Top 6 # Xem Nhiều Nhất Zoom Văn Bản Mới Nhất 3/2023 # Top Like | Athena4me.com

Hướng Dẫn Thay Đổi Ngôn Ngữ Trên Ứng Dụng Zoom Meetings

Bạn có thể thay đổi ngôn ngữ hiển thị trên ứng dụng Zoom của bạn. Các ngôn ngữ sau được hỗ trợ cho các máy khách Zoom:

Trên máy khách Android và iOS, ngôn ngữ của Zoom được xác định bởi ngôn ngữ hệ điều hành mặc định.

Điều kiện tham gia

Phiên bản PC 3.5.53922.0613 trở lên

Phiên bản Mac 3.5.53922.0613 trở lên

Phiên bản Linux 2.0.0790.1031 trở lên

Hướng dẫn chuyển đổi ngôn ngữ Zoom trên Windows, Mac, Linux, Web, iOS, Android

1. Chọn ^ trong thanh tác vụ Windows. 2. Nhấp chuột phải vào biểu tượng Zoom trong khay thông báo. 3. Di chuột qua Switch Languages . 4. Chọn ngôn ngữ mong muốn. Zoom sẽ khởi động lại và bạn sẽ cần phải đăng nhập lại.

1. Nhấp chuột phải hoặc nhấp chuột tùy chọn vào biểu tượng Zoom trong thanh công cụ của bạn. 2. Di chuột qua Switch Languages . 3. Chọn ngôn ngữ bạn muốn hiển thị trong zoom 4. Xác nhận rằng bạn muốn thay đổi ngôn ngữ. Zoom sẽ khởi động lại và bây giờ là ngôn ngữ bạn chọn.

1. Mở Ứng dụng Zoom và đăng nhập. 2. Nhấp vào ảnh hồ sơ của bạn sau đó nhấp vào Cài đặt . 3. Chọn Switch Languages và nhấp vào ngôn ngữ bạn muốn sử dụng. Thao tác này sẽ đóng ứng dụng Zoom và khi bạn mở lại, ứng dụng sẽ ở ngôn ngữ mong muốn.

Zoom.us tự động hiển thị bằng ngôn ngữ trình duyệt mặc định của bạn. Tuy nhiên, bạn có thể thay đổi ngôn ngữ nếu cần. 1. Cuộn xuống dưới cùng của trang bất kỳ chúng tôi . 2. Bên dưới nơi nó nói Language, nhấp vào menu thả xuống. 3. Chọn ngôn ngữ của bạn. 4. Trang sẽ ngay lập tức thay đổi thành ngôn ngữ bạn đã chọn. Nếu bạn thay đổi ngôn ngữ của mình tại chúng tôi trong khi bạn đăng nhập vào tài khoản zoom của mình. Nó cũng sẽ tự động thay đổi trong hồ sơ của bạn. Tuy nhiên, nếu bạn muốn cài đặt tài khoản và tài khoản của mình luôn hiển thị bằng một ngôn ngữ cụ thể khi bạn đăng nhập vào Zoom trên web, bạn có thể đặt ngôn ngữ trong hồ sơ của mình.

Để thay đổi ngôn ngữ trong hồ sơ của bạn:

1. Đăng nhập vào cổng thông tin web Zoom và điều hướng đến My Profile. 2. Bên cạnh Language, nhấp vào Edit 3. Chọn ngôn ngữ của bạn từ menu thả xuống. 4. Nhấp vào Lưu Thay đổi .

Trên iOS, ngôn ngữ của Zoom được xác định bởi ngôn ngữ hệ điều hành mặc định. Để thay đổi ngôn ngữ trong Zoom, bạn sẽ cần thay đổi ngôn ngữ hệ điều hành. Để thay đổi ngôn ngữ hệ điều hành 1. Mở Cài đặt trên thiết bị iOS của bạn. 2. Cuộn xuống và nhấn General 3. Cuộn xuống và nhấn Language & Region 4. Nhấn iPhone/iPad Language 5. Chọn ngôn ngữ bạn muốn. 6. Nhấn Done. Ngôn ngữ cho thiết bị của bạn hiện đã được thay đổi. Sau khi khởi động lại, Zoom sẽ sử dụng ngôn ngữ mới.

Trên Android, ngôn ngữ của Zoom được xác định bởi ngôn ngữ hệ điều hành mặc định. Để thay đổi ngôn ngữ trong Zoom, bạn sẽ cần thay đổi ngôn ngữ hệ điều hành. Để thay đổi ngôn ngữ hệ điều hành 1. Mở Cài đặt trên thiết bị Android của bạn. 2. Nhấn Ngôn ngữ và Nhập liệu . 3. Nhấn vào ngôn ngữ mới. Zoom sẽ tự động sử dụng ngôn ngữ mới.

Hướng Dẫn Cách Chia Sẻ Màn Hình Phần Mềm Zoom Trên Windows Và Mac

Zoom cho phép chia sẻ màn hình trên máy tính để bàn, máy tính bảng và thiết bị di động chạy Zoom.

– Chủ nhà và người tham dự có thể chia sẻ màn hình. Bằng cách nhấp vào biểu tượng Chia sẻ màn hình .

– Chủ nhà không cần phải “chuyền bóng” hay “biến người khác thành người dẫn chương trình” để chia sẻ.

– Chủ nhà có thể “khóa chia sẻ màn hình” để người tham dự không thể chia sẻ màn hình.

Điều kiện

Zoom desktop client

Zoom mobile app

Hướng dẫn chia sẻ màn hình trên windows và Mac

Chia sẻ màn hình của bạn

1. Nhấp vào nút Chia sẻ màn hình nằm trong thanh điều khiển cuộc họp của bạn.

2. Chọn màn hình bạn muốn chia sẻ. Bạn cũng có thể chọn một ứng dụng riêng lẻ đã mở trên máy tính, máy tính để bàn, bảng trắng hoặc iPhone / iPad .

3. (Tùy chọn) Kích hoạt các tính năng này:

Kiểm tra chia sẻ âm thanh máy tính : Nếu bạn chọn tùy chọn này, mọi âm thanh phát từ máy tính của bạn sẽ được chia sẻ trong cuộc họp.

Kiểm tra Tối ưu hóa cho video clip toàn màn hình : Kiểm tra điều này nếu bạn sẽ chia sẻ một video clip ở chế độ toàn màn hình. Không kiểm tra điều này nếu không, vì nó có thể làm cho màn hình chia sẻ bị mờ.

4. Bấm Chia sẻ.

Chia sẻ màn hình Menu

Khi bạn bắt đầu chia sẻ màn hình của mình, các điều khiển cuộc họp sẽ chuyển sang một menu mà bạn có thể kéo xung quanh màn hình của mình.

Mute/Unmute: Tắt tiếng hoặc bật tiếng micrô của bạn.

Start/Stop Video: Bắt đầu hoặc dừng video trong cuộc họp của bạn.

Participants/Manage Participants: Xem hoặc quản lý người tham gia (nếu chủ nhà).

New Share: Bắt đầu chia sẻ màn hình mới. Bạn sẽ được nhắc chọn màn hình nào bạn muốn chia sẻ lại.

Pause Share: Tạm dừng màn hình chia sẻ hiện tại của bạn.

Annotate: Sử dụng các công cụ chia sẻ màn hình để vẽ, thêm văn bản, v.v.

More: Di chuột qua di chuyển cho các tùy chọn bổ sung

Chat: Mở cửa sổ trò chuyện.

Invite: Mời người khác tham gia cuộc họp.

Record: Bắt đầu ghi cục bộ hoặc lên đám mây .

Allow/Disable participants annotation: Cho phép hoặc ngăn người tham gia chú thích trên màn hình được chia sẻ của bạn .

Show/Hide Names of Annotators: Hiển thị hoặc ẩn tên của người tham gia khi họ chú thích trên một chia sẻ màn hình. Nếu được đặt thành hiển thị, tên của người tham gia sẽ hiển thị ngắn gọn bên cạnh chú thích của họ.

Live on Workplace by Facebook: Chia sẻ cuộc họp hoặc hội thảo trực tuyến trên Nơi làm việc của Facebook. Tìm hiểu thêm về phát trực tuyến một hội thảo trên web. Tìm hiểu thêm về phát trực tiếp một cuộc họp.

Optimize Share for Full-screen Video Clip: Bắt đầu tối ưu hóa cho một video clip ở chế độ toàn màn hình.Lưu ý : Không bật cài đặt này nếu bạn không chia sẻ video clip toàn màn hình, vì nó sẽ làm mờ chia sẻ màn hình của bạn.

End Meeting: Rời khỏi cuộc họp hoặc kết thúc cuộc họp cho tất cả những người tham gia.

Chú thích

Chọn Annotate để bắt đầu chú thích trên màn hình chia sẻ của bạn.

Điều này sẽ mở menu chú thích.

Bạn có thể sử dụng các công cụ chú thích sau:

Mouse: Vô hiệu hóa điều khiển chú thích và chuyển về con trỏ chuột của bạn.

Select: Chọn, di chuyển hoặc thay đổi kích thước chú thích của bạn.

Text: Chèn văn bản.

Draw: Chèn các dòng, mũi tên và hình dạng.

Stamp: Chèn các biểu tượng được xác định trước như dấu kiểm hoặc dấu sao.

Spotlight / Arrow : Biến con trỏ của bạn thành spotlight hoặc mũi tên.

Eraser: Nhấp và kéo để xóa các phần của chú thích của bạn.

Format: Thay đổi các tùy chọn định dạng của các công cụ chú thích.

Undo: Hoàn tác chú thích mới nhất của bạn.

Redo: Làm lại chú thích mới nhất của bạn mà bạn hoàn tác.

Clear: Xóa tất cả các chú thích.

Save: Lưu tất cả các chú thích trên màn hình dưới dạng ảnh chụp màn hình. Ảnh chụp màn hình được lưu vào vị trí ghi cục bộ.

Màn hình kép

Nếu bạn đang sử dụng thiết lập màn hình kép, bạn có thể bật tính năng Sử dụng màn hình kép để xem chia sẻ màn hình trên một màn hình và người tham gia trên màn hình thứ hai.

Điện thoại: 028 777 98 999

Hotline/Zalo: 0899 339 028

Email: info@vnsup.com

CÔNG TY TNHH CUNG ỨNG NGỌC THIÊN

Văn Bản Và Cấu Trúc Ngoài Văn Bản

Rất khó định nghĩa khái niệm văn bản. Trước hết, cần phải chống lại thói quen đồng nhất văn bản với quan niệm về chỉnh thể của tác phẩm nghệ thuật. Hoàn toàn không có cơ sở để đối lập, theo kiểu hết sức phổ biến hiện nay, giữa văn bản như một thứ hiện thực của các quan niệm, tư tưởng nào đó với sự hiểu biết được xem là cái gì đó rất đỏng đảnh và chủ quan trong toàn bộ cái vẻ bên ngoài của nó.

Là một mô hình thế giới cụ thể, một thông tin nào đó bằng ngôn ngữ nghệ thuật, tác phẩm nghệ thuật không thể tồn tại bên ngoài ngôn ngữ ấy, cũng như bên ngoài tất cả các ngôn ngữ giao tiếp xã hội khác. Với người đọc muốn dựa vào các bộ mã được lựa chọn tùy tiện và chủ quan để giải mã, nghĩa sẽ bị xuyên tạc nghiêm trọng, còn với người đọc muốn tiếp xúc với một văn bản bị tách ra khỏi tổng thể các mối liên hệ ngoài văn bản, thì tác phẩm sẽ chẳng còn là nhân tố đại diện cho bất kỳ một loại ý nghĩa nào. Toàn bộ các mã được hình thành trong quá trình lịch sử biến văn bản thành nhân tố biểu nghĩa bao giờ cũng có quan hệ với phạm vi của các mối liên hệ ngoài văn bản. Nhưng đó là những mối liên hệ rất thực tế. Tính thực tế của khái niệm “tiếng Nga” hoàn toàn không nhỏ hơn so với tính thực tế của khái niệm “văn bản bằng tiếng Nga”, dù đó là thực tế thuộc những loại khác nhau và phương pháp nghiên cứu chúng cũng khác nhau.

Các mối liên hệ ngoài tác phẩm có thể mô tả như là quan hệ giữa vô số yếu tố được định hình trong văn bản với vô số yếu tố mà từ đó có thể tiến hành lựa chọn một yếu tố khả dụng nào đấy. Rõ ràng, việc sử dụng một loại nhịp điệu nào đó trong một hệ thống không cho phép có ngoại lệ, trong hệ thống cho phép lựa chọn một khả năng thay thế, hoặc đưa ra 5 kiểu tổ chức câu thơ có giá trị ngang nhau, – sẽ cho chúng ta những cấu trúc nghệ thuật hoàn toàn khác nhau, dù về mặt vật chất, bình diện được định hình của tác phẩm – văn bản của nó, chẳng hề có gì thay đổi.

Nên nhớ, cấu trúc ngoài văn bản cũng có cấp độ giống như ngôn ngữ của tác phẩm nghệ thuật nói chung. Hơn nữa, khi nhập vào những tầng bậc khác nhau của trật tự cấp độ, yếu tố này hay yếu tố kia của văn bản có thể tham gia vào các mối liên kết khác nhau ngoài văn bản (tức là có một đại lượng biểu thị độ bất ổn định khác nhau). Chẳng hạn, nếu chúng ta xác định văn bản nào đó là một tác phẩm thơ Nga, thì ở đây, khả năng sử dụng mọi vận luật tiêu biểu cho câu thơ Nga nói chung đều có xác suất như nhau. Nếu chúng ta thu hẹp ranh giới biên niên của cấu trúc mà chúng ta sẽ liệt vào đấy một văn bản nào đó cho tới phạm trù “tác phẩm của một nhà thơ Nga thế kỷ XIX”, hay chúng ta làm như thế với một thể loại (“ballad”), thì xác suất sẽ thay đổi. Nhưng văn bản lại nhất loạt thuộc về tất cả các cấu trúc ấy, và đó là điều cần phải tính đến khi xác định mức độ bất ổn định của nó.

Việc đặc điểm của một văn bản thuộc về các thể loại, phong cách khác nhau, về thời đại, tác giả v.v… làm thay đổi mức độ bất ổn định của những yếu tố riêng lẻ của nó không chỉ buộc phải xem các mối liên hệ ngoài văn bản  như một cái gì đó hoàn toàn thực tế, mà còn chỉ ra một số cách thức làm thay đổi thực tế ấy.

Cần phân biệt các mối liên hệ ngoài văn bản ở cấp độ ngôn ngữ nghệ thuật và cấp độ thông báo nghệ thuật. Ở trên, chúng tôi đã dẫn ra những ví dụ về các mối liên hệ ngoài văn bản ở cấp độ ngôn ngữ nghệ thuật. Ở cấp độ thông báo nghệ thuật, đó là những trường hợp, khi việc không sử dụng yếu tố này hay yếu tố kia, sự vắng mặt có nghĩa, “thủ pháp-âm”[1] trở thành một bộ phận hữu cơ của văn bản đã được định hình dưới dạng văn tự. Chẳng hạn, sự bỏ qua các khổ đã được đánh số trong văn bản cuối cùng của Evgheni Oneghin, việc Pushkin thay thế đoạn kết đã có sẵn trong bài thơ Napoleon bằng một mẩu câu bỏ lửng: “Thế giới trở nên hoang vắng…”, việc sử dụng câu thơ không vần trên cái nền chờ vần của độc giả v.v… Tương quan giữa yếu tố không sử dụng – thủ pháp – âm – với cấu trúc được độc giả chờ đợi và, đến lượt nó, tương quan giữa cấu trúc được chờ đợi với mức độ xác suất sử dụng trong vị thế cấu trúc nào đó của một yếu tố được định hình về mặt văn bản sẽ biến thông tin do sự thủ pháp – âm mang lại thành một đại lượng hoàn toàn thực tế và có thể đo lường. Vấn đề này là một phần của vấn đề mang tính khái quát cao hơn – vai trò cấu trúc của chỗ trống có nghĩa (“zero-probleme”), giá trị ngữ nghĩa của chỗ ngắt giọng, quy mô thông tin do sự im lặng nghệ thuật mang lại.

Điều kiện thiết yếu ở đây, như chúng ta thấy, là làm thế nào để yếu tố có nghĩa hoặc một tập hợp các yếu tố có nghĩa thuộc loại đồng nghĩa nào đó được đặt vào đúng vị trí giữ vai trò của thủ pháp-âm trong văn bản thuộc cấp độ này hay cấp độ kia phù hợp với cấu trúc mã của nó. Cho nên, văn bản dứt khoát phải nhập vào một cấu trúc ngoài văn bản phức tạp để tạo thành một cặp đối lập với nó.

Vẫn còn một nguyên nhân khác khiến cho vấn đề trở nên phức tạp: các cấu trúc ngoài văn bản làm thay đổi mức độ xác suất ở những yếu tố nào đó của chúng tuỳ thuộc vào việc, chúng có quan hệ hay không với “các cấu trúc của người nói” – tác giả, hay “các cấu trúc của người nghe”- độc giả, với toàn bộ sự phức tạp của vấn đề này trong nghệ thuật như là hệ quả tất yếu sẽ xẩy ra.

Khái niệm văn bản

Hoàn toàn có thể đưa ra những định nghĩa như sau làm nền tảng cho khái niệm văn bản:

1. Tính biểu thị. Văn bản được định hình bằng những ký hiệu cụ thể và với ý nghĩa như thế, nó đối lập với các cấu trúc ngoài văn bản. Với văn học nghệ thuật, trước hết, đó là sự biểu thị của văn bản bằng các ký hiệu của ngôn ngữ tự nhiên. Sự biểu thị, trái ngược với sự không biểu thị, buộc phải xem văn bản là sự hiện thực hoá một hệ thống nào đấy, là sự phản ánh vật chất của nó. Trong cặp đối lập ngôn ngữ và lời nói của de Saussure, văn bản bao giờ cũng thuộc về lĩnh vực lời nói. Với lý do như thế, văn bản bao giờ cũng có hàng loạt yếu tố hệ thống và những yếu tố ngoài hệ thống. Thật ra, việc kết hợp các nguyên tắc về trật tự cấp độ và sự chồng xếp đa tầng cấu trúc sẽ dẫn tới chỗ: cái ngoài hệ thống từ giá độ của một trong số những tiểu cấu trúc có thể trở thành cái hệ thống từ giác độ của một tiểu cấu trúc khác; và việc chuyển mã của văn bản sang ngôn ngữ cảm thụ nghệ thuật của cử toạ hoàn toàn có thể chuyển bất kỳ yếu tố nào vào tầng bậc của những cái thuộc hệ thống. Và toàn bộ sự hiện diện của các yếu tố ngoài hệ thống – hệ quả tất yếu của sự vật chất hoá, cũng như cảm giác cho rằng, cùng là những yếu tố như thế, nhưng ở cấp độ này, chúng có thể là những yếu tố thuộc hệ thống, nhưng ở cấp độ khác, chúng lại là những yếu tố ngoài hệ thống, – nhất thiết sẽ đi kèm với văn bản.

2. Tính phân giới. Tính phân giới là đặc trưng của văn bản. Về phương diện này, một mặt, văn bản đối lập với tất cả các ký hiệu được biểu hiện bằng vật chất không thuộc thành phần của nó, theo nguyên tắc can dự, nó đối lập với cái không can dự. Mặt khác, nó đối lập với tất cả các cấu trúc có dấu hiệu không phân giới – ví như cấu trúc của các ngôn ngữ tự nhiên, và các cấu trúc không phân giới (“cấu trúc mở”) của các văn bản bằng lời nói của nó. Nhưng trong hệ thống các ngôn ngữ tự nhiên cũng vẫn có những cấu trúc có phạm trù biểu hiện sự phân giới rõ rệt: ví như từ và, đặt biệt là câu. Không phải ngẫu nhiên mà chúng có vai trò đặc biệt quan trọng đối với việc tổ chức văn bản nghệ thuật. Khi xưa, A.A.Potebnhia từng nói về tính đẳng cấu giữa từ với văn bản nghệ thuật. A.M.Piatigorski đã chỉ ra, mối văn bản có một ý nghĩa văn bản duy nhất và ở phương diện này, có thể xem nó là một tín hiệu không thể chia tách. “Thành tiểu thuyết”, “thành bài ký”, “thành văn khấn” – điều đó có nghĩa là hiện thực hoá một chức năng văn hoá nào đó và truyền đạt một ý nghĩa toàn vẹn nào đó. Mỗi một văn bản được người đọc xác định bằng một tổ hợp các dấu hiệu. Vì vậy, chuyển ký hiệu cho một văn bản khác là một trong những phương thức cơ bản dùng để tổ chức các nghĩa mới (dấu hiệu văn bản của một tài liệu được chuyển cho tác phẩm nghệ thuật v.v…).

Trong những loại hình văn bản khác nhau, khái niệm ranh giới được biểu hiện theo những kiểu khác nhau: đó là mở đầu và kết thúc ở cấu trúc triển khai trong thời gian, khung trong hội hoạ, hàng đèn trước sân khấu trong nhà hát. Sự phân giới giữa không gian cấu trúc (nghệ thuật) với không gian phi cấu trúc là phương thức cơ bản của điêu khắc và kiến trúc.

Tính phân cấp của văn bản, việc hệ thống của nó được tách ra thành cấu trúc phức tạp của những tiểu hệ thống sẽ dẫn tới chỗ: hàng loạt yếu tố thuộc cấu trúc bên trong sẽ được phân giới trong các tiểu hệ thống thuộc một loại hình khác (ranh giới của các chương, các khổ, các câu thơ, của các nhịp, phách…). Ranh giới chỉ cho người đọc, rằng anh ta đang tiếp xúc với văn bản bằng cách gợi dậy trong ý thức của anh ta toàn bộ hệ thống của các mã nghệ thuật tương ứng, rằng anh ta đang đứng ở một vị thế cấu trúc vững chắc. Do một loạt yếu tố này thì là tín hiệu của một ranh giới nào đó, còn những yếu tố khác lại là những tín hiệu của một số ranh giới trùng với vị thế chung trong văn bản (kết thúc chương cũng là kết thức cuốn sách), nên trật tự đẳng cấp của các cấp độ cho phép ta nói về vị thế chủ đạo của các ranh giới này hay ranh giới kia (ranh giới các chương giữa vị thế chủ đạo hơn so với ranh giới các khổ, ranh giới của tiểu thuyết giữ vị thế chủ đạo so với ranh giới các chương), nó mở ra khả năng đối sánh vai trò của các tín hiệu phân giới nào đó về phương diện cấu trúc. Song song với điều đó, sự bão hoà ranh giới nội tại của văn bản (sự hiện diện của “ngắt dòng”, phân khổ, hay phân đoạn cấu trúc, chia nhỏ thành các chương v.v…) và sự đánh dấu các ranh giới bên ngoài (mức độ đánh dấu các ranh giới bên ngoài có thể hạ sát tới mức mô phỏng chỗ ngắt máy móc của văn bản) cũng tạo ra cơ sở để phân loại các dạng kiến tạo văn bản.

3. Tính cấu trúc. Văn bản không phải là một trình tự giản đơn của các ký hiệu nằm ở khoảng cách giữa hai ranh giới bên ngoài. Văn bản bao giờ cũng là một tổ chức nội tại biến nó thành một chỉnh thể cấu trúc ở cấp độ ngữ đoạn. Vì thế, muốn thừa nhận một tổ hợp câu nào đó của ngôn ngữ tự nhiên là một văn bản nghệ thuật, cần phải chứng minh, chúng tạo thành một cấu trúc thuộc loại thứ cấp nào đó ở cấp độ tổ chức nghệ thuật.

Nên nhớ, tính cấu trúc và tính phân giới của văn bản gắn bó chặt chẽ với nhau.

Trật tự đẳng cấp của khái niệm văn bản

Cần nhấn mạnh rằng, khi bàn về tính biểu thị vật chất của văn bản, chúng tôi muốn nói tới một đặc điểm thể hiện tính riêng biệt cao nhất của các hệ thống ký hiệu. Thực thể vật chất hiện ra trong các hệ thống ký hiệu không phải là các “sự vật”, mà là tương quan giữa các sự vật. Cũng như thế, điều này còn thể hiện cả trong vấn đề văn bản nghệ thuật, loại văn bản được kiến tạo như một hình thái tổ chức, tức là như một hệ thống các quan hệ nào đó của những đơn vị vật chất tạo nên nó. Đây là lý do giải thích vì sao giữa các cấp độ khác nhau của văn bản có thể xác lập những mối liên hệ cấu trúc mang tính bổ trợ: quan hệ giữa các loại hình hệ thống. Có thể tháo dỡ văn bản thành nhiều tiểu văn bản (cấp độ âm vị, cấp độ cú pháp v.v…), trong đó, mỗi tiểu văn bản có thể xem là một đơn vị tổ chứ độc lập. Quan hệ cấu trúc giữa các cấp độ thể hiện đặc trưng của văn bản trong chỉnh thể của nó. Chính những mối liên hệ vững bền này (bên trong các cấp độ và giữa các cấp độ) mang lại cho văn bản đặc điểm của cái bất biến. Hoạt động của văn bản trong hoàn cảnh xã hội sẽ tạo ra xu hướng phân chia văn bản thành các biến thể. Với folklo và văn học trung đại, hiện tượng này đã được nghiên cứu kỹ lưỡng. Người ta thường nghĩ rằng, kỹ nghệ in ấn khiến văn hoá hiện đại bị lệ thuộc vào ngôn ngữ chữ viết, và như thế, nó sẽ làm triệt tiêu các biến thể của văn bản văn học. Điều này, không hẳn là như vậy. Chỉ cần ghi âm cách đọc cùng một bài thơ của nhiều người đọc khác nhau, ta sẽ thấy, văn bản in chỉ cho ra một loại hình văn bản cố định nào đó (ví như, ở cấp độ ngữ điệu), còn bản ghi âm thì có nhiều biến thể của nó. Nếu không nghiên cứu văn học hiện đại từ quan điểm nhà văn như chúng ta vẫn quen làm, mà nghiên cứu từ quan điểm độc giả, thì sự bảo tồn biến thể là thực tế hiển nhiên. Cuối cùng, vấn đề văn bản và các biến thể của nó cũng là vấn đề đối với các nhà văn bản học.

Việc văn bản là một hệ thống cố định của nhiều mối quan hệ bộc lộ rất rõ khi nghiên cứu giải cấu trúc các tác phẩm dở dang hoặc đã bị thất lạc. Hơn nữa, dù giới folklore đã có nhiều thành tựu trong việc nghiên cứu vấn đề này, dù với các nhà nghiên cứu văn hoá cổ-trung đại, nhiệm vụ ấy đã thành truyền thống, nhưng nó vẫn xuất hiện thường xuyên trước các nhà nghiên cứu văn học hiện đại. Cho nên, có thể chỉ ra, nhất là trong lĩnh vực Pushkin học, nhiều thử nghiệm giải cấu trúc các ý tưởng và dự định sáng tác của nhà thơ, những thử nghiệm lý thú nhằm khôi phục các văn bản đã bị thất lạc. Nếu văn bản không phải là một cấu trúc bất biến nào đó trong giới hạn của nó, thì không có cơ sở để đặt ra những nhiệm vụ như vậy.

Những rõ ràng là, từ hướng tiếp cận vấn đề như thế, có thể tập hợp một nhóm văn bản (ví như hài kịch Nga thế kỷ XVIII), rồi khảo sát nhóm văn bản ấy như một văn bản bằng cách mô tả hệ thống luật lệ cố định của nó và gắn toàn bộ những khác biệt với các biến nảy sinh trong quá trình hoạt động xã hội của nó. Cũng có thể tạo ra một sự trừu xuất tương tự như thế ở một cấp độ rất cao. Chắc chắn, nếu khảo sát khái niệm “văn học nghệ thuật thế kỷ XX” như một văn bản được đem ra mô tả nào đó với những tương quan phức tạp giữa các mối liên hệ biến thái và bất biến, trong hệ thống và ngoài hệ thống, thì đó là nhiệm vụ hoàn toàn khả thi.

Từ những gì đã nói, có thể thấy, nếu chọn một nhóm văn bản đẳng cấu theo một tương quan nào đó, rồi miêu tả chúng như một văn bản, thì trong tương quan với các văn bản được miêu tả, sự miêu tả tương tự như thế chỉ bao hàm các yếu tố của hệ thống, còn bản thân các văn bản, trong tương quan với sự miêu tả ấy, chỉ hoạt động như là sự kết hợp phức tạp của các yếu tố có tổ chức (yếu tố hệ thống, xung yếu) và vô tổ chức (ngoài hệ thống, thứ yếu). Bởi vậy, văn bản thuộc cấp độ cao hơn sẽ hoạt động như một ngôn ngữ miêu tả trong tương quan với các văn bản ở cấp độ thấp hơn. Và, đến lượt mình, ngôn ngữ miêu tả của các văn bản nghệ thuật, trong một tương quan nào đó, mang tính đẳng cấu với các văn bản ấy. Có một hệ quả khác: sự mô tả ở cấp độ cao nhất (ví như “văn bản nghệ thuật”), nếu nó chỉ bao hàm các tương quan hệ thống, sẽ là ngôn ngữ dùng để mô tả các văn bản khác, nhưng bản thân sự mô tả ấy không phải là văn bản (theo quy tắc: là hệ thống vật chất hoá, văn bản chứa đựng các yếu tố ngoài hệ thống).

Dựa vào các luận điểm nêu trên, có thể rút ra một quy tắc bổ ích. Thứ nhất: ngôn ngữ miêu tả văn bản là một trật tự cấp bậc. Không thể xáo trộn sự mô tả ở những cấp độ khác nhau. Cần phải giới thuyết chính xác, sự miêu tả đang được tiến hành ở cấp độ (các cấp độ) nào. Thứ hai: trong giới hạn của một cấp độ nào đó, sự miêu tả phải có tính cấu trúc và toàn vẹn. Thứ ba: các siêu ngôn ngữ ở những cấp độ khác nhau của sự miêu tả dứt khoát phải khác nhau.

Tuy nhiên, cần nhấn mạnh, rằng hiện thực được mô tả trong nghiên cứu không hoàn toàn đồng nhất với hiện thực được người đọc cảm nhận: trong sự mô tả của nhà nghiên cứu, trật tự cấp bậc của các văn bản tựa những chồng xếp lên nhau là một thực tế. Nhưng với người đọc, chỉ có một văn bản duy nhất do tác giả sáng tạo ra lại là một thực tế. Thể loại có thể là một văn bản thống nhất, nhưng không thể biến nó thành đối tượng thụ cảm nghệ thuật. Khi thụ cảm một văn bản do tác giả sáng tạo ra như một bản thể duy nhất, người tiếp nhận thông tin bao giờ cũng phân tích tất cả những gì được kiến tạo ở đó như một trật tự cấp bậc của các bộ mã làm hiển lộ ngữ nghĩa tiềm ẩn trong một tác phẩm nghệ thuật hiện hữu nào đấy với anh ta.

Bởi vậy, rõ ràng là, sẽ khôngthể có một định nghĩa hoàn chỉnh về văn bản nghệ thuật, nếu thiếu sự phân loại bổ trợ ở bình diện “người phát-người nhận”. Chẳng hạn, nhiều cách lý giải qua diễn xuất khác nhau của một vai, một vở nhạc kịch, một loại truyện kể trong hội hoạ (ví như bức Madonna và hài đồng) v.v…, nếu thụ cảm từ quan điểm này, thì chúng chỉ là sự lặp lại của một văn bản (sự khác biệt không được phát hiện. Cử toạ thiếu trình độ chuyên môn:trong bảo tàng Hermitage“mọi thứ giống hệt nhau”, “tất cả tranh thánh đều giống nhau như đúc”, hoặc “không thể phân biệt các nhà thơ thế kỷ XVIII”), hoặc là các phiên bản của cùng một văn bản cố định, nhưng nếu thụ cảm từ quan điểm khác chúng lại là những văn bản khác nhau, thậm chí đối lập với nhau.

Ký hiệu tạo hình bằng ngôn từ (hình tượng)

Thuộc tính mã hoá của các văn bản nghệ thuật – các hệ thống mô hình hoá – sẽ dẫn tới chỗ: một số dấu hiệu đặc trưng của chính văn bản như nó vốn dĩ, trong quá trình giao tiếp nghệ thuật được chuyển qua phạm vi của hệ thống mã hoá. Chẳng hạn, tính phân giới không chỉ là dấu hiệu cảu văn bản, mà còn trở thành thuộc tính cơ bản của ngôn ngữ nghệ thuật.

Bây giờ chúng tôi sẽ dừng lại ở vấn đề vềếy nghĩa tính phân giới như một nguyên tắc cấu trúc đối với kết cấu, mà cụ thể là sẽ dừng lại ở chỗ: điều ấy có hệ quả thế nào đối với ngôn ngữ nghệ thuật?

Nghệ thuật ngôn từ chỉ thực sự trở thành nghệ thuật khi nó nỗ lực khắc phục đặc điểm cố hữu của từ như một ký hiệu ngôn ngữ – mối liên hệ giữa các bình diện nội dung và biểu hiện không có sự chế định lẫn nhau – và xây dựng một mô hình nghệ thuật bằng lời theo nguyên tắc hình tượng hệt như trong các nghệ thuật tạo hình. Đó chẳng phải là điều ngẫu nhiên và nó gắn bó hữu cơ với số phận của các ký hiệu trong lịch sử văn hoá của nhân loại.

Với tính ước lệ trong quan hệ giữa cái được biểu đạt với cái biểu đạt, do chỉ có thể hiểu khi được gắn với một bộ mã nào đó, các ký hiệu của ngôn ngữ tự nhiên rất dễ trở thành cái không thể hiểu được và bất kỳ ở đâu, hễ hệ thống ngữ nghĩa mã hoá được bện kết vào đời sống xã hội là chúng lại trở thành cái dối trá. Ký hiệu như là nguồn mạch thông tin cũng dễ dàng trở thành phương tiện phao tin nhảm nhí, đánh lạc hướng xã hội.ỏTong đời sống văn hoá của nhân loại, xu hướng đấu tranh với ngôn từ, ý thức về khả năng lừa dối cắm rễ rất sâu trong bản chất của nó là nhân tố thường trực, chẳng kém gì xu hướng thán phục trước sức mạnh của nó. Không phải ngẫu nhiên mà hình thức thấu hiểu cao nhất đối với nhiều loại hình văn hoá được đặt vào dạng thức “thông hiểu không lời” và được liên hệ với sự giao tiếp ngoài lời như âm nhạc, tình yêu và ngôn ngữ biểu cảm cận ngôn ngữ học.

Các ký hiệu tạo hình có một đặc tính ưu việt: do cấu trúc ký hiệu và nội dung của đó đã nói lên sự tương đồng bền ngoài, mang tính trực quan, nên cũng không đòi hỏi phải am hiểu những bộ mã phức tạp (người tiếp nhận những thông tin như thế có cảm giác trong trường hợp này anh ta không sử dụng bất kỳ một loại mã nào cả). Có thể dẫn ra đây một thí dụ về ký hiệu giao thông theo kiểu hỗn hợp do hai yếu tố tạo thành: vạch cấm và mõm ngựa. Yếu tố thứ nhất có tính ước lệ: muốn hiểu ý nghĩa của nó cần nắm vững bộ mã dành riêng cho ký hiệu giao thông. Yếu tố thứ hai mang tính hình tượng và chỉ có thể dùng kinh nghiệm đời sống đã tích luỹ được để giải mã (người chưa bao giờ nhìn thấy ngựa sẽ không thể hiểu được). Nhưng chúng ta sẽ làm một thí nghiệm thầm trong óc: kết hợp ký hiệu cấm với một chữ số hoặc một từ. Cả hai yếu tố đều đúng luật, nhưng mức độ ước lệ của chúng sẽ rất khác nhau. Trên cái nền của ký hiệu giao thông tự động, có thể dựa vào một bộ mã chuyên ngành, chỉ có một phạm vi rất hẹp am hiểu, để giải mã, thì từ và chữ số sẽ trở nên nổi bật nhờ vào sự hiểu biết chung và về mặt chức năng chúng cũng tương đương như cái mõm ngựa hoặc bất kỳ một yếu tố hình tượng nào khác. Thí dụ về một ký hiệu ước lệ có thể tương đươcng với một ký hiệu tạo hình về mặt chức năng hết sức lý thú đối với văn học. Bằng chất liệu từ ngôn ngữ tự nhiên – hệ thống các ký hiệu ước lệ, nhưng được tập thể hiểu rõ tới mức, người ta không còn cảm thấy tính ước lệ ấy nữa trên cái nền của những “ngôn ngữ” khác, mang tính chuyên biệt lớn hơn,- và thế là xuất hiện ký hiệu thứ sinh thuộc loại tạo hình (có lẽ cần phải gắn nó với “hình tượng” của lý luận văn học truyền thống). Ký hiệu tạo hình thứ sinh có những đặc điểm của ký hiệu hình tượng: sự tương đồng trực tiếp với đối tượng, tính trực quan, nó tạo ra ấn tượng về sự chế định của mã ít hơn và vì thế – có vẻ như – đảm bảo tính chân thực lớn hơn, sự tường minh lớn hơn so với các ký hiệu ước lệ. Ở loại ký hiệu này có hai phương diện không thể tách riêng: sự tương đồng với đối tượng được nó biểu nghĩa và sự khác biệt với đối tượng được nó biểu nghĩa. Hai khái niệm ấy không thể tồn tại tách rời nhau.

Người dịch: Lã Nguyên

Nguồn: Лотман Ю.М. Структура художественного текста

 

[1] Tiếng Nga: “минус-приём”, thuật ngữ của Iu.Lotman, được ông sử dụng trong ký hiệu học đại cương để chỉ “sự vắng mặt có ý nghĩa”. Với sáng tác văn học, “thủ pháp-âm” là sự loại bỏ cố ý theo kiểu phá cách những yếu tố mang nghĩa nào đó trong văn bản thuộc phạm vi chờ đợi của độc giả.-ND.

Văn Bản Là Gì? Có Mấy Loại Văn Bản?

Văn bản là khái niệm không còn xa lạ với mội cá nhân, tổ chức. Trong cuộc sống, văn bản xuất hiện ở khắp mọi nơi và trở thành một phương tiện truyền đạt thông tin phổ biến nhất. Văn bản cũng là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học với nhiều lĩnh vực khác nhau. Tuy vậy, không phải ai cũng biết cụ thể Văn bản là gì? Có những loại văn bản nào.

Thực tế văn bản là một khái niệm tuy gần gũi nhưng lại rất đa dạng về thể loại. Chính vì vậy, người ta có nhiều cách hiểu khác nhau về văn bản. Bạn đọc có thể hiểu văn bản theo hai nghĩa.

Thứ hai: Văn bản là những giấy tờ, tài liệu được sử dụng trong các cơ quan, đoàn thể và các tổ chức xã hội. Theo đó, những giấy tờ này được sử dụng để điều hành và quản lý các hoạt động của cơ quan, đoàn thể hay để truyền đạt thông tin đến các cá nhân, tổ chức trong xã hội như Quyết định, chỉ thị, báo cáo, công văn,… Hiện nay, văn bản được hiểu theo nghĩa này là phổ biến nhất.

– Văn bản hành chính

Văn bản hành chính là một trong những loại văn bản được sử dụng phổ biến nhất hiện nay, đây là văn bản mang tính thông tin quy phạm nhà nước, giải quyết những vụ việc trong quá trình quản lý nhà nước. Văn bản hành chính được chia thành hai loại chính là văn bản hành chính cá biệt và văn bản hành chính thông thường.

Trong đó văn bản hành chính cá biệt là những văn bản thể hiện quyết định, chỉ thị của cơ quan nhà nước (Quyết định nâng lương, quyết định khen thưởng, kỷ luật cán bộ, công chức,…). Còn văn bản thông thường là những văn bản mang tính chất thông tin, nhằm điều hành, thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật hoặc dung để giải quyết những công việc cụ thể, phản ánh tình hình, trao đổi công việc,… (Thông báo, cồn văn, báo cáo, phiếu gửi, phiếu trình,…)

– Văn bản quy phạm pháp luật

Văn bản quy phạm pháp luật là loại văn bản được cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành dựa theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định nhằm quản lý, điều chỉnh các mối quan hệ phát sinh trong xã hội dưới nhiều lĩnh vực khác nhau. Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản được ban hành dựa trên ý chí của nhà nước, buộc tất cả mọi cá nhân, tổ chức trong xã hội phải tuân thủ và chấp hành và được đảm bảo bằng quyền lực nhà nước.

Văn bản quy phạm pháp luật được chia thành hai loại là Văn bản luật và văn bản dưới luật. Trong đó, văn bản luật là loại văn bản mang tính quyền lực cao nhất bởi nó là loại văn bản mang tính quy định chung, phạm vi áp dụng lớn và tất cả những văn bản dưới luật ban hành không được phép trái với quy định của những văn bản này.

Văn bản Luật bao gồm Hiến pháp, Các luật, bộ luật, nghị quyết có chứa các quy phạm pháp luật do Quốc hội ban hành. Trong những văn bản này thì Hiến pháp được coi là “Luật mẹ”, có hiệu lực pháp lý tối cao. Vì vậy, bất kỳ văn bản nào ban hành trái với quy định của Hiến pháp đều không có hiệu lực. Thứ hai là văn bản dưới luật, là những văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành nhằm cụ thể hóa hoặc quy định bổ sung, chi tiết các văn bản luật, bao gồm các văn bản như Pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội; Lệnh, quyết định của Chủ tịch nước; Quyết định, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ; Nghị quyết, thông tư liên tịch giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyển, giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền với tổ chức chính trị – xã hội;…

– Hợp đồng

– Hóa đơn

Hóa đơn là một loại văn bản được sử dụng hàng ngày trong hoạt động kinh doanh, mua bán hàng hóa, dịch vụ. Hóa đơn được người bán lập, ghi nhận thông tin bán hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ theo quy định của pháp luật.

– Chứng chỉ, văn bằng

Văn bằng, chứng chỉ là một loại văn bản chứng nhận của hệ thống giáo dục quốc dân được cấp cho người học sau khi tốt nghiệp một cấp học hoặc một trình độ đào tạo; chứng chỉ của hệ thống giáo dục quốc dân được cấp cho người học sau khi được hoàn thành một khóa hoặc một chương trình đào tạo, bồi dưỡng nâng cao học vấn, nghề nghiệp.

Văn bằng, chứng chỉ phải phản ánh đúng yêu cầu của chương trình giáo dục và trình độ của người học.

CHÚNG TÔI LUÔN SẴN SÀNG LẮNG NGHE – TƯ VẤN – GIẢI ĐÁP CÁC THẮC MẮC

1900 6557 – “Một cuộc gọi, mọi vấn đề”