bi kịch mà Thị Kính phải gánh chịu là do chính nàng hành xử tuỳ tiện. Trong trích đoạn này ta thấy Thị Kính bị oan uổng. Trong sáu lần khóc van xin thì có đến bốn lần nàng cầu khẩn mẹ chồng soi xét, nhưng mẹ chồng nàng đều gạt phắt đi. Thực tế ta thấy rằng trong đoạn trích này chủ yếu là lời chửi rủa của Sùng bà, cứ sau mỗi hồi chửi bới hạ nhục thì lại có một hồi Thị Kính kêu oan cho mình. Nàng muốn nói mà không nói được, không có ai chịu nghe lời nàng nói. Bị vu oan, xua đuổi, hành hạ đến mức tột cùng. Tâm trạng bực tức Sùng bà trút lên Thị Kính và không còn cách nào khác nàng phải hứng chịu nỗi oan khiên đó.

Hai nhân vật hoàn toàn đối lập nhau về tính cách. Sùng bà là đại diện cho giai cấp thống trị, cho lễ giáo phong kiến hà khắc, cổ hủ, cho tầng lớp trên. Còn Thị Kính thì nghèo hèn, hạ lưu. Nàng bị dồn vào bước đường cùng không lối thoát.

Chính những xung đột giữa hai nhân vật đã làm cho đoạn chèo đầy kịch tính, gây sự phản kháng đối với Sùng bà và lòng thương cho nỗi oan của Thị Kính. Tuy xung đột kịch còn chút sơ lược, chưa sâu sắc nhưng đoạn trích Nỗi oan hại chồng trong vở chèo Quan Âm Thị Kính đã gây ấn tượng mạnh cho người xem. Và vở chèo này thật xứng đáng được coi là vở chèo hay nhất trên sân khấu chèo Việt Nam ta.

chúng tôi

Soạn Bài Quan Âm Thị Kính

Soạn bài Quan Âm Thị Kính

Bố cục:

+ – Phần 1 (từ đầu đến “thiếp xén tày một mực”): Thị Kính xén chiếc râu mọc ngược dưới cằm cho chồng.

+ – Phần 2 (tiếp theo đến “về cùng cha con ơi”): Nhà chồng một mực vu cho Thị Kính giết chồng, nàng không thể minh oan, cùng cha là Mãng ông trở về nhà.

+ – Phần 3 (đoạn còn lại): Thị Kính từ biệt cha mẹ, quyết định giả dạng nam nhi tu hành.

Hướng dẫn soạn bài

Câu 1 (Trang 120 sgk ngữ văn 7 tập 2)

Tóm tắt

Thị Kính là người con gái nết na, xinh đẹp nhà Mãng Ông được gả cho Thiện Sĩ, học trò dòng dõi thi thư. Trong một đêm Thị Kính đang vá áo nhìn chồng ngủ thấy sợi dâu mọc ngược, sẵn con dao nàng định xén đi thì Thiện Sĩ tỉnh giấc gạt tay vợ và la toáng lên. Mẹ chồng vào nghe lời kể nghi oan cho Thị Kính âm mưu giết chồng thì mắng chửi và đuổi Thị Kính về nhà bố mẹ đẻ. Thị Kính giả nam, xin vào chùa tu được đặt là Kính Tâm

Bấy giờ trong làng có cô Thị Mầu nổi tiếng lẳng lơ dụ dỗ Kính Tâm không được thì dan díu với anh điền trong nhà. Thị Mầu mang thai, bị làng bắt phạt nên khai liều là của Kính Tâm. Thị Mầu sinh con mang tới chùa đổ vạ, Thị Kính suốt 3 năm trời ròng rã xin sữa nuôi con, cuối cùng thân tàn lực kiệt, viết thư để lại cho cha mẹ rồi chết đi. Cuối cùng mọi người mới biết Kính Tâm là nữ, bèn lập đàn giải oan cho nàng. Nàng hóa thành Phật bà Quan âm Thị Kính.

Câu 2 (trang 103 sgk ngữ văn 7 tập 2)

Đọc kĩ đoạn trích và xem chú thích.

Câu 3 (trang 103 sgk ngữ văn 7 tập 2)

Trong đoạn trích có năm nhân vật: Thị Kính, Thiện Sĩ, Sùng ông, Sùng bà, Mãng ông.

– Nhân vật Thị Kính và Sùng bà là hai nhân vật tạo xung đột chính của đoạn trích:

+ Sùng bà: kiểu nhân vật mụ ác, đại diện cho giai cấp thống trị thời phong kiến

+ Thị Kính: nhân vật nữ chính, tiêu biểu cho người dân thường, vốn chịu nhiều thiệt thòi trong xã hội cũ

Câu 4 (Trang 120 sgk ngữ văn 7 tập 2)

Cảnh đầu đoạn trích là cảnh Thị Kính ngồi khâu, Thiện Sĩ đọc sách

→ Gợi lên không khí đầm ấm, hạnh phúc

– Cử chỉ và lời nói của nhân vật Thị Kính:

+ Thị Kính dọn lại kỉ rồi quạt cho chồng ngủ

+ Thị Kính chăm chú nhìn chồng và phát hiện sợi râu mọc ngược

+ Thị Kính lấy dao định xén chiếc râu đó

→ Hành động của Thị Kính hết sức tự nhiên, chứng tỏ tình cảm chân thành và hết mực yêu chồng

Câu 5 (trang 120 sgk ngữ văn 7 tập 2)

Hành động và ngôn ngữ Sùng bà là hiện lên là người kẻ tàn nhẫn, độc ác, coi thường người lao động hiền lành:

– Hành động:

+ Dúi đầu Thị Kính xuống, bắt Thị Kính phải ngửa mặt lên ( kiểu hạ nhục người khác)

+ Chửi mắng Thị Kính, không cho nàng được thanh minh

+ Hất tay đẩy Thị Kính ngã khuỵu xuống đất, nhất quyết trả Thị Kính về gia đình

– Lời nói:

+ Đay nghiến, nhiếc mắng Thị Kính

+ Lời mắng nhiếc của Sùng bà luôn nhấn mạnh tới sự đối lập đến giai cấp, sự không “môn đăng hộ đối” giữa hai gia đình

→ Mụ Sùng là người tàn nhẫn, độc ác, hợm hĩnh, tự coi mình là tầng lớp trên nên bà coi thường người khác, nhất là người lao động

Câu 6 (trang 120 sgk ngữ văn 7 tập 2)

Thị Kính kêu oan 5 lần

– 4 lần kêu oan đầu tiên đến mẹ chồng và chồng (Oan con lắm mẹ ơi! Oan cho thiếp lắm chàng ơi!)

+ Lời kêu oan không được thấu tỏ do:

+ Thiện Sĩ là kẻ bạc nhược, đớn hèn còn mụ Sùng thì hiển nhiên không muốn chấp nhận Thị Kính

– Lần thứ năm lời kêu oan của Thị Kính nhận được sự cảm thông, thấu hiểu của Mãng ông

+ Mãng ông dù biết con gái bị oan nhưng chỉ là người nông dân nghèo không thể giúp đỡ con gái

Câu 7 (trang 120 sgk ngữ văn 7 tập 2)

– Trước khi đuổi Thị Kính ra khỏi nhà, mụ Sùng còn bày ra một màn kịch độc ác nhằm làm cho cha con Thị Kính nhục nhã, ê chề.

+ Lừa Mãng ông sang “ăn cữ cháu” sau đó vu oan cho Thị Kính “nửa đêm cầm dao giết chồng”

+ Gọi Mãng ông sang sau đó dúi ngã Mãng ông để cự tuyệt quan hệ thông gia và bỏ vào nhà

– Hình ảnh hai cha con ôm nhau của những người chịu oan, đau khổ hoàn toàn bất lực

→ Tình cảnh thống khổ của những người nông dân nghèo trước sự cay nghiệt của bọn thống trị.

Câu 8 (trang 120 sgk ngữ văn 7 tập 2)

Tâm trạng của Thị Kính trước khi rời khỏi nhà Sùng bà nàng hát:

“Thương ôi… gối lẻ loi”

– Các cặp từ đối lập bấy lâu- bỗng, sắt cầm- chăn gối lẻ loi… : sắc thái ý nghĩa đối lập diễn tả hai trạng thái trái ngược nhau chuyển đổi đột ngột

+ Từ cuộc sống hòa hợp đầm ấm đến tình cảnh chia lìa

→ Bị đẩy khỏi thế giới quen thuộc, người phụ nữ bỗng hóa bơ vơ giữa cái vô định cuộc đời.

– Thị Kính giả trai vào tu trong chùa càng khẳng định nàng không có lối thoát

+ Quan niệm về định mệnh, cho rằng sự khổ cực là do số kiếp nên quay về cửa Phật tìm lối giải thoát, tu tâm tích đức.

Luyện tập

Bài 1 (trang 121 sgk ngữ văn 7 tập 2)

Tóm tắt

Thiện Sĩ ngồi đọc sách thì thiu thiu ngủ, Thị Kính ngồi khâu bên cạnh nhìn thấy chồng có chiếc râu mọc ngược thì lấy dao khâu định xén đi. Thiện Sĩ chợt tỉnh thì hô toáng lên. Rồi mặc cho Thị Kính hết lời van xin, Sùng ông, Sùng Bà đánh đuổi Thị Kính về nhà Mãng ông. Sau khi làm cho hai bố con Mãng ông nhục nhã, khổ sở hai vợ chồng nhà Sùng bỏ vào nhà mặc cho hai bố con ôm nhau khóc rồi đưa nhau về.

Bài 2 (trang 121 sgk ngữ văn 7 tập 2)

Trích đoạn “Nỗi oan hại chồng” thể hiện những phẩm chất tốt đẹp cùng nỗi oan bi thảm, nghiệt ngã của người phụ nữ đối lập giai cấp:

– Thành ngữ “oan Thị Kính” để nói về nỗi oan khiên không thể giãi bày, thanh minh

– Mở đầu trích đoạn là khung cảnh gia đình ấm cúng, lời nói và cử chỉ của Thị Kính làm bật lên hình ảnh người phụ nữ

– Thị Kính rời khỏi nhà Sùng bà trong mối đau khổ và bất lực, tan vỡ hạnh phúc.

– Thị Kính giả trai đi tu, vừa để tự thanh minh vừa để thoát tục

Ý nghĩa – Nhận xét

Qua trích đoạn “Nỗi oan hại chồng”, học sinh nhận ra được những giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc trong tác phẩm: lời bênh vực cho những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ, lời đồng cảm với tình cảnh bất hạnh của học đồng thời tác phẩm gay gắt phê phán xã hội phong kiến đã đẩy người phụ nữ vào cảnh ngộ oan khuất, bi thảm.

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng….miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Nhóm học tập facebook miễn phí cho teen 2k8: chúng tôi

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Hướng Dẫn Soạn Bài Quan Âm Thị Kính

Vở chèo Quan Âm Thị Kính nói chung và trích đoạn Nỗi oan hại chồng nói riêng là vở diễn và trích đoạn chèo rất tiêu biểu của sân khấu chèo truyền thống. Vở chèo và trích đoạn này thể hiện được những phẩm chất tốt đẹp cùng nỗi oan bi thảm, bế tắc của người phụ nữ và những đối lập giai cấp thông qua xung đột gia đình, hôn nhân trong xã hội phong kiến.

Hướng dẫn soạn văn 7 bài Quan Âm Thị Kính

I. Sơ lược về tác phẩm 1. Thể loại

Chèo là loại kịch hát, múa dân gian, kể chuyện, diễn tích bằng hình thức sân khấu và trước kia thường được diễn ở sân đình nên còn gọi là chèo sân đình. Chèo nảy sinh và được phổ biến rộng rãi ở Bắc Bộ.

2. Tác phẩm

Văn bản Quan Âm Thị Kính là phần lời (kịch bản) của một vở chèo – một loại hình văn nghệ dân gian kết hợp nhiều hình thức như hát, múa, diễn tích, kể chuyện,… được trình bày trên sân khấu (còn gọi là chiếu chèo).

Tuy chỉ là kịch bản sân khấu nhưng Quan Âm Thị Kính (và trích đoạn Nỗi oan hại chồng) cũng thể hiện được những giá trị nghệ thuật nhất định, phần nào giúp chúng ta hiểu được những đặc điểm cơ bản của nghệ thuật chèo, nhất là về nội dung tư tưởng: những vấn đề mà vở chèo nêu ra, những mâu thuẫn và xung đột trong xã hội cũ, nỗi khổ của người phụ nữ,…

II. Soạn bài Quan âm thị kính phần Đọc – hiểu (SGK tr. 120)

. Đọc kĩ tóm tắt nội dung vở chèo Quan Âm Thị Kính.

Trả lời:

Tóm tắt vở chèo:

Thị Kính là người con gái nết na, xinh đẹp nhà Mãng Ông được gả cho Thiện Sĩ, học trò dòng dõi thi thư. Trong một đêm Thị Kính đang vá áo nhìn chồng ngủ thấy sợi dâu mọc ngược, sẵn con dao nàng định xén đi thì Thiện Sĩ tỉnh giấc gạt tay vợ và la toáng lên. Mẹ chồng vào nghe lời kể nghi oan cho Thị Kính âm mưu giết chồng thì mắng chửi và đuổi Thị Kính về nhà bố mẹ đẻ. Thị Kính giả nam, xin vào chùa tu được đặt là Kính Tâm. Bấy giờ trong làng có cô Thị Mầu nổi tiếng lẳng lơ dụ dỗ Kính Tâm không được thì dan díu với anh điền trong nhà. Thị Mầu mang thai, bị làng bắt phạt nên khai liều là của Kính Tâm. Thị Mầu sinh con mang tới chùa đổ vạ, Thị Kính suốt 3 năm trời ròng rã xin sữa nuôi con, cuối cùng thân tàn lực kiệt, viết thư để lại cho cha mẹ rồi chết đi. Cuối cùng mọi người mới biết Kính Tâm là nữ, bèn lập đàn giải oan cho nàng. Nàng hóa thành Phật bà Quan âm Thị Kính.

và các chú thích để hiểu văn bản và các từ ngữ khó.

Trích đoạn Nỗi oan hại chồng có mấy nhân vật? Những nhân vật nào là nhân vật chính thể hiện xung đột kịch? Những nhân vật đó thuộc các loại vai nào trong chèo và đại diện cho ai?

Trả lời:

– Đoạn trích Nỗi oan hại chồng có tất cả 5 nhân vật: Thiện Sĩ, Thị Kính, Sùng ông, Sùng bà, Mãng ông.

– Tất cả các nhân vật trên đều tham gia vào quá trình tạo nên xung đột kịch. Nhưng có hai nhân vật chính thể hiện xung đột là Sùng bà và Thị Kính:

+ Sùng bà thuộc loại nhân vật “mụ ác”, đại diện cho tầng lớp địa chủ phong kiến;

+ Thị Kính thuộc loại nhân vật “nữ chính”, đại diện cho phụ nữ lao động, người dân thường vốn chịu nhiều thiệt thòi trong xã hội cũ

Khung cảnh ở phần đầu đoạn trích là khung cảnh gì? Qua lời nói và cử chỉ của Thị Kính ở đây, em có nhận xét gì về nhân vật này?

Trả lời:

Khung cảnh ở phần đầu đoạn trích là cảnh sinh hoạt gia đình ấm cúng, tuy không gần gũi và phổ biến với nhân dân như cảnh “thiếp nón, chàng tơi”, “chồng cày, vợ cấy” nhưng cũng là ước mơ về hạnh phúc gia đình của nhân dân.

– Thị Kính ngồi khâu, Thiện Sĩ đọc sách

– Cử chỉ và lời nói của nhân vật Thị Kính:

+ Thị Kính dọn lại kỉ rồi quạt cho chồng ngủ

+ Thị Kính chăm chú nhìn chồng và phát hiện sợi râu mọc ngược

+ Thị Kính lấy dao định xén chiếc râu đó

Trả lời:

Hành động và ngôn ngữ Sùng bà là hiện lên là người kẻ tàn nhẫn, độc ác, coi thường người lao động hiền lành:

– Hành động:

+ Dúi đầu Thị Kính xuống, bắt Thị Kính phải ngửa mặt lên (kiểu hạ nhục người khác)

+ Chửi mắng Thị Kính, không cho nàng được thanh minh

+ Hất tay đẩy Thị Kính ngã khuỵu xuống đất, nhất quyết trả Thị Kính về gia đình.

– Lời nói:

+ Đay nghiến, nhiếc mắng Thị Kính

+ Lời mắng nhiếc của Sùng bà luôn nhấn mạnh tới sự đối lập đến giai cấp, sự không “môn đăng hộ đối” giữa hai gia đình.

Trong đoạn trích, mấy lần Thị Kính kêu oan? Kêu oan với ai? Khi nào lời kêu oan của Thị Kính mới nhận được sự cảm thông? Em có nhận xét gì về sự cảm thông đó?

Trả lời:

Trong trích đoạn, Thị Kính kêu oan đến năm lần, trong đó có bốn lần tiếng kêu oan hướng về mẹ chồng và chồng:

– Giời ơi Mẹ ơi, oan cho con lắm, mẹ

– Oan cho con lắm mẹ ơi!

– Oan cho thiếp lắm chàng ơi!

– Mẹ xét tình cho con, oan con lắm mẹ ơi!

Bốn lần kêu oan trên đều vô ích. Chồng nhu nhược, mẹ chồng cay nghiệt nên càng kêu, nỗi oan của nàng càng đầy.

Lần kêu oan thứ năm, lần cuối là kêu với Mãng ông (cha đẻ). Thị Kính mới nhận được sự thông cảm. Nhưng đó là sự cảm thông đau khổ và bất lực. Mãng ông dù biết con gái bị oan nhưng chỉ là người nông dân nghèo không thể giúp đỡ con gái. Cuối cùng nỗi oan không được giải và Thị Kính bị đuổi ra khỏi nhà chồng.

Trả lời:

– Trước khi đuổi Thị Kính ra khỏi nhà, mụ Sùng còn bày ra một màn kịch độc ác nhằm làm cho cha con Thị Kính nhục nhã, ê chề. Mụ lừa Mãng ông sang ăn cữ cháu, thực ra bắt ông sang nhận con về, làm cho cha con Mãng ông nhục nhã. Hơn thế, còn thể hiện bằng những hành động vũ phu với cha con họ.

+ Lừa Mãng ông sang “ăn cữ cháu” sau đó vu oan cho Thị Kính “nửa đêm cầm dao giết chồng”

+ Gọi Mãng ông sang sau đó dúi ngã Mãng ông để cự tuyệt quan hệ thông gia và bỏ vào nhà

Đây là chỗ xung đột kịch tập trung cao nhất. Trên sân khấu chỉ còn lại hai cha con lẻ loi. Thị Kính thì bị đẩy vào chỗ cực điểm của nỗi đau: gia đình chồng nghi oan, hạnh phúc tan vỡ, cha bị hành hạ, khinh bỉ.

– Hình ảnh hai cha con ôm nhau của những người chịu oan, đau khổ hoàn toàn bất lực. Sự bố trí dồn dập, xô đẩy, kéo dài những tình tiết kịch của sân khấu đây mang nhiều ý nghĩa.

Qua cử chỉ và ngôn ngữ của nhân vật, hãy phân tích tâm trạng của Thị Kính trước khi rời khỏi nhà Sùng bà. Việc Thị Kính quyết tâm “trá hình nam tử bước đi tu hành” có ý nghĩa gì? Đó có phải là con đường giúp nhân vật thoát khỏi đau khố trong xã hội cũ không?

Trả lời:

Qua cử chỉ, ngôn ngữ nhân vật, tâm trạng Thị Kính trước khi rời khỏi nhà Sùng bà: đau đớn vì bằng chứng của tình thủy chung bây giờ là dấu vết của sự thất tiết.

“Thương ôi… gối lẻ loi”

– Các cặp từ đối lập bấy lâu – bỗng, sắt cầm – chăn gối lẻ loi … : sắc thái ý nghĩa đối lập diễn tả hai trạng thái trái ngược nhau chuyển đổi đột ngột.

– Việc Thị Kính giả trai vào tu trong chùa càng khẳng định nàng không có lối thoát

+ Quan niệm về định mệnh, cho rằng sự khổ cực là do số kiếp nên quay về cửa Phật tìm lối giải thoát, tu tâm tích đức.

– Việc Thị Kính “trá hình nam tử đi tu hành” có ý nghĩa là giải thoát. Con đường giải thoát có hai mặt:

+ Tích cực: muốn sống ở đời để tỏ rõ con người đoan chính.

+ Tiêu cực: cho rằng mình khổ do số kiếp, tìm cửa Phật để tu tâm.

Đây không phải là con đường giúp nhân vật thoát khỏi đau khổ trong xã hội cũ vì người phụ nữ này chưa đủ bản lĩnh vượt lên hoàn cảnh, cam chịu bằng sự chịu đựng nhẫn nhục. Thị Kính có đấu tranh nhưng mới chỉ dừng ở những lời trách móc số phận và ước muốn “nhật nguyệt sáng soi”.

III. Soạn bài Quan âm thị kính phần Luyện tập

. Tóm tắt ngắn gọn đoạn trích ” Nỗi oan hại chồng “.

Trả lời:

Vào một buổi tối, Thiện Sĩ đọc sách rồi thiu thiu ngủ. Thị Kính ngồi may vá bên cạnh rồi quạt cho chồng. Trong lúc đó, nàng đã phát hiện ra dưới cằm chồng có cái râu mọc ngược. Nàng nghĩ đây là điềm chẳng lành, nên đã cầm dao khâu định xén nó đi. Chưa kịp xén thì Thiện Sĩ giật mình tỉnh dậy và hô hoán lên. Sùng ông và Sùng bà vốn không ưa Thị Kính nên đã đay nghiến, mắng nhiếc và đổ cho Thị Kính tội giết chồng. Mặc cho Thị Kính một mặt kêu oan, van xin nhưng Sùng ông và Sùng bà đã gọi Mãng ông (bố Thị Kính) sang và làm cho hai cha con phải nhục nhã, khổ sở. Quá đau khổ vì uất ức, Thị Kính lạy cha mẹ rồi giả trai, chọn kiếp tu hành, nương nhờ ở cửa Phật.

Trả lời:

Trích đoạn Nỗi oan hại chồng thể hiện những phẩm chất tốt đẹp cùng nỗi oan bi thảm, nghiệt ngã của người phụ nữ đối lập giai cấp:

– Mở đầu trích đoạn là khung cảnh gia đình ấm cúng, lời nói và cử chỉ của Thị Kính làm bật lên hình ảnh người phụ nữ

– Thị Kính rời khỏi nhà Sùng bà trong mối đau khổ và bất lực, tan vỡ hạnh phúc.

– Thị Kính giả trai đi tu, vừa để tự thanh minh vừa để thoát tục

Thành ngữ “oan Thị Kính” để nói về nỗi oan khiên không thể giãi bày, thanh minh.

III. Soạn bài Quan âm thị kính ngắn nhất

Đọc- Hiểu

Câu 1 + 2: Học sinh tự đọc

Trích đoạn Nỗi oan hại chồng có năm nhân vật : Thị Kính, Thiện Sĩ, Sùng ông, Sùng bà, Mãng ông. Tuy nhiên nhân vật chính thể hiện xung đột kịch chỉ có Thị Kính và Sùng bà.

Sùng bà thuộc loại nhân vật mụ ác đại diện tầng lớp địa chủ phong kiến. Thị Kính thuộc loại nhân vật nữ chính đại diện cho người phụ nữ lao động, dân thường.

Khung cảnh ở phần đầu trích đoạn là khung cảnh sinh hoạt gia đình đầm ấm. Qua lời nói và cử chỉ của Thị Kính, ta thấy nhân vật này là một người phụ nữ hết lòng thương yêu chồng, chân thật và tự nhiên.

– Hành động của Sùng bà : dúi đầu Thị Kính xuống, bắt Thị Kính ngửa mặt lên, không cho Thị Kính phân bua, dúi tay đẩy Thị Kính ngã khuỵu xuống, …

– Ngôn ngữ của Sùng bà với Thị Kính: đay nghiến, mắng nhiếc thậm tệ. Trong lời mắng chửi luôn mang nặng tư tưởng khác biệt giai cấp, “môn đăng hộ đối” :

+ Giống phượng giống công.

+ Còn tuồng bay mèo mả gà đồng lẳng lơ.

+ Nhà bà đây cao môn lệnh tộc.

+ Mày là con nhà cua ốc.

Đoạn trích có năm lần Thị Kính kêu oan với bốn lần lời kêu oan hướng về chồng và mẹ chồng nhưng chẳng nhận được sự cảm thông. Chỉ đến lần kêu oan thứ năm-lần kêu oan với cha ruột Mãng ông thì tiếng oan mới nhận được cảm thông, tuy rằng đó là lời thở than đau khổ và bất lực.

Trước khi đuổi Thị Kính ra khỏi nhà, Sùng bà và Sùng ông còn làm việc tàn nhẫn :

– Lừa Mãng ông sang cữ cháu ngoại, kì thực là bắt Mãng ông sang nhận con gái về.

– Khi Mãng ông đang hoang mang chưa rõ chuyện, Sùng ông còn giúi ngã Mãng ông một cách thô bạo.

* Xung đột kịch cao nhất ở cảnh Mãng ông bị giúi ngã. Thị Kính chạy lại đỡ cha hai cha con ôm nhau than khóc, Thị Kính bị đẩy lên tột cùng nỗi đau : oan ức, tan vỡ gia đình mà còn liên lụy cha bị khinh bỉ, hành hạ.

– Tâm trạng Thị Kính trước khi rời khỏi nhà Sùng bà :

+ Lưu luyến, đau khổ khi phải xa chồng, khi chịu oan ức.

+ Ngậm ngùi xót xa cho duyên phận hẩm hiu, số phận bất hạnh của mình.

– Việc Thị Kính quyết tâm “trá hình nam tử bước đi tu hành” có ý nghĩa như một con đường giải thoát :

+ Tích cực : phải tiếp tục sống ở đời mới mong tỏ rõ người đoan chính.

+ Tiêu cực : cho rằng mình khổ do số kiếp nên tìm đến cửa Phật. Đó chỉ là hành động cam chịu chứ không phải đấu tranh.

Luyện tập

Tóm tắt trích đoạn “Nỗi oan hại chồng” :

Thị Kính (con nhà nông dân nghèo) bị mẹ chồng (Sùng bà), Sùng ông, chồng kết tội giết chồng chỉ vì Thị Kính dùng chiếc dao khâu có ý xén chiếc râu mọc ngược trên cằm chồng. Nỗi oan thống không được giải, Thị Kính bị đuổi và quyết định “trá hình nam tử bước đi tu hành”.

– Chủ đề đoạn trích:Nnhững phẩm chất tốt đẹp cùng nỗi oan bi thảm, bế tắc của người phụ nữ và những đối lập giai cấp qua xung đột gia đình, hôn nhân.

– Thành ngữ “Oan Thị Kính” :

+ Nỗi oan những người phụ nữ đoan chính.

+ Nỗi oan quá lớn, không có cách nào giãi bày, cũng không có sự cảm thông.

-/-

Tâm Phương (Tổng hợp)

Tóm Tắt Vở Chèo Quan Âm Thị Kính

Mãng Ông có con gái là Thị Kính đến tuổi lấy chồng, song chưa gả cho ai. Thiện Sĩ, học trò, dòng dõi thi thư, đến xin làm rể. Ông bằng lòng cho họ nên vợ nên chồng. Ở nhà Thiện Sĩ chăm chỉ học bài, Thị Kính bên cạnh miệt mài vá may. Đến đêm khuya chàng mệt, ngả lưng yên giấc. Nhìn cằm chồng có chiếc râu mọc ngược, sẵn có dao bén, nàng cầm lấy, định dùng để xén nó đi. Bất ngờ Thiện Sĩ choàng tỉnh thấy thế gạt tay vợ, đứng dậy hét toáng lên thất thần. Mẹ chồng chạy vào, nghe con trai kể, tưởng là con dâu định giết chồng, bèn mắng chửi và đuổi về nhà cha mẹ đẻ. Nàng nghĩ thương thân xót phận đành thay dạng nam nhi, xin vào chùa đi tu, được Sư Cụ nhận lời, đặt cho hiệu là Kính Tâm .

Trong làng có Thị Mầu con của một vị trưởng giả giàu có ở vùng ấy, thấy tiểu Kính Tâm đẹp người tốt nết, liền tìm mọi cách dụ tiểu xiêu lòng. Bị cự tuyệt Thị Mầu thất tình về nhà dan díu với anh lực điền. Phú ông bắt gặp, sợ mang tiếng với dân làng hàng xóm bèn cho tiền và đuổi anh ta ra khỏi làng.

Thị Mầu mang thai bị làng ngả vạ và bị gọi ra tra hỏi, thị chối quanh nhưng về sau lại đổ cho Kính Tâm. Làng mời Sư Cụ và Tiểu Kính đối chất. Tiểu một mực kêu oan, nhưng Mầu cứ đổ riệt, Kỉnh Tâm bị làng đem ra tra tấn, đòn bộng, máu đổ thịt rơi, mấy lần bất tỉnh, nhưng Kỉnh Tâm vẫn một mực kêu oan. Sư Cụ động mối từ tâm, đứng ra xin bảo lãnh cho trò để đem về khuyên nhủ dạy răn.

Thị Mầu sinh con mang trả nhà chùa. Tiểu Kính nhớ câu Phật dạy “Cứu nhất nhân đắc kì vạn Phúc” nên ẵm về nuôi. Hàng ngày Tiểu bế trẻ đi khắp nơi xin sữa nuôi dưỡng. Ròng rã 3 năm, sức tàn lực kiệt, tiểu viết thư để lại cho cha mẹ rồi hoá. Sau đó mọi người mới hay Tiểu là gái. Nhà chùa lập đàn giải oan cho nàng siêu sinh tịnh độ…

Và trong lúc trà tỳ mọi người đều trông thấy một vầng hào quang ngũ sắc trên bầu trời và trên vầng hào quang là một toà sen nhiều cánh có hình ảnh Bồ Tát Kính Tâm.

Tóm tắt vở chèo Quan âm Thị Kính – Bài làm 2

Thị Kính xinh tươi, là con gái của Mãng ông nhà nghèo. Thị Kính lấy Thiện Sĩ một nho sinh hơi đần, con trai của Sùng ông, Sùng bà giàu có. Một đêm khuya, Thiện Sĩ đọc sách rồi nằm lên kỉ thiu thiu ngủ, Thị Kính phe phẩy quạt cho chồng. Chị nhìn thấy một chiếc râu mọc ngược dưới cẳm chồng, Thị Kính bèn lấy con dao khâu xén chiếc râu ấy đi. Thiện Sĩ chợt giật mình choàng thức, hốt hoảng túm lấy con dao hô hoán lên: “Hỡi cha! Hỡi mẹ! Hỡi làng! Đêm khuya khoắt bổng làm sao thấy bất thường!”…Thị Kính bị Sùng bà vu cho tội định giết chồng, chửi mắng, nhiếc móc, vùi dập thậm tệ, rồi đuổi Thị Kính về nhà bố mẹ đẻ.

Đau khổ và bế tắc, Thị Kính cắt tóc, cải dạng con trai, vào tu ờ chùa Vân Tự, Thị Mầu con gái phú ông rất lẳng lơ, mê đắm chú tiểu Kính Tâm; ve vãn mãi mà vẫn không được. Sau dó Thị Mầu chửa hoang với anh Nô, kẻ đi đợ. Làng phạt vạ. Thị Mầu vu cho tiểu Kính Tâm. Kính Tâm bị đuổi ra cổng chùa, Thị Mầu trao đứa con hoang cho Kính Tâm.

Suốt ba năm trời Kính Tâm âm thầm chịu đựng và nhẫn nhục đi xin sữa nuôi con cho Thị Mầu. Trời Phật độ lòng, cho Kính Tâm được hoá thành Phật Bà Quan Âm lên toà sen (cõi Phật). Bấy giờ mọi người mới biết tiểu Kính Tâm là gái và hiểu rõ lòng nhẫn nhục, đức hi sinh cực độ của Thị Kính.

Tóm tắt vở chèo Quan âm Thị Kính – Bài làm 3

Thiện Sĩ ngồi đọc sách rồi thiu thiu ngủ. Thị Kính ngồi khâu bên cạnh, thấy một sợi râu chồng mọc ngược, cho là không tốt, định lấy dao khâu xén đi. Ngờ đâu Thiện Sĩ giật mình tỉnh dậy hô hoán lên. Sùng ông, Sùng bà vốn không ưa Thị Kính, thấy thế bèn vu cho Thị Kính tội có ý giết chồng. Rồi mặc cho Thị Kính tha hồ van xin, Sùng ông, Sùng bà đuổi Thị Kính về nhà bố mẹ đẻ. Sùng ông gọi Mãng ông (bố Thị Kính) sang. Sau khi làm cho hai bố con phải nhục nhã, khổ sở, hai vợ chồng bỏ vào nhà trong để mặc hai bố con ôm nhau than khóc rồi đưa nhau về.

Bạn đang đọc nội dung bài viết Xung Đột Trong Đoạn Trích: Nỗi Oan Hại Chồng (Trích Quan Âm Thị Kính). trên website Athena4me.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!