, Board Scretary; Legal Specialist at KHAHOMEX at KHAHOMEX
Published on
Luật hình sự việt nam phần chung
1. MỤC LỤC TrangChương 1. Khái niệm, nhiệm vụ và các nguyên tắc cơ bản của luật hình sự ViệtNam 1.1. Khái niệm luật hình sự 1.2. Tính giai cấp của luật hình sự 1.3. Nhiệm vụ của luật hình sự 1.4. Các nguyên tắc cơ bản của luật hình sự Việt NamChương 2. Khái niệm, cấu tạo và hiệu lực của đạo luật hình sự Việt Nam 2.1. Khái niệm đạo luật hình sự Việt Nam 2.2. Cấu tạo của đạo luật hình sự Việt Nam 2.3. Hiệu lực của đạo luật hình sự Việt Nam 2.4. Giải thích đạo luật hình sự 2.5. Nguyên tắc tương tự về luậtChương 3. Tội phạm 3.1. Khái niệm và đặc điểm của tội phạm 3.2. Phân loại tội phạm 3.3. Phân biệt tội phạm với các vi phạm pháp luật khác 3.4. Vấn đề nguồn gốc và bản chất giai cấp của tội phạmChương 4. Cấu thành tội phạm 4.1. Các yếu tố của tội phạm 4.2. Cấu thành tội phạm 4.3. Ý nghĩa của cấu thành tội phạmChương 5. Khách thể của tội phạm 5.1. Khách thể của tội phạm 5.2. Đối tượng tác động của tội phạmChương 6. Mặt khách quan của tội phạm 6.1. Khái niệm mặt khách quan của tội phạm 6.2. Hành vi khách quan của tội phạm 6.3. Hậu quả nguy hiểm cho xã hội của tội phạm 6.4. Những biểu hiện khác trong mặt khách quan của tội phạmChương 7. Chủ thể của tội phạm 7.1. Khái niệm chủ thể của tội phạm 7.2. Năng lực trách nhiệm hình sự 7.3. Tuổi chịu trách nhiệm hình sự 7.4. Chủ thể đặc biệt của tội phạm 7.5. Vấn đề nhân thân người phạm tội trong luật hình sựChương 8. Mặt chủ quan của tội phạm 8.1. Khái niệm mặt chủ quan của tội phạm 8.2. Lỗi 8.3. Động cơ và mục đích phạm tội 8.4. Sai lầm và ảnh hưởng của sai lầm đối với trách nhiệm hình sựChương 9. Các giai đoạn thực hiện tội phạm 9.1. Khái niệm các giai đoạn thực hiện tội phạm 9.2. Chuẩn bị phạm tội 9.3. Phạm tội chưa đạt 9.4. Tội phạm hoàn thành 9.5. Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tộiChương 10. Đồng phạm
3. CHƯƠNG 1. KHÁI NIỆM, NHIỆM VỤ VÀ CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN CỦA LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM1.1 KHÁI NIỆM LUẬT HÌNH SỰ1.1.1. Khái niệm Thực hiện nhiệm vụ đấu tranh phòng và chống tội phạm – loại vi phạm pháp luật có tínhnguy hiểm cao hơn hẳn so với các loại vi phạm pháp luật khác cho xã hội. Nhà nước sử dụngnhiều hình thức và biện pháp khác nhau, trong đó có biện pháp pháp luật hình sự (PLHS). Biệnpháp này được Nhà nước sử dụng thể hiện trước hết qua hoạt động xây dựng pháp luật mà kếtquả là các văn bản quy phạm PLHS quy định về tội phạm và hình phạt được ra đời. Các quyphạm pháp luật này tồn tại trong mối quan hệ hữu cơ biện chứng với nhau trong một hệ thống tạothành ngành luật hình sự. Vậy, Luật hình sự là một ngành luật trong hệ thống pháp luật của nước Cộng hoà xã hộichủ nghĩa Việt Nam (CHXHCNVN), bao gồm hệ thống những quy phạm pháp luật do Nhà nướcban hành, xác định những hành vi nguy hiểm cho xã hội nào là tội phạm, đồng thời quy địnhhình phạt đối với những tội phạm ấy.1.1.2. Đối tượng điều chỉnh của luật hình sự Đối tượng điều chỉnh của một ngành luật là các quan hệ xã hội được các quy phạm phápluật của ngành luật đó điều chỉnh. Các quan hệ xã hội được các quy phạm PLHS tác động tới làđối tượng điều chỉnh của luật hình sự. Luật hình sự chỉ điều chỉnh các quan hệ xã hội khi có tộiphạm xảy ra- đó cũng chính là các quan hệ PLHS Vậy, Đối tượng điều chỉnh của luật hình sự là những quan hệ xã hội phát sinh giữa Nhànước và người phạm tội khi người này thực hiện tội phạm. Thời điểm bắt đầu xuất hiện quan hệ pháp luật hình sự là thời điểm người phạm tội bắtđầu thực hiện tội phạm và quan hệ pháp luật này chấm dứt khi người phạm tội được xoá ántích. Trong cả quá trình này xuất hiện đồng thời quan hệ pháp luật tố tụng hình sự, quan hệpháp luật dân sự… Tuy nhiên, quan hệ pháp luật tố tụng hình sự, đa số trường hợp bắt đầuxuất hiện khi có quyết định khởi tố vụ án và quyết định khởi tố bị can. Trong quan hệ pháp luật hình sự luôn có hai chủ thể với những vị trí pháp lý khác nhau. 1. Nhà nước: Có quyền truy tố, xét xử người phạm tội, buộc họ phải chịu những biệnpháp trách nhiệm hình sự nhất định để bảo vệ pháp luật bảo vệ lợi ích của toàn xã hội. Nhà nướcthực hiện quyền này bằng cách thể hiện ý chí của mình trong Bộ luật hình sự. Mặt khác, Nhànước có trách nhiệm bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của người phạm tội. 2/ Người phạm tội: Có trách nhiệm chấp hành các biện pháp cưỡng chế mà Nhà nước ápdụng đối với mình. Mặt khác, họ có quyền yêu cầu Nhà nước đảm bảo các quyền và lợi ích hợppháp của mình.1.2.3. Phương pháp điều chỉnh của luật hình sự Xuất phát từ chức năng điều chỉnh và địa vị pháp lý của các chủ thể tham gia quan hệpháp luật này, luật hình sự sử dụng phương pháp quyền uy – phương pháp sử dụng quyền lực Nhànước để điều chỉnh các quan hệ pháp luật hình sự. Nhà nước áp dụng các biện pháp cưỡng chếđối với người phạm tội không bị cản trở hay phụ thuộc vào ý chí của bất kỳ cá nhân hay tổ chứcnào. Người phạm tội phải phục tùng những biện pháp mà Nhà nước đã áp dụng với họ. Tráchnhiệm của người phạm tội về tội phạm mà họ đã gây ra là trách nhiệm đối với Nhà nước chứkhông phải trách nhiệm đối với người bị hại hay trách nhiệm đối với các cơ quan tiến hành tốtụng.1.2. TÍNH GIAI CẤP CỦA LUẬT HÌNH SỰ 3
4. Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật đã chứng minh pháp luật có tính giai cấp. Luậthình sự là một bộ phận tạo nên hệ thống pháp luật nên nó cũng mang tính giai cấp. Chúng ra đờicùng với Nhà nước và là sản phẩm của xã hội ở mỗi một giai đoạn nhất định. Tính giai cấp củaluật hình sự được thể hiện rõ nét qua từng kiểu Nhà nước, qua các văn bản pháp luật ở các giaiđoạn khác nhau Bộ luật Gia Long, Bộ luật Hồng Đức của chế độ phong kiến Việt Nam quy định hình phạtngũ hình – mang tính đàn áp dã man. Hoặc quan niệm về tội phạm thể hiện sự đối xử không bìnhđẳng với các tầng lớp khác nhau trong xã hội như con kiện cha, vợ kiện chồng là tội phạm. Luật 10/59 đặt người cộng sản ra ngoài vòng pháp luật. Việc tuyên truyền và hoạt độngcộng sản là tội quốc sự nghiêm trọng. Bộ luật hình sự năm 1985,1999 của Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là vănbản quy phạm pháp luật thể hiện ý chí của toàn thể nhân dân lao động để bảo vệ lợi ích của nhândân trấn áp những phần tử (người phạm tội) chống đối đường lối chính sách của Đảng, pháp luậtcủa Nhà nước.1.3. NHIỆM VỤ CỦA LUẬT HÌNH SỰ1.3.1. Nhiệm vụ chung Nhiệm vụ chung của luật hình sự Việt Nam được thể hiện tập trung trong Điều 1 BLHSvới 3 nhóm cụ thể như sau: 1. Luật hình sự có nhiệm vụ bảo vệ những quan hệ xã hội cơ bản nhất và quan trọng nhấttrong đời sống xã hội. Đó là, bảo vệ chế độ xã hội, quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ cácquyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, Nhà nước, bảo vệ trật tự pháp luật XHCN. 2. Với một vị trí rất quan trọng trong hệ thống pháp luật nước ta, Bộ luật hình sự là mộttrong những công cụ hữu hiệu và sắc bén của Nhà nước trong đấu tranh phòng ngừa và chống tộiphạm. 3. Luật hình sự còn có nhiệm vụ giáo dục mọi người nâng cao ý thức pháp luật, nâng caoý thức đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.1.3.2. Nhiệm vụ cụ thể của luật hình sự qua các giai đoạn cách mạng a. Giai đoạn 1945 – 1954 Trong giai đoạn này nhiệm vụ của luật hình sự là góp phần phục vụ cuộc kháng chiếnchống thực dân Pháp, trừng trị bọn Việt gian phản động làm tay sai cho thực dân Pháp và đượcthể hiện trong các sắc lệnh sau: – Sắc lệnh số 150/SL ngày 14/4/1953 trừng trị bọn phản cách mạng, bọn địa chủ cườnghào ngoan cố. – Sắc lệnh số 211/SL ngày 12/4/1946 trừng trị những hình vi có phương hại đến nền độclập dân tộc. – Sắc lệnh số 133/SL ngày 20/1/1953 trừng trị tội xâm hại đến an toàn Nhà nước. b. Giai đoạn 1954 – 1975 Trong giai đoạn này, luật hình sự góp phần thực hiện nhiệm vụ cách mạng là xây dựngCNXH ở miền Bắc, giải phóng miền Nam thống nhất đất nước và được thể hiện trong các vănbản hình sự sau: – Sắc lệnh số 01/SL ngày 19/4/1957 trừng trị các hành vi đầu cơ. – Pháp lệnh 30/10/1967 trừng trị những hành vi phản cách mạng. – Pháp lệnh 21/10/1970 trừng trị những hành vi xâm phạm đến tài sản XHCN và tài sảncủa công dân. c. Giai đoạn 1975 đến nay Trong giai đoạn hiện nay, nhiệm vụ của luật hình sự được thể hiện tập trung trong toàn bộcác quy định của Bộ luật hình sự 1985 và 1999.1.4. CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN CỦA LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 4
5. 1.4.1. Khái niệm Các nguyên tắc cơ bản của luật hình sự Việt Nam là những tư tưởng chủ đạo xuyên suốtquá trình xây dựng và áp dụng pháp luật hình sự trong công cuộc đấu tranh phòng ngừa vàchống tội phạm. Các nguyên tắc cơ bản của luật hình sự được chia làm 2 loại: Các nguyên tắc chung vàcác nguyên tắc có tính đặc thù. Các nguyên tắc có tính đặc thù của luật hình sự như: Nguyên tắc trách nhiệm cá nhân,nguyên tắc có lỗi, nguyên tắc cá thể hoá hình phạt được đề cập cụ thể, chi tiết trong toàn bộchương trình của môn học.1.4.2. Các nguyên tắc chung a. Nguyên tắc pháp chế XHCN Nguyên tắc này được thể hiện ở việc xét xử hình sự phải đúng người, đúng tội, không bỏlọt tội phạm, không xử oan người vô tội, hình phạt phải tương xứng với tính chất và mức độ nguyhiểm cho xã hội của tội phạm. b. Nguyên tắc dân chủ XHCN Nguyên tắc này được thể hiện ở chỗ luật hình sự không phân biệt đối xử, không quy địnhnhững quyền, đặc lợi cho tầng lớp nhân dân nào trong xã hội vì địa vị xã hội, vì tình trạng tài sảncủa họ. Phải đảm bảo cho nhân dân lao động tự mình hay thông qua các tổ chức xã hội tham giavào việc xây dựng pháp luật hình sự và tham gia vào hoạt động giám sát việc áp dụng BLHS củacác cơ quan có thẩm quyền. c. Nguyên tắc nhân đạo XHCN Nguyên tắc này thể hiện ở việc áp dụng hình phạt đối với người phạm tội chủ yếu nhằmcải tạo, giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội. Hình phạt không gây đau đớn về thể xáccủa người phạm tội. Bộ luật hình sự có nhiều quy định tạo điều kiện cho người phạm tội tự cảitạo, có cơ hội để sớm hoà nhập vào cộng đồng như: quy định về miễn trách nhiệm hình sự, miễnhình phạt, án treo và một số hình phạt không tước quyền tự do như hình phạt cảnh cáo. d. Nguyên tắc kết hợp hài hoà chủ nghĩa yêu nước và tinh thần quốc tế vô sản Nguyên tắc này thể hiện là luật hình sự Việt Nam trừng trị các hành vi phá hoại hoà bình,gây chiến tranh xâm lược, chống loài người và can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác. Vàluật hình sự Việt Nam ghi nhận và bảo đảm việc thực hiện các cam kết quốc tế mà Việt Nam đãký kết và tham gia. 5
7. 2.2.2. Hình thức cấu trúc bên trong của Đạo luật hình sự (Chính là cấu trúc của các quy phạmpháp luật hình sự). Cấu trúc của một quy phạm pháp luật nói chung bao gồm 3 bộ phận, đó là: bộ phận giảđịnh, quy định và chế tài. Phần giả định của một quy phạm pháp luật trả lời câu hỏi ai? ở đâu? hoàn cảnh nào? Đốivới phần giả định của quy phạm PLHS nó trả lời cho câu hỏi: trong điều kiện nào họ được coi làcó lỗi, người phạm tội là công dân Việt Nam, người nước ngoài, độ tuổi, tình trạng năng lực tráchnhiệm hình sự, phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam, hay ngoài lãnh thổ Việt Nam. Những nội dungnày được nêu trong phần chung của Bộ luật hình sự. Như vậy phần giả định của quy phạm phápluật hình sự được quy định trong phần chung của Bộ luật hình sự. Do đó, cấu trúc của một quy phạm PLHS phần các tội phạm gồm 2 bộ phận quy định vàchế tài. Phần quy định của quy phạm PLHS đưa ra quy tắc xử sự mang tính cấm chỉ. Phần chế tàichính là việc quy định khung hình phạt2.3. HIỆU LỰC CỦA ĐẠO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM Bất kỳ một văn bản quy phạm pháp luật nào được ban hành cũng đều phải xác định rõphạm vi tác động về không gian, thời gian và đối tượng tác động của văn bản pháp luật đó. Đóchính là hiệu lực về không gian và hiệu lực về thời gian của văn bản quy phạm pháp luật2.3.1. Hiệu lực về không gian của đạo luật hình sự Việt Nam Khi nói đến hiệu lực về không gian của đạo luật hình sự Việt Nam là chúng ta đi tìm câutrả lời cho câu hỏi Bộ luật hình sự Việt Nam được áp dụng đối với ai? đối với những hành viphạm tội xảy ra ở đâu? a. Đối với hành vi phạm tội xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam Trước hết cần phải hiểu phạm vi lãnh thổ Việt Nam là gì? Lãnh thổ Việt Nam theo luậthình sự Việt Nam được hợp thành bởi 3 bộ phận: 1. Lãnh thổ có thực: Bao gồm vùng đất, vùng nước, vùng trời thuộc chủ quyền của ViệtNam. 2. Lãnh thổ mở rộng: Tàu thuỷ mang cờ hiệu của Việt Nam đang ngoài vùng biển Quốctế, máy bay dân dụng mang cờ hiệu của Việt Nam đang bay trên đường bay. Tàu chiến, máy bayquân sự của Việt Nam đang ở bất kỳ nơi nào. 3. Lãnh sự quán, Đại sứ quán của Việt Nam ở nước ngoài. Được coi là hành vi phạm tội xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam nếu bắt đầu hoặc kết thúchoặc diễn ra trọn vẹn trong phạm vi không gian nói trên Về nguyên tắc áp dụng BLHSVN đối với những hành vi phạm tội xảy ra trên lãnh thổ củaViệt Nam được quy định tại Khoản 1 Điều 5 BLHS như sau “BLHS được áp dụng đối với mọihành vi phạm tội thực hiện trên lãnh thổ nước CHXHXNVN”. Như vậy, với quy định trên thì BLHSVN có hiệu lực tuyệt đối với mọi hành vi phạm tộithực hiện trên lãnh thổ Việt Nam dù người đó là công dân Việt Nam, người nước ngoài, hayngười không quốc tịch thường trú ở Việt Nam. Tuy nhiên, đối với đối tượng là người nước ngoài được hưởng các quyền ưu đãi và miễntrừ ngoại giao là trường hợp ngoại lệ được quy định ở Khoản 2, Điều 5 BLHS: “Đối với ngườinước ngoài phạm tội trên lãnh thổ nước CHXHCNVN thuộc đối tượng được hưởng các quyềnmiễn trừ ngoại giao hoặc quyền ưu đãi và miễn trừ về lãnh sự theo pháp luật Việt Nam, theo điềuước Quốc tế mà Việt Nam đã ký kết tham gia hoặc theo tập quán Quốc tế, thì vấn đề trách nhiệmhình sự của họ được giải quyết bằng con đường ngoại giao”. Như vậy, BLHSVN có các quy định ngoại lệ đối với các đối tượng được hưởng quyềnmiễn trừ tư pháp với 2 nhóm như sau: @ Theo pháp luật Việt Nam, theo hiệp định Quốc tế mà Việt Nam tham gia thì những đối 7
8. tượng được hưởng các đặc quyền ngoại giao là các thành viên của đoàn ngoại giao trở lên. @ Theo thông lệ quốc tế thì vợ hoặc chồng hoặc con chưa thành niên của những người kểtrên cũng được hưởng quyền miễn trừ tư pháp. b.Đối với hành vi phạm tội xảy ra ngoài lãnh thổ Việt Nam Trước hết, đối với công dân Việt Nam, người không quốc tịch thường trú ở Việt Nam. Đốivới các đối tượng này khi phạm tội ngoài lãnh thổ Việt Nam, nguyên tắc áp dụng BLHSVN tạiKhoản 1, Điều 6 BLHS quy định “Công dân Việt Nam, người không quốc tịch thường trú ở ViệtNam phạm tội ở ngoài lãnh thổ Việt Nam có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự tại Việt Namtheo bộ luật này”. Như vậy, nếu công dân Việt Nam hoặc người không quốc tịch thường trú ở Việt Namphạm tội ngoài lãnh thổ Việt Nam có thể phải chịu trách nhiệm hình sự nếu tội đã thực hiện đượcquy định trong BLHS. Vì theo nguyên tắc quốc tịch thì công dân Việt Nam phải tuân thủ phápluật Việt Nam dù ở bất kỳ nơi nào, đồng thời phải tuân thủ pháp luật ở nước sở tại. Đối với người nước ngoài khi phạm tội ngoài lãnh thổ Việt Nam, nguyên tắc áp dụngBLHSVN được quy định tại Khoản 2, Điều 6 BLHS “Người nước ngoài phạm tội ngoài lãnh thổViệt Nam có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Bộ luật hình sự Việt Nam nếu tội đã phạmđược quy định trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia”. Đó là những tội được quy định tại chương XXIV của BLHS – tội phạm phá hoại hoà bình,chống loài người, tội phạm chiến tranh, các tội xâm phạm các quyền và lợi ích cơ bản của côngdân Việt Nam.2.3.2. Hiệu lực về thời gian của đạo luật hình sự Việt Nam Hiệu lực về thời gian của BLHS là việc xác định thời điểm phát sinh và thời điểm chấmdứt hiệu lực của BLHS Việt Nam. Vấn đề hiệu lực về thời gian của BLHS được quy định tại Khoản 1, Điều 7 BLHS “Điềuluật áp dụng đối với một hành vi phạm tội là điều luật đang có hiệu lực thi hành tại thời điểm màhành vi phạm tội được thực hiện”. Với quy định này cho thấy mọi hành vi phạm tội thực hiện từ sau thời điểm 01/07/2000 (làthời điểm BLHS 1999 có hiệu lực) đều áp dụng BLHS 1999 để xét xử.2.3.3. Vần đề hiệu lực hồi tố của đạo luật hình sự Việt Nam Hiệu lực hồi tố là hiệu lực của văn bản phát luật hình sự áp dụng đối với những hành viphạm tội xảy ra trước khi văn bản ấy có hiệu lực thi hành. Theo quy định tại Khoản 3, Điều 7 của BLHSVN được phép áp dụng BLHS 1999 để xétxử những hành vi phạm tội xảy ra trước ngày 01/17/2000 mà sau thời điểm này mới đưa ra xử lý,nếu BLHS 1999 quy định theo hướng có lợi hơn so với BLHS 1985 cho người phạm tội đối vớitrường hợp phạm tội cụ thể đó (đó là những trường hợp được áp dụng hiệu lực hồi tố). Cụ thểBLHS Việt Nam có hiệu lực hồi tố trong một số trường hợp sau: – Trường hợp xoá bỏ một tội phạm.Ví dụ: Tội chống Nhà nước XHCN anh em, tội chiếmđoạt tem phiếu, tội phá huỷ tiền tệ, tội lưu hành sản phẩm kém phẩm chất là những tội phạmđược quy định trong BLHS 1985 mà không được quy định trong BLHS 1999. – Xoá bỏ một hình phạt: Ví dụ Điều 138 BLHS 1999 về tội trộm cắp tài sản quy định xoábỏ hình phạt tử hình. – Xoá bỏ một tình tiết tăng nặng: Ví dụ BLHS 1999 không còn quy định tình tiết tăngnặng lợi dụng chức vụ cao để phạm tội. – Quy định một hình phạt nhẹ hơn. – Quy định một tình tiết giảm nhẹ mới, như tình tiết người phạm tội đã lập công chuộc tội. – Mở rộng phạm vi áp dụng án treo, miễn trách nhiệm hình phạt, xoá án tích. Ví dụ nhưBLHS 1985 thời hạn án tích là 3 năm đối với hình phạt cảnh cáo nhưng BLHS 1999 thời hạn là 1năm. 8
9. – Phụ nữ có con nhỏ dưới 36 tháng tuổi không được áp dụng hình phạt tử hình (BLHS1985 chỉ áp dụng chính sách nhân đạo này đối với phụ nữ nuôi con dưới 12 tháng tuổi) hoặcngười từ 14 đến 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự nếu điều luật quy định mức cao nhấtcủa khung hình phạt từ 7 năm trở lên (BLHS 1985 quy định người ở độ tuổi này phải chịu tráchnhiệm hình sự đối với những tội phạm có quy định mức cao nhất của khung hình phạt từ 5 nămtrở lên). Trường hợp này phải áp dụng BLHS1999 để xét xử người phạm tội Chú ý: Trong trường hợp điều luật trong văn bản pháp luật mới và văn bản pháp luật cũkhông thay đổi thì áp dụng điều luật của văn bản mới để xét xử hành vi phạm tội thực hiện trướckhi văn bản mới có hiệu lực. Theo quy định tại Khoản 2, Điều 7 của BLHSVN không được phép áp dụng BLHS 1999để xét xử những hành vi phạm tội xảy ra trước ngày 01/17/2000 mà sau thời điểm này mới đưa raxử lý, nếu BLHS 1999 quy định theo hướng bất lợi hơn so với BLHS 1985 cho người phạm tộiđối với trường hợp phạm tội cụ thể đó (đó là những trường hợp không được áp dụng hiệu lực hồitố). Cụ thể BLHS Việt Nam không có hiệu lực hồi tố trong một số trường hợp sau: – Quy định tội phạm mới, như tội lây truyền vi rút HIV cho người khác Điều 117, BLHS1999. Tội vi phạm về sử dụng lao động là trẻ em (Điều 267). – Quy định hình phạt nặng hơn: có thể là loại hoặc mức hình phạt nặng hơn. Ví dụ Tội cố ý gây thương tích trong BLHS 1999 quy định hình phạt cao nhất là tù chungthân nhưng BLHS 1985 quy định hình phạt cao nhất đối với tội này là 20 năm tù. Tội hành nghềmê tín dị đoan trong 2 bộ luật mức hình phạt cao nhất là 10 năm tù, thì căn cứ vào mức thấp nhấtcủa tội phạm này trong 2 BLHS để xác định BLHS nào quy định về tội phạm đó với hình phạt tốithiểu cao hơn thì thuộc trường hợp quy định hình phạt nặng hơn. Cụ thể Khoản 1, Điều 247BLHS 1999 về tội hành nghề mê tín dị đoan quy định hình phạt thấp nhất là 6 tháng tù, nhưngKhoản 1, Điều 119 BLHS1985 quy định hình phạt thấp nhất là 3 tháng tù. Như vậy, Điều247BLHS 1999 là tội có mức hình phạt nặng hơn. – Quy định tình tiết tăng nặng mới, tình tiết định khung tăng nặng mới: như tình tiếtxâm phạm tài sản XHCN, gây hậu quả rất nghiêm trọng, lợi dụng tình trạng khẩn cấp đểphạm tội, hoặc tình tiết định khung tăng mới như giết trẻ em, giết ông bà, cha mẹ… – Quy định hạn chế phạm vi áp dụng án treo. Ví dụ: Điều 44 BLHS 1985 quy định người được hưởng án treo phạm tội mới trong thờigian thử thách mà tội mới là cố ý hoặc vô ý mà bị phạt tù thì phải chấp hành hình phạt tù của bảnán cho hưởng án treo. Nhưng Điều 60 BLHS 1999 quy định trong mọi trường hợp phạm tội mớitrong thời gian thử thách đối với người đang chấp hành bản án treo đều phải chấp hành hình phạttù của bản án cho hưởng án treo. – Quy định hạn chế phạm vi miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt,giảm thời hạn chấphành hình. Ví dụ: BLHS 1985 quy định với người bị kết án tù chung thân phải chấp hành được ítnhất là 10 năm mới được xét giảm lần đầu thời gian thực sự ở tù là 15 năm. Theo BLHS 1999người bị kết án tù chung thân phải chấp hành được ít nhất là 15 năm mới có thể được xét giảmlần đầu, thời gian ở tù ít nhất là 20 năm.2.4. GIẢI THÍCH ĐẠO LUẬT HÌNH SỰ Giải thích đạo luật hình sự là việc làm sáng rõ một cách chính xác nội dung và ý nghĩacủa các điều luật giúp cho việc áp dụng pháp luật hình sự được đúng đắn. Căn cứ vào nguồn gốc và giá trị của sự giải thích có các loại sau: 1/ Giải thích chính thức: Là giải thích của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, được quy định tạiĐiều 91 Hiến Pháp 1992. Việc giải thích này có tính chất bắt buộc với mọi cơ quan Nhà nước vàmọi công dân. 9
11. CHƯƠNG 3. TỘI PHẠM3.1. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA TỘI PHẠM3.1.1. Khái niệm tội phạm Khái niệm tội phạm được quy định tại Khoản 1, Điều 8 BLHS như sau: Tội phạm là hànhvi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS do người có năng lực trách nhiệm hình sựthực hiện một cách cố ý hoặc vô ý xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ tổquốc xâm phạm chế độ chính trị (thay chế độ XHCN), chế độ kinh tế nền văn hoá quốc phòng, anninh trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng sứckhoẻ, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của công dân xâmphạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật XHCN. Định nghĩa tội phạm về hình thức khác định nghĩa tội phạm về nội dung là nó chỉ rõ racác quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ là khách thể của tội phạm. Từ đó thấy được bản chấtgiai cấp của tội phạm (phục vụ, bảo vệ lợi ích giai cấp nào? Hành vi phạm tội gây nguy hiểm cholợi ích của giai cấp nào?). Như vậy, khái niệm về tội phạm nêu trong Khoản1, Điều 8 của BLHS là khái niệm tộiphạm về nội dung. Bởi vì, trong định nghĩa này nó đã xác định rõ phạm vi các quan hệ xã hộiđược luật hình sự Việt Nam điều chỉnh và bảo vệ.3.1.2. Các đặc điểm của tội phạm Về bản chất pháp lý thì tội phạm là một trong 4 loại vi phạm pháp luật, trong đó tội phạmlà vi phạm pháp luật hình sự nên nó phải chứa đựng đầy đủ các đặc điểm của vi phạm pháp luậtnói chung. Song bên cạnh đó nó còn mang các đặc điểm có tính đặc thù riêng của nó để dựa vàođó có thể phân biệt được tội phạm với các vi phạm pháp luật khác. Các đặc điểm đó đã được thểhiện trong khái niệm tội phạm, đó là: a. Tính nguy hiểm đáng kể cho xã hội Bất kỳ một hành vi vi phạm nào cũng đều có tính nguy hiểm cho xã hội, nhưng đối với tộiphạm thì tính nguy hiểm cho xã hội luôn ở mức độ cao hơn so với các loại vi phạm pháp luậtkhác. Đây là đặc điểm thể hiện dấu hiệu về nội dung của tội phạm nó quyết định các dấu hiệukhác như tính được quy định trong BLHS của tội phạm. Chính vì vậy, việc xác định dấu hiệu nàycó ý nghĩa như sau: 1. Là căn cứ quan trọng để phân biệt giữa các tội phạm và các vi phạm pháp luật khác. 2. Là dấu hiệu quan trọng nhất quyết định các dấu hiệu khác của tội phạm. 3. Là căn cứ quan trọng để quyết định hình phạt. Để xác định tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm chúng ta phải cânnhắc, xem xét, đánh giá một cách toàn diện các yếu tố sau: @ Tính chất của quan hệ xã hội bị xâm phạm. @ Phương pháp, thủ đoạn, công cụ, phương tiện phạm tội. @ Mức độ thiệt hại gây ra hoặc đe doạ gây ra. @ Hình thức và mức độ lỗi. @ Động cơ và mục đích phạm tội. @ Nhân thân người phạm tội. @ Hoàn cảnh chính trị xa hội lúc và nơi hành vi phạm tội xảy ra. @ Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. b. Tính có lỗi Một người thực hiện hành vi phạm tội luôn bị đe doạ phải áp dụng hình phạt – là biệnpháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất. Mục đích của hình phạt theo luật hình sự Việt Nam là khôngchỉ nhằm trừng trị người phạm tội mà chủ yếu nhằm cải tạo, giáo dục họ. Mục đích này chỉ đạt 11
12. được nếu hình phạt được áp dụng đối với người có lỗi khi thực hiện hành vi phạm tội – tức là khithực hiện hành vi phạm tội đó họ có đầy đủ điều kiện và khả năng để lựa chọn một biện pháp xửsự khác không gây thiệt hại cho xã hội nhưng họ đã thực hiện hành vi bị luật hình sự cấm gây hậuquả nguy hiểm cho xã hội. c. Tính trái pháp luật hình sự (tính được quy định trong BLHS) Bất kỳ một hành vi nào bị coi là tội phạm cũng đều được quy định trong BLHS. Đặc điểmnày đã được pháp điển hoá tại Điều 2 BLHS “chỉ người nào phạm một tội đã được bộ luật hình sựquy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự”. Như vậy, một người thực hiện hành vi dù nguy hiểmcho xã hội đến đâu nhưng hành vi đó chưa được quy định trong BLHS thì không bị coi là tội phạm. Đặc điểm này có ý nghĩa về phương diện thực tiễn là tránh việc xử lý tuỳ tiện của ngườiáp dụng pháp luật. Về phương diện lý luận nó giúp cho cơ quan lập pháp kịp thời bổ sung sửa đổiBLHS theo sát sự thay đổi của tình hình kinh tế – xã hội để công tác đấu tranh phòng chống tộiphạm đạt hiệu quả. d. Tính phải chịu hình phạt Đặc điểm này không được nêu trong khái niệm tội phạm mà nó là một dấu hiệu độc lập cótính quy kết kèm theo của tính nguy hiểm cho xã hội và tính trái pháp luật hình sự. Tính phải chịu hình phạt của tội phạm có nghĩa là bất cứ một hành vi phạm tội nào cũngbị đe doạ phải áp dụng một hình phạt đã được quy định trong BLHS. Từ việc phân tích các đặc điểm của tội phạm có thể đưa ra khái niệm tội phạm theo cácđặc điểm của nó: tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, được quy định trong bộ luậthình sự và phải chịu hình phạt.3.1.3. Ý nghĩa của khái niệm tội phạm Khái niệm tội phạm là khái niệm cơ bản nhất trong luật hình sự Việt Nam là cơ sở thốngnhất cho việc xác định những tội phạm cụ thể và các chế định khác của luật hình sự. Các kháiniệm khác tuy độc lập nhưng cũng chỉ là những khái niệm có tính chất cụ thể hoá và hoàn toànphụ thuộc vào khái niệm tội phạm. Khái niệm tội phạm là cơ sở thống nhất cho việc nhận thức và áp dụng pháp luật hình sựmột cách đúng đắn.3.2. PHÂN LOẠI TỘI PHẠM3.2.1. Khái niệm phân loại tội phạm Cơ sở phân loại tội phạm theo quy định của BLHS là dựa vào 2 tiêu chí: Thứ nhất: Căn cứ vào nội dung chính trị xã hội- đó chính là tính chất và mức độ nguyhiểm cho xã hội của tội phạm. Thứ hai: Căn cứ vào hậu quả pháp lý – biểu hiện của nó là mức hình phạt. Việc phân loại tội phạm càng thành nhiều nhóm khác nhau căn cứ vào tính chất và mứcđộ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm càng giúp cho việc cá thể hoá hình phạt được chính xác. Dựa vào 2 tiêu chí trên, tại K2, Điều 8 BLHS chia tội phạm thành 4 loại: Tội phạm ít nghiêm trọng là loại tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mứccao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy đến 3 năm tù. Tội phạm nghiêm trọng là loại tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhấtcủa khung hình phạt đối với tội ấy đến 7 năm tù. Tội phạm rất nghiêm trọng là loại tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức caonhất của khung hình phạt đối với tội ấy đến 15 năm tù. Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là loại tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội màmức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy trên 15 năm tù đến tù chung thân hoặc tử hình Theo khái niệm của mỗi loại tội phạm cho thấy, cơ sở để xác định chúng thuộc loại tộiphạm nào thực tế chỉ cần dựa vào mức cao nhất của từng khung hình phạt của mỗi điều luật phầncác tội phạm cụ thể của mỗi tội danh mà không thể xác định được mức độ gây nguy hại cho xã 12
13. hội của mỗi loại tội phạm như thế nào là chưa lớn, lớn, rất lớn và đặc biệt lớn. Do đó có thể kếtluận: @ Đối với một khung hình phạt của một tội phạm thì hoặc chỉ là tội ít nghiêm trọng,hoặc tội nghiêm trọng, hoặc tội rất nghiêm trọng, hoặc là tội đặc biệt nghiêm trọng. @ Đối với một tội phạm nếu chỉ có một khung hình phạt thì loại tội đó chỉ có thể là 1trong 4 loại tội. Nếu có từ hai khung hình phạt trở lên thì tội đó có thể vừa là tội ít nghiêm trọng,vừa là tội nghiêm trọng vừa là tội rất nghiêm trọng và có thể vừa là tội đặc biệt nghiêm trọng (vídụ Tội trộm cắp tài sản, Điều 138 BLHS).3.2.2. Ý nghĩa của việc phân loại tội phạm Việc phân loại tội phạm có ý nghĩa trong việc hoàn thiện và áp dụng các quy phạm phápluật hình sự như: Chế định tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Nguyên tắc xử lý người phạm tội. Chế định thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự. Điều kiện áp dụng một số loại hình phạt hoặc biện pháp tư pháp. Chế định tái phạm, tái phạm nguy hiểm, xoá án tích. Chế định tạm giam, thời hạn tạm giam. Việc áp dụng các quy phạm và các chế định trên đều phải xuất phát từ việc phân loại tộiphạm. Ví dụ: Điều 12 BLHS quy định “người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu TNHSvề tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng”.3.3. PHÂN BIỆT TỘI PHẠM VỚI CÁC VI PHẠM PHÁP LUẬT KHÁC3.3.1. Sự khác nhau giữa tội phạm và vi phạm pháp luật khác Vi phạm pháp luật khác Tội phạm (VPHC, VPDS, VPKL) 1.Mức độ nguy hiểm cho xã – Đáng kể – Không đáng kể. hội 2. Hậu quả pháp lý. – TNHS là biện pháp – TNHC, TNDS,TNKL là các biện pháp cưỡng chế nghiêm cưỡng chế ít nghiêm khắc hơn. khắc nhất 3. Hình thức pháp lý. – Chỉ được quy định – Quy định trong các văn bản quy phạm trong BLHS pháp luật khác.3.3.2. Các tiêu chuẩn để phân biệt giữa tội phạm và các vi phạm pháp luật khác a. Đối với nhà làm luật căn cứ vào tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm để phân biệtgiữa tội phạm và vi phạm pháp luật khác. Đó là Dựa vào sự đánh giá tính chất của các quan hệ xã hội bị xâm hại. Dựa vào sự đánh giá hình thức mức độ lỗi. Dựa vào sự đánh giá mức độ thiệt hại gây ra. b. Đối với người giải thích pháp luật căn cứ vào tính nguy hiểm cho xã hội của hành viđể phân biệt sự khác nhau giữa tội phạm và vi phạm pháp luật khác. Cụ thể: Đánh giá mức độ thiệt hại gây ra. Đánh giá phương pháp thủ đoạn, động cơ phạm tội. Đánh giá nhân thân người phạm tội. c. Đối với người áp dụng pháp luật dựa vào tính được quy định trong bộ luật hình sự đểphân biệt tội phạm với vi phạm pháp luật khác.3.4. VẤN ĐỀ NGUỒN GỐC VÀ BẢN CHẤT GIAI CẤP CỦA TỘI PHẠM Tội phạm chỉ tồn tại trong chế độ xã hội có giai cấp. Các nguyên nhân dẫn đến sự ra đờicủa Nhà nước và pháp luật cũng là những nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của tội phạm. 13
14. Tính giai cấp của tội phạm được thể hiện ở 2 phương diện: @ Một hành vi nào bị coi là tội phạm hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí của giai cấp thống trịtrong xã hội. @ Bất kỳ một tội phạm nào cũng đều xâm hại đến các quan hệ xã hội được giai cấp thốngtrị bảo vệ vì lợi ích của họ. 14
15. CHƯƠNG 4. CẤU THÀNH TỘI PHẠM4.1. CÁC YẾU TỐ CỦA TỘI PHẠM Xét về bản chất, nội dung chính trị xã hội và nội dung pháp lý, tội phạm là hiện tượng xãhội có tính giai cấp và tính lịch sử, được đặc trưng bởi tính nguy hiểm cho xã hội và tính đượcquy định trong bộ luật hình sự. Nếu nghiên cứu về mặt cấu trúc, mỗi tội phạm đều hợp thành bởi4 yếu tố nhất định, tồn tại không tách rời nhau nhưng có thể phân chia trong tư duy và do vậy cóthể cho phép nghiên cứu chúng một cách độc lập với nhau, đó là: 1/ Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạmxâm hại bằng cách gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội đó. 2/ Mặt khách quan của tội phạm là những biểu hiện bên ngoài của tội phạm bao gồmhành vi, hậu quả, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả, công cụ, phương tiện, phươngpháp, thủ đoạn, thời gian, địa điểm, và hoàn cảnh phạm tội. 3/ Chủ thể của tội phạm là người thực hiện hành vi phạm tội phải có năng lực trách nhiệmhình sự và đạt một độ tuổi luật định. 4/ Mặt chủ quan của tội phạm là diễn biến tâm lý bên trong của người phạm tội bao gồmlỗi, động cơ và mục đích phạm tội.4.2. CẤU THÀNH TỘI PHẠM4.2.1. Khái niệm cấu thành tội phạm Hiện tượng của tội phạm trộm cắp tài sản M – Dùng chìa khoá mở cửa – lấy vi tính của B. nhà của B X – Lợi dụng sơ hở của A – móc túi của A lấy được 3 triệu đồng. Y – Trong khi C vắng nhà, – lấy được 1 máy điện thoại di Y đã đột nhập vào nhà C động trị giá 5 triệu đồng. Như vậy, hiện tượng trộm cắp tài sản rất phong phú, đa dạng. Mỗi trường hợp phạm tộitrộm cắp khác nhau thì sự thể hiện về thực tế là khác nhau như: khác nhau về con người thực hiệntội phạm, khác nhau về thủ đoạn phạm tội, khác nhau thời gian, địa điểm, công cụ phương tiệnphạm tội, khác nhau về tài sản bị chiếm đoạt, khác nhau về người bị hại, vv… Nhưng bất kỳ mộttrường hợp phạm tội trộm cắp nào cũng phải thoả mãn đầy đủ các dấu hiệu có tính chất đặc trưngcho loại tội phạm trộm cắp tài sản đó là: người phạm tội phải từ đủ 16 tuổi trở lên,có năng lựctrách nhiệm hình sự, tội phạm xâm phạm tới quan hệ sở hữu, hành vi lén lút, hành vi bí mậtchiếm đoạt tài sản đang do người khác quản lý và với hình thức lỗi cố ý trực tiếp. Các dấu hiệunày được quy định trong BLHS tại Điều 138. Các dấu hiệu này được gọi là các dấu hiệu cấuthành tội phạm (CTTP) của tội trộm cắp tài sản. Chúng ta có thể thấy được mối quan hệ giữa tội phạm với CTTP của một loại tội như sau: Tội phạm – hiện tượng Cấu thành tội phạm- Mô hình lý luận (Tồn tại trong thực tế khách quan. Đa dạng, (Là các dấu hiệu đặc trưng cho một loại tội phong phú). được quy định trong BLHS. Chỉ có một CTTP cho một loại tội) – Khách thể: Quan hệ xã hội trực tiếp bị tội – Khách thể: Quan hệ xã hội trực tiếp bị tội phạm xâm hại. phạm xâm hại. – Mặt khách quan: hành vi khách quan, hậu – Mặt khách quan: hành vi khách quan, hậu quả, công cụ, phương tiện, phương pháp thủ quả, công cụ, phương tiện, phương pháp thủ 15
16. đoạn, thời gian địa điểm, hoàn cảnh phạm đoạn, thời gian địa điểm, hoàn cảnh phạm tội. tội. – Chủ thể: tuổi, năng lực trách nhiệm hình sự. – Chủ thể: tuổi, năng lực trách nhiệm hình sự. – Mặt chủ quan: lỗi, động cơ, mục đích phạm – Mặt chủ quan: lỗi động cơ, mực đích phạm tội. tội. Từ những nội dung đã phân tích như trên có thể đưa ra khái niệm CTTP như sau: Cấuthành tội phạm là tổng hợp các dấu hiệu chung có tính đặc trưng cho một loại tội cụ thể đượcquy định trong bộ luật hình sự. Nội dung của CTTP chính là sự phản ánh các dấu hiệu của cấu thành tội phạm.Các dấu hiệu đó là: Quan hệ xã hội bị xâm hại, độ tuổi, năng lực trách nhiệm hình sự, hành vikhách quan, hậu quả, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả, công cụ, phương tiện,phương pháp, thủ đoạn phạm tội, lỗi,động cơ, mục đích phạm tội. Các dấu hiệu bắt buộc phải có trong mọi cấu thành tội phạm là: quan hệ xã hội bịxâm hại, độ tuổi, năng lực trách nhiệm hình sự, hành vi khách quan và lỗi. Một CTTP của một loại tội luôn luôn phải chứa đựng đầy đủ 4 yếu tố cấu thànhtội phạm. Đó là: khách thể, mặt khách quan, chủ thể, mặt chủ quan. Song các dấu hiệu trong mỗimột CTTP có thể nhiều ít khác nhau.4.2.2. Các đặc điểm của cấu thành tội phạm a. Các dấu hiệu trong CTTP đều do luật định Chỉ Nhà nước mới có quyền quy định một hành vi nào là tội phạm bằng cách là mô tảnhững dấu hiệu đó và quy định chúng trong BLHS. Cơ quan giải thích và áp dụng pháp luật chỉđược phép giải thích nội dung những dấu hiệu đã được quy định trong BLHS. Việc thêm hoặc bớtbất kỳ một dấu hiệu nào đó của CTTP đều có thể dẫn đến tình trạng định tội sai hoặc bỏ lọt tộihoặc làm oan người vô tội. Các dấu hiệu trong CTTP của một loại tội được quy định trong phần chung củaBLHS như: tuổi, tình trạng năng lực trách nhiệm hình sự, lỗi; và chúng được quy định trong phầncác tội phạm của BLHS như dấu hiệu: hành vi khách quan, hậu quả của tội phạm, quan hệ xã hộibị xâm hại… b. Các dấu hiệu của CTTP mang tính đặc trưng điển hình Một loại tội phạm chỉ được đặc trưng bởi một CTTP và một CTTP chỉ đặc trưng cho mộtloại tội phạm, đó là dấu hiệu đặc trưng. Dấu hiệu đặc trưng của CTTP còn thể hiện ở chỗ chỉ cácdấu hiệu nào nói lên bản chất đặc trưng của loại tội đó để phân biệt tội phạm đó với tội phạmkhác mới được ghi nhận trong CTTP. Một dấu hiệu có thể được phản ánh trong nhiều cấu thành tội phạm nhưng giũa các cấuthành tội phạm khác nhau phải có ít nhất một dấu hiệu khác nhau Đó là dấu hiệu điển hình. Ví dụ: Chiếm đoạt tài sản Tội cướp Hành vi dùng vũ lực Tước bỏ tính mạng con người Giết người Giao cấu Hiếp dâmDấu hiệu chung Dấu hiệu điển hình Hoặc ví dụ về CTTP trộm cắp với CTTP lừa đảo có rất nhiều dấu hiệu chung giống nhaunhư: quan hệ sở hữu bị xâm hại, độ tuổi, năng lực TNHS, hành vi chiếm đoạt tài sản, lỗi cố ý trựctiếp. Nhưng giữa 2 CTTP này có 2 dấu hiệu mang tính điển hình cho mỗi CTTP đó là: hành vi lénlút trong tội trộm cắp tài sản và hành vi gian dối trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Như vậy,giữa 2 CTTP khác nhau phải khác nhau ít nhất một dấu hiệu, đó chính là dấu hiệu điển hình. 16
17. c. Các dấu hiệu của cấu thành tội phạm có tính bắt buộc Một hành vi chỉ bị coi là tội phạm khi nó thoả mãn đầy đủ các dấu hiệu của một cấu thànhtội phạm. Nếu thiếu hoặc thừa bất kỳ một dấu hiệu nào đó thì nó có thể không phải là tội phạmhoặc tội phạm khác. Nghĩa là tất cả dấu hiệu của cấu thành tội phạm đều là điều kiện cần và đủ đểđịnh tội danh. Các dấu hiệu của CTTP là các dấu hiệu bắt buộc được quy định ở phần chung hoặc phầncác tội phạm cụ thể của BLHS. Chú ý: Một số trường hợp trong đồng phạm hoặc phạm tội chưa đạt hay trong giai đoạnchuẩn bị phạm tội thì hành vi của người phạm tội thiếu đi một hoặc một số các dấu hiệu trongmột cấu thành tội phạm. Trường hợp này khi định tội phải kết hợp các quy phạm pháp luật phầnchung về đồng phạm, các giai đoạn thực hiện tội phạm. Vì mỗi quy phạm pháp luật phần các tộiphạm cụ thể chỉ phản ánh các dấu hiệu của cấu thành tội phạm đã hoàn thành và đối với trườnghợp phạm tội riêng lẻ. 4.2.3. Phân loại cấu thành tội phạm a. Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm Dựa vào tiêu chí này có 3 loại CTTP như sau: Cấu thành tội phạm cơ bản là loại cấu thành tội phạm chỉ có dấu hiệu định tội, đó lànhững dấu hiệu mô tả tội phạm cho phép phân biệt giữa tội này với tội khác. Cấu thành tội phạm cơ bản đa số được quy định ở khoản 1 của phần các tội phạmcụ thể của BLHS. Riêng Điều 93 Tội giết người, CTTP cơ bản được quy định ở Khoản 2. Cấu thành tội phạm tăng nặng là loại cấu thành tội phạm ngoài các dấu hiệu định tội còncó thêm các dấu hiệu phản ánh tội phạm có mức độ nguy hiểm cho xã hội tăng lên một cách đángkể (được gọi là các dấu hiệu định khung tăng nặng). Các dấu hiệu định khung tăng nặng được quy định tại khoản 2, 3, 4 phần các tộiphạm cụ thể (từ Điều 78 đến Điều 344). Trừ Điều 93 tội giết người, các dấu hiệu định khung tăngnặng được quy định tại Khoản 1. Cấu thành tội phạm giảm nhẹ là loại cấu thành tội phạm ngoài các dấu hiệu định tội còncó thêm các dấu hiệu phản ánh tội phạm có mức độ nguy hiểm cho xã hội giảm xuống một cáchđáng kể (được gọi là các dấu hiệu định khung giảm nhẹ). Các dấu hiệu định khung giảm nhẹ được quy định tại khoản 4 của nhóm các tội xâm phạmtrật tự an toàn giao thông (từ Điều 202 đến Điều 218). Như vậy, có thể phác hoạ 3 loại CTTP này theo công thức sau: Cấu thành tội phạm cơ bản = các dấu hiệu định tội. Cấu thành tội phạm tăng nặng = các dấu hiệu định tội + dấu hiệu định khung tăngnặng. Cấu thành tội phạm giảm nhẹ = dấu hiệu định tội + dấu hiệu định khung giảmnhẹ. Do đó, nội dung được phản ánh trong 3 loại CTTP là các dấu hiệu với 3 loại – dấu hiệuđịnh tội, dấu hiệu định khung tăng nặng và dấu hiệu định khung giảm nhẹ. Về phương diện khoa học luật hình sự thì các dấu hiệu được quy định trong mỗi CTTPtrong BLHS cũng chính là các tình tiết. Vì vậy, tương ứng với 3 loại dấu hiệu trong CTTP là 3loại tình tiết – tình tiết định tội, tình tiết định khung tăng nặng và tình tiết định khung giảm nhẹ. Tình tiết định tội là những tình tiết được phản ánh bởi các dấu hiệu trong cấuthành tội phạm cơ bản dùng để mô tả một loại tội. Chúng được quy định ở cả phần chung và phầncác tội phạm cụ thể. Tình tiết định khung tăng nặng hoặc giảm nhẹ là những tình tiết làm thay đổi mộtlượng đáng kể tính chất nguy hiểm cho xã hội của một loại tội. Ngoài ra, trong BLHS còn quy định trong phần chung tại Điều 46 và Điều 48 một 17
18. loại tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là loại tình tiết không được ghinhận trong các dấu hiệu cấu thành tội phạm (không có ý nghĩa trong việc định tội, định khunghình phạt mà chỉ có ý nghĩa trong việc quyết định hình phạt). Chúng ta có thể phân biệt giữa tình tiết định khung tăng nặng hoặc giảm nhẹ với tình tiếttăng nặng hoặc giảm nhẹ TNHS như sau: Tiêu chí so sánh Tình tiết định khung Tình tiết tăng nặng hoặc tăng nặng, giảm nhẹ giảm nhẹ. – Sự thay đổi về mức độ nguy hiểm – Làm thay đổi một lượng – Làm thay đổi một lượng cho xã hội của tội phạm. đáng kể. không đáng kể. – Ví trí pháp lý – Được quy định trong – Được quy định tại Điều Khoản 2, 3, 4 phần các tội 46, Điều 48 của phần phạm cụ thể chung. – Tính chất pháp lý trong việc xác – Bắt buộc. – Không bắt buộc. định CTTP. b. Căn cứ vào đặc điểm cấu trúc trong mặt khách quan của CTTP Dựa vào tiêu chí này có 2 loại CTTP: Cấu thành tội phạm hình thức là loại cấu thành tội phạm trong mặt khách quan chỉ có dấuhiệu hành vi khách quan. Cấu thành tội phạm vật chất là loại cấu thành tội phạm có các dấu hiệu trong mặt kháchquan là hành vi khách quan, hậu quả, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả. Cơ sở khoa học của việc xây dựng cấu thành tội phạm vật chất hoặc cấu thành tội phạmhình thức là: * Nếu chỉ riêng hành vi nguy hiểm cho xã hội đã thể hiện đầy đủ bản chất nguy hiểm choxã hội của tội phạm hoặc hoặc hậu quả khó xác định thì xây dựng cấu thành tội phạm hình thức. Ví dụ: Các tội xâm phạm an ninh quốc gia, Tội cướp tài sản. * Nếu hậu quả dễ xác định hoặc bản chất nguy hiểm cho xã hội của tội phạm chỉ thể hiệnđầy đủ trong cả dấu hiệu hành vi và hậu quả thì xây dựng cấu thành tội phạm vật chất. Ví dụ: Tội trộm cắp tài sản, Tội giết người. Ngoài ra, trong BLHS còn có một loại CTTP đặc biệt đó là cấu thành tội phạm cắt xén làloại cấu thành tội phạm mà trong mặt khách quan chỉ có dấu hiệu hành vi nguy hiểm cho xã hộinhưng dấu hiệu hành vi không phải là phản ánh chính hành vi phạm tội. Loại CTTP này được quyđịnh tại Điều 79 – Tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân.. Trong mặt khách quan của cấu thành tội phạm của Điều 79 được phản ảnh bởi một tronghai hành vi: * Hành vi thành lập tổ chức, về bản chất thì đây là hành vi chuẩn bị phạm tội. Vì vậy nó được gọi là cấu thành tội phạm cắt xén. * Hành vi tham gia vào tổ chức hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân. Đối với hành vi này đây là cấu thành tội phạm hình thức.4.3. Ý NGHĨA CỦA CẤU THÀNH TỘI PHẠM4.3.1. Cấu thành tội phạm là cơ sở pháp lý của trách nhiệm hình sự Điều 2 BLHS quy định: “Chỉ người nào thực hiện một hành vi phạm tội được quy địnhtrong BLHS mới phải chịu trách nhiệm hình sự”. Cơ sở để xác định một hành vi bị coi là tộiphạm khi thoả mãn đầy đủ các dấu hiệu được phản ánh trong cấu thành tội phạm. Cấu thành tội phạm là điều kiện cần và đủ để truy cứu trách nhiệm hình sự. Điều kiện cần chỉ có dựa vào các dấu hiệu của cấu thành tội phạm mới xác định được tráchnhiệm hình sự của người phạm tội. 18
19. Điều kiện đủ ngoài những dấu hiệu được phản ánh trong cấu thành tội phạm để xác địnhtrách nhiệm hình sự của người phạm tội không cần xác định bất kỳ một dấu hiệu nào khác.4.3.1. Cấu thành tội phạm là cơ sở pháp lý của định tội danh Để định tội danh cho một trường hợp phạm tội cụ thể người áp dụng pháp luật phảicăn cứ các dấu hiệu của cấu thành tội phạm để đi đến kết luận hành vi đó phạm vào điều nào,khoản nào trong BLHS. Đó cũng chính là kết quả của hoạt động định tội danh. Bài tập tình huống Bảo Thị Hoài P (23 tuổi) và anh Lê Văn L (27 tuổi) cùng quê ở Đồng Tháp, kết hônvới nhau từ năm 1985, đã có một con chung 6 tuổi. Trong thời gian chung sống, L thườngxuyên ngược đãi và đánh đập P nên hai người đã có giai đoạn sống ly thân với nhau. Đến năm 1995, cả hai đã hàn gắn lại mối quan hệ vợ chồng và lên Thành phố HCM làmăn, sinh sống. Ngày 08/02/2002, do hai người có mâu thuẫn nhỏ trong việc giáo dục con, L và Pđã lời qua tiếng lại với nhau. Trong lúc nóng giận, L đã doạ đòi giết P và lấy con dao chặt xươngđể bên cạnh giường rồi đi ngủ. Thấy con dao đặt cạnh chồng, P thấy sợ liền lấy cất đi. Vừa lúc đó, L giật mình tỉnh dậy,giằng con dao trên tay P làm dao rơi trúng cổ L. Sợ L chém mình nên P chụp vội lấy con dao vàchém nhiều nhát vào đầu, lưng L. Khi L chết, lo sợ bị phát hiện nên P đã cắt xác L ra nhiều phầncho vào bao bì, sau đó thuê xích lô đến chở xác L và giấu ở ba nơi. Thực hiện xong việc tẩu tán xác L, P bỏ trốn về Đồng Tháp và một tuần sau thì bị bắt. Hãy xác định các tình tiết trong cấu trúc của tội phạm trên. 19
20. CHƯƠNG 5. KHÁCH THỂ CỦA TỘI PHẠM5.1. KHÁCH THỂ CỦA TỘI PHẠM5.1.1 Khái niệm Khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị các hànhvi phạm tội xâm hại đến. Việc quy định những quan hệ xã hội nào được luật hình sự bảo vệ là khách thể của tộiphạm nó phụ thuộc vào ý chí và lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội nhưng thường thì nó làcác quan hệ xã hội quan trọng trong đời sống xã hội. Khách thể của tội phạm chính là đối tượng bảo vệ của luật hình sự được quy định ở K1,Điều 8 của BLHS. Ý nghĩa của việc xác định khách thể của tội phạm thể hiện ở các phương diện như sau: @ Là căn cứ để định tội. @ Là căn cứ quan trọng để phân biệt tội phạm với các vi phạm pháp luật khác. @ Là căn cứ quan trọng để xác định tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tộiphạm. @ Thông qua khách thể của tội phạm có thể thấy được bản chất giai cấp của luật hình sựViệt Nam.5.1.2. Phân loại khách thể của tội phạm Dựa vào phạm trù cái chung, riêng và cái đặc thù của phép biện chứng duy vật trong triếthọc Mác – Lê Nin có thể chia khách thể của tội phạm thành 3 nhóm sau: a. Khách thể chung của tội phạm Khách thể chung của tội phạm là tổng hợp các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệkhỏi sự xâm hại của tội phạm. Phạm vi khách thể chung (đối tượng bảo vệ) của luật hình sự được quy định ở Khoản 1,Điều 8 BLHS. Ý nghĩa của việc xác định khách thể chung của tội phạm là nhìn vào khách thể chungchúng ta thấy được phạm vi các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ cũng như thấy đượcchính sách hình sự của Nhà nước ta trong mỗi một giai đoạn cách mạng. b. Khách thể loại của tội phạm Khách thể loại của tội phạm là một nhóm quan hệ xã hội cùng tính chất được một nhómcác quy phạm pháp luật hình sự bảo vệ tránh khỏi sự xâm hại của một nhóm tội phạm. Ý nghĩa của việc xác định khách thể loại của tội phạm là cơ sở để hệ thống hoá các quyphạm pháp luật phần các tội phạm cụ thể trong BLHS thành từng chương. c. Khách thể trực tiếp của tội phạm Khách thể trực tiếp của tội phạm là quan hệ xã hội cụ thể bị một loại phạm cụ thể trựctiếp xâm hại. Khi có một tội phạm xảy ra có thể xâm hại tới một hoặc nhiều quan hệ xã hội. * Nếu tội phạm đó chỉ xâm hại tới một quan hệ xã hội thì đó chính là khách thể trực tiếpcủa tội phạm. * Nếu tội phạm đó xâm hại tới nhiều quan hệ xã hội thì: @ Tội phạm đó chỉ có một khách thể trực tiếp nếu một trong số các quan hệ xã hội bị xâmhại đã thể hiện đầy đủ bản chất nguy hiểm cho xã hội của tội phạm. Ví dụ: Tội trộm cắp tài sản-chỉ có một khách thể trực tiếp là quan hệ sở hữu. Vì chỉ quan hệ sở hữu bị xâm hại đã thể hiệnđầy đủ bản chất nguy hiểm cho xã hội của tội phạm. Đồng thời, quan hệ sở hữu của tội trộm cắptài sản cũng là quan hệ xã hội trực tiếp bị tội phạm này xâm hại. Còn các quan hệ khác như tínhmạng. sức khoẻ, trật tự an toàn xã hội cũng bị tội trộm cắp tài sản gây thiệt hại, song sự gây thiệt 20
21. hại này chỉ là gián tiếp. @ Tội phạm có nhiều khách thể trực tiếp nếu bản chất nguy hiểm cho xã hội của tội phạmchỉ thể hiện đầy đủ trong tổng thể các quan hệ xã hội bị xâm hại. Ví dụ: Tội cướp tài sản, Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản-có 2 khách thể trực tiếp làquan hệ sở hữu và quan hệ nhân thân. Vì bản chất nguy hiểm cho xã hội của mỗi tội phạm nàychỉ thể hiện đầy đủ trong tổng thể 2 quan hệ xã hội bị xâm hại. Đồng thời, quan hệ sở hữu vàquan hệ nhân thân của tội cướp tài sản và tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản cũng là quan hệ xãhội trực tiếp bị tội phạm này xâm hại. Còn các quan hệ khác như tính mạng. sức khoẻ của thânnhân con tin, trật tự an toàn xã hội cũng bị tội phạm gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại. Songsự gây thiệt hại này chỉ là gián tiếp.5.2. ĐỐI TƯỢNG TÁC ĐỘNG CỦA TỘI PHẠM5.2.1. Khái niệm đối tượng tác động của tội phạm Đối tượng tác động của tội phạm là một bộ phận của khách thể của tội phạm mà khi tácđộng lên nó, người phạm tội gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại cho những quan hệ xã hộiđược luật hình sự bảo vệ. Trong nội tại của khái niệm trên về đối tượng tác động của tội phạm cho thấy sự thể hiệnở 2 mặt: Thứ nhất: Về mặt nội dung thì đối tượng tác động của tội phạm là cái thông qua sự tác độnglên nó tội phạm trực tiếp gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội là khách thể bảo vệ của luật hình sự.Vấn đề này có thể được đánh giá qua sự phân tích các ví dụ sau: Ví dụ 1: Đối với tội phạm giết người. A dùng dao đâm chết B. Trong trường hợp phạm tội này, tội phạm xâm hại quan hệ nhânthân của B và chỉ có thể thông qua sự tác động lên cơ thể của B mới có thể gây thiệt hại đến tínhmạng của B. Do đó, đối tượng tác động của tội phạm là con người B – B là chủ thể của quan hệnhân thân. Ví dụ 2: Đối với tội trộm cắp tài sản A trộm ti vi của B. Tội phạm xâm hại đến quan hệ sở hữu của B. Trong trường hợp này,chỉ có thể thông qua sự tác động vào chiếc ti vi mới có thể gây thiệt hại cho quan hệ sở hữu củaB. Do đó, đối tượng tác động của tội phạm là chiếc ti vi của B – là đối tượng vật chất là khách thểcủa quan hệ xã hội. Ví dụ 3. Đối với tội đưa hối lộ A là cán bộ kiểm lâm đã nhận 10 triệu đồng của B là lâm tặc đang vận chuyển gỗ lậu.Trong trường hợp này tội phạm xâm hại đến quan hệ về sự hoạt động đúng đắn của ngành kiểmlâm và chỉ có thể thông qua sự tác động làm thay đổi tới quyền và nghĩa vụ của cán bộ kiểm lâmmới có thể gây thiệt hại cho sự hoạt động đúng đắn của ngành kiểm lâm. Do đó, đối tượng tácđộng của tội phạm là quyền và nghĩa vụ của A – là nội dung của quan hệ xã hội. Thứ hai: Xét về mặt cấu trúc đối tượng tác động của tội phạm là một bộ phận của kháchthể của tội phạm. Như vậy, khách thể của tội phạm phải được hợp thành bởi nhiều bộ phận trongđó có một bộ phận là về đối tượng tác động của tội phạm.Khách thể của tội phạm chính là các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Như vậy, các bộphận hợp thành của khách thể của tội phạm cũng chính là các bộ phận hợp thành của các quan hệxã hội là khách thể của tội phạm. Các bộ phận hợp thành của quan hệ xã hội đó là: Con người chủ thể của quan hệ xã hội, cácđối tượng vật chất là lợi ích mà các chủ thể hướng tới là khách thể của quan hệ xã hội và quyền vànghĩa vụ của các chủ thể là nội dung của quan hệ xã hội. Đối tượng tác động của tội phạm có thể làmột trong ba bộ phận trên của khách thể của tội phạm. * Nhận xét về đối tượng tác động của tội phạm: @ Để gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội can phạm phải tác động vào đối tượng tác 21
22. động. Cơ sở để xác định mức độ thiệt hại mà tội phạm gây ra phải dựa vào mức độ làm biến đổitình trạng bình thường của đối tượng tác động. @ Các quan hệ xã hội khách thể của tội phạm trong mọi trường hợp luôn bị gây thiệt hạihoặc đe doạ gây thiệt hại nếu có tội phạm xảy ra. @ Đối tượng tác động của tội phạm có thể ở tình trạng tốt hơn tình trạng ban đầu (nếuđối tượng tác động của tội phạm là đối tượng vật chất).5.2.2. Các loại đối tượng tác động của tội phạm Con người với tư cách là chủ thể của quan hệ xã hội có thể là đối tượng tác động của tộiphạm.Ví dụ: tội giết người. Các đối tượng vật chất với ý nghĩa là khách thể của quan hệ xã hội có thể là đối tượng tácđộng của tội phạm. Ví dụ: các tội xâm phạm sở hữu. Quyền và nghĩa vụ của các chủ thể là nội dung của quan hệ xã hội có thể là đối tượng tácđộng của tội phạm. Ví dụ: các tội xâm phạm hoạt động của cơ quan tư pháp, các tội phạm thamnhũng. 22
23. CHƯƠNG 6. MẶT KHÁCH QUAN CỦA TỘI PHẠM6.1. KHÁI NIỆM MẶT KHÁCH QUAN CỦA TỘI PHẠM6.1.1. Khái niệm Mặt khách quan (MKQ) của tội phạm là những biểu hiện của tội phạm ra bên ngoài thếgiới khách quan bao gồm hành vi khách quan, hậu quả nguy hiểm cho xã hội, mối quan hệ nhânquả giũa hành vi và hậu quả, công cụ phương tiện, phương pháp, thủ đoạn, hoàn cảnh, địa điểmphạm tội. Những dấu hiệu trong mặt khách quan thường được mô tả tỉ mỉ trong các điều khoảnphần các tội phạm cụ thể. Một phần, vì các dấu hiệu trong mặt khách quan biểu hiện ra bên ngoàidễ nhận biết hơn các yếu tố khác. Mặt khác, giữa các tội phạm khác nhau chúng khác nhau chủyếu ở các dấu hiệu trong MKQ.6.1.2. ý nghĩa của các dấu hiệu trong MKQ của tội phạm Hành vi khách quan và một số dấu hiệu khác trong MKQ của tội phạm như hậu quả,phương pháp, thủ đoạn phạm tội được phản ảnh là dấu hiệu bắt buộc. Việc nghiên cứu, xác địnhchúng có ý nghĩa về mặt định tội. Trong cấu thành tội phạm tăng nặng của một số tội, một số các biểu hiện trong MKQ nhưhậu quả, phương pháp, thủ đoạn, công cụ…được phản ảnh là dấu hiệu định khung. Việc xác địnhchúng có ý nghĩa trong việc định khung hình phạt. Một số tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là một số biểu hiện trongMKQ của tội phạm. Việc xác định chúng có ý nghĩa trong việc quyết định hình phạt.6.2. HÀNH VI KHÁCH QUAN CỦA TỘI PHẠM6.2.1. Khái niệm Quan điểm truyền thống về khái niệm hành vi khách quan của tội phạm được thể hiệntrong các giáo trình luật hình sự Việt Nam phần chung đó là Hành vi khách quan của tội phạm lànhững biểu hiện của con người ra bên ngoài thế giới khách quan dưới những hình thức cụ thểnhằm đạt những mục đích có chủ định và mong muốn. Theo khái niệm này thì hành vi khách quan của tội phạm được hiểu là hành vi của conngười nói chung bao gồm cả hành vi hợp pháp và hành vi bất hợp pháp. Chỉ có xuất phát từ việcnghiên cứu, chỉ ra các đặc điểm của hành vi khách quan của tội phạm mới có thể đưa ra kháiniệm này thể hiện tính khoa học. Khi so sánh hành vi của con người là hành vi hợp pháp với hành vi vi phạm pháp luật làhành vi phạm tội với các hành vi vi phạm pháp luật khác có thể chỉ ra hành vi khách quan của tộiphạm có các đặc điểm sau: @ Hành vi khách quan của tội phạm có tính nguy hiểm đáng kể cho xã hội. @ Hành vi khách quan của tội phạm có tính trái pháp luật hình sự (được quy định trongBLHS phần các tội phạm cụ thể). @ Hành vi khách quan của tội phạm là hành vi có thức và có ý chí tức là có khả năngnhận thức được tính chất nguy hiểm của hành vi, và có khả năng kiềm chế không thực hiện hànhvi phạm tội. Hay nói cách khác, hành vi khách quan của tội phạm phải được ý thức kiểm soát vàý chí điều khiển. Một người thực hiện một hành vi gây thiệt hại cho xã hội trong trường hợp bị cưỡng bứcvề tinh thần – bị đe doạ (bị khống chế về tư tưởng) có thể phải chịu trách nhiệm hình sự có thểkhông. Trường hợp thứ nhất nếu người thực hiện hành vi gây hậu quả thiệt hại cho xã hội khi bịkhống chế toàn bộ về tư tưởng thì không phải chịu trách nhiệm hình sự. Ví dụ: A giơ súng dí vào đầu B và ra điều kiện phải ném lựu đạn vào nhà M, nếu không 23
24. thì A bắn chết B. Sự đe doạ này đặt trong hoàn cảnh cụ thể đó sẽ là hiện thực nếu B không tuânthủ và B làm theo sự khống chế của A gây hậu quả chết người hoặc gây thiệt hại về tài sản thì Bkhông phải chịu TNHS. Trường hợp này, hành vi của B là hành vi có ý thức nhưng không có ýchí. Trường hợp thứ hai nếu người thực hiện hành vi gây hậu quả thiệt hại cho xã hội khi bị khốngchế một phần về tư tưởng thì được miễn trách nhiệm hình sự một phần. Mức độ trách nhiệm hình sựphụ thuộc vào mức độ bị đe doạ. Ví dụ: Avà B là đối tượng sống lang thang ở bến xe (B không còn cha mẹ và không nơinương tựa). Vào lúc 8 giờ ngày 22/03/2005, A khống chế B cướp giật hành lý của hành kháchtrên xe đưa cho A, nếu không A sẽ trục xuất B ra khỏi băng nhóm. Nếu B thực hiện theo sự khốngchế của A thì B vẫn phải chịu TNHS về tội cướp giật tài sản với tình tiết giảm nhẹ phạm tội do bịngười khác đe doạ, cưỡng bức. Để xác định tính chất mãnh liệt của hành vi đe doạ phải đánh giá một cách khách quan,toàn diện các tình tiết như: thời gian, hoàn cảnh địa điểm, công cụ, thái độ, cường độ của sự đedoạ. Một người thực hiện hành vi gây thiệt hại cho xã hội trong trường hợp bị cưỡng bức thânthể không phải chịu trách nhiệm hình sự vì thực tế họ chỉ là công cụ trong tay kẻ cưỡng bức. Việcthực hiện hành vi gây thiệt hại cho xã hội hoàn toàn do sức mạnh bạo lực bên ngoài. Ví dụ: B đang đứng cạnh A xem A chặt chuối. Trong lúc A đang giơ dao hướng về phíabuồng chuối để chặt thì bất ngờ M chạy tới bắt tay A chém B. Trường hợp này, A gây thương tíchcho B trong trường hợp bị cưỡng bức về thể chất, A không phải chịu TNHS về hậu quả thươngtích của B. Có thể phân biệt sự khác nhau giữa cưỡng bức về thân thể và cưỡng bức về tinh thần nhưsau: Cưỡng bức thân thể Cưỡng bức tinh thần- Chỉ có sự tác động lên thân thể. – Có thể tác động lên thân thể có thể không. Nếu tác động lên thân thể qua đó tác động đến tư tưởng người bị cưỡng bức.- Người bị cưỡng bức không có khả năng – Người bị cưỡng bức có thể lựa chọn ít nhất hailựa chọn bất kỳ một xử sự nào. xử sự. Từ những nội dung đã phân tích trên có thể đưa ra khái niệm về hành vi khách quan củatội phạm như sau: Hành vi khách quan của tội phạm là hành vi được quy định trong phần các tộiphạm cụ thể của BLHS có tính nguy hiểm đáng kể cho xã hội và là hành vi có ý thức kiểm soátvà có ý chí,6.2.2. Các hình thức của hành vi khách quan của tội phạm a. Hành động phạm tội Hành động phạm tội là hình thức của hành vi phạm tội để làm biến đổi tình trạng bìnhthường của đối tượng tác động gây thiệt hại cho khách thể qua việc chủ thể làm một việc bị phápluật hình sự cấm. Đối với tội phạm thì hành động phạm tội thường thể hiện ở các dạng như sau: @ Người phạm tội có thể tác động trực tiếp vào đối tượng tác động. Ví dụ: A phạm tội giết người bằng cách dùng tay bóp cổ B cho đến khi B chết @ Có thể thông qua công cụ, phương tiện. Ví dụ: A phạm tội giết người bằng cách dùng dao chặt nhiều nhát vào người B cho đếnkhi B chết. @ Có thể bằng lời nói. Ví dụ: A làm nhục B bằng cách chửi rủa, miệt thị B trước đám đông nhằm hạ thấp danhdự của B 24
25. @ Có thể sử dụng trẻ em hoặc người mắc bệnh tâm thần. Ví dụ: A thuê B 12 tuổi vận chuyển cho A 1 kg hêroin qua cửa khẩu Bờ Y b. Không hành động phạm tội Không hành động phạm tội là hình thức của hành vi phạm tội để làm biến đổi tìnhtrạng bình thường của đối tượng tác động gây thiệt hại cho khách thể qua việc chủ thểkhông làm một việc mà pháp luật hình sự yêu cầu phải làm mặc dù có đủ điều kiện để làm. Không hành động phạm tội phải thoả mãn các điều kiện như sau: – Chủ thể phải có nghĩa vụ hành động. – Trong hoàn cảnh cụ thể chủ thể có đủ điều kiện để thực hiện nghĩa vụ này. Nghĩa vụ pháp lý phát sinh trong trường hợp sau: – Do luật định: Phải cứu giúp người trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, hoặc phảitố giác tội phạm. – Do quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền: Như quyết định nhập ngũ. – Do nghề nghiệp. – Do hợp đồng. – Do xử sự trước đó của chủ thể. Trong BLHS đa số các tội phạm được thực hiện bằng hành động, có một số tội phạm chỉthực hiện bằng không hành động (như Tội trốn thuế, Tội không cứu giúp người đang trong tìnhtrạng nguy hiểm đến tính mạng), có một số tội vừa thực hiện bằng hành động vừa bằng khônghành động (như Tội giết người, Tội huỷ hoại tài sản).6.2.3. Các dạng cấu trúc đặc biệt của hành vi khách quan a. Tội ghép Tội ghép là loại tội phạm mà hành vi khách quan được hình thành bởi nhiều loại hành vinguy hiểm cho xã hội, xảy ra cùng thời gian, xâm hại nhiều khách thể. Với khái niệm trên tội ghép có 3 đặc điểm sau: – Có ít nhất 2 loại hành vi khác nhau. – Các hành vi này phải xảy ra cùng thời gian. – Các hành vi đó xâm hại ít nhất 2 khách thể. Phân tích các tội phạm được quy định trong BLHS thì tội cướp tài sản (Điều 133) thoảmãn đầy đủ 3 điều kiện trên. Do đó, tội cướp tài sản là tội ghép. b. Tội liên tục Tội liên tục là loại tội phạm mà hành vi khách quan bao gồm nhiều hành vi cùng loại xảyra kế tiếp nhau về mặt thời gian cùng xâm hại một khách thể. Với khái niệm trên tội liên tục có 3 đặc điểm sau: – Có ít nhất 2 hành vi cùng loại. – Các hành vi đó xảy ra kế tiếp nhau về mặt thời gian. – Các hành vi đó phạm xâm hại một khách thể. Đối chiếu với các đặc điểm trên, tội liên tục được quy định trong BLHS đó là Tội bức tử,tội đầu cơ, Tội hành hạ người khác. Về phương diện khoa học luật hình sự ngoài tội liên tục còn có phạm tội nhiều lần. Giữa 2thuật ngữ này có rất nhiều điểm giống nhau đó là chúng đều thực hiện ít nhất 2 hành vi cùng loại,các hành vi đó xảy ra kế tiếp nhau về mặt thời gian, các hành vi đó phạm xâm hại một khách thể.Có thể phân biệt chúng dựa vào các tiêu chí sau: 25
26. Tội liên tục Phạm tội nhiều lầnĐặc điểm – Có hành vi CTTP, có hành vi không CTTP. – Mỗi hành vi đều CTTP.Tính chất – Là đặc điểm của hành vi khách quan được – Là tình tiết định khung tăng nặng quy định trong CTTP cơ bản- là tình tiết định hoặc tình tiết tăng nặng.Phạm vi tội Chỉ tồn tại trong một số tội danh Tồn tại trong tất cả mọi tội phạm c. Tội kéo dài Là loại tội phạm mà hành vi khách quan có khả năng diễn ra không gián đoạn trong mộtkhoảng thời gian dài. Ví dụ: Tội tàng trữ trái phép chất ma tuý, Tội tàng trữ hàng cấm…. Đặc điểm của tội kéo dài là chúng chỉ chấm dứt khi tội phạm bị phát hiện hoặc khi ngườiphạm tội tự thú6.3. HẬU QUẢ NGUY HIỂM CHO XÃ HỘI CỦA TỘI PHẠM6.3.1. Khái niệm Hậu quả nguy hiểm cho xã hội của tội phạm là thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra chocác quan hệ xã hội là khách thể bảo vệ của luật hình sự. Về nguyên tắc, chỉ những hậu quả mang tính xác định mới được quy định trong chúng tôi mức độ thiệt hại gây ra cho các quan hệ xã hội là khách thể của tội phạm luôn mang tínhtrừu tượng. Do đó, để xác định mức độ hậu quả của tội phạm phải thông qua một yếu tố khácmang tính xác định Quá trình diễn biến của bất kỳ một tội phạm nào cũng đều được thể hiện như sau:Hành vi phạm tội Công cụ Đối tượng tác động Gây thiệt hại cho khách thể Cụ thể Trừu tượng Dựa vào sự đánh giá quá trình diễn biến trên cho thấy, để xác định mức độ hậu quả của tộiphạm chúng ta phải xác định mức độ làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác độngcủa tội phạm. Bởi vì: 1. Đối tượng tác động của tội phạm mang tính xác định còn quan hệ xã hội là khách thểcủa tội phạm bị xâm hại mang tính trừu tượng. 2. Chỉ có thể thông qua sự tác động lên đối tượng tác động của tội phạm mới có thể gâythiệt hại cho khách thể của tội phạm. 3. Đối tượng tác động của tội phạm ở 2 thời điểm trước và sau khi tội phạm xảy ra luôncó sự thay đổi về trạng thái tự nhiên hoặc trạng thái pháp lý Ví dụ: A dùng dao đâm chết B. Hậu quả của tội phạm là B chết, chính là sự phản ánh vềsự thay đổi trạng thái tự nhiên của B là đối tượng tác động của tội phạm giết người từ người cònsống thành xác chết. Hậu quả của tội phạm được biểu hiện ở các dạng như: – Thiệt hại vật chất: Các tội xâm phạm sở hữu. 26