Top 9 # Xem Nhiều Nhất Ý Nghĩa Văn Bản Qua Đèo Ngang Mới Nhất 6/2023 # Top Like | Athena4me.com

Nêu Ý Nghĩa Bài Thơ Qua Đèo Ngang

Có nơi đâu đẹp tuyệt vời

Như sông như núi, như người Việt Nam

Câu thơ thể hiện niềm kiêu hãnh, tự hào về non sông đất trời Việt Nam. Thiên nhiên trên quê hương ta có vẻ đẹp mộng mơ, chan hoà sức sống. Chính vì vậy, thiên nhiên luôn là dề tài bất tận của thi ca. Lúc thì lung linh, huyền diệu như trong mộng, lúc lại rực rỡ, kiêu sa tựa ánh mặt trời. Nhưng đồng thời, cảnh vật cũng sẽ nhuốm màu ảm đạm, thê lương dưới ánh mắt của các nhà thơ mang một tâm sự u hoài khi sáng tác một bài thơ tức cảnh. Vì thế, đại thi hào Nguyễn Du đã từng nói: Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ. Câu thơ thật thích hợp khi ta liên tưởng đến bà Huyện Thanh Quan với bài thơ Qua đèo Ngang.

Bước tới đèo Ngang bóng xế tà.

Cỏ cây chen đá, lá chen hoa Lom khom dưới núi, tiều vài chú Lác đác bên sông, chợ mấy nhà Nhớ nước đau lòng con quốc quốc

Thương nhà mỏi miệng cái gia gia

Dừng chân đứng lại, trời non, nước

Một mảnh tình riêng, ta với ta.

Phải hiểu rõ và yêu quý bài thơ mới thấy hết được tài năng cũng như tư tưởng luôn hướng về quê hương đất nước và gia đình của bà Huyện Thanh Quan. Ai dám bảo rằng người phụ nữ trong xã hội phong kiến không có được những tình cảm thiêng liêng đó?

Chỉ mới đọc hai câu đầu của bài thơ thôi:

Bước tới đèo Ngang bóng xế tà

Cỏ cây chen đá, lá chen hoa

là ta đã nhận ngay ra một nỗi buồn xa vắng.

Câu thơ xuất hiện cụm từ bóng xế tà và sự hiện diện của điệp từ chen cùng cách gieo vần lưng lá, đá đã tạo nên sự cô đơn, tĩnh mịch. Từ tà như diễn tả một khái niệm sắp tàn lụa, biến mất. Yếu tố thời gian làm cho câu thơ thêm phần buồn bã. Ca dao cũng đã có câu:

Vẳng nghe chim vịt kêu chiều

Bâng khuâng nhớ mẹ, chín chiều ruột đau

Thế mới biết, những tình cảm cao quý của mỗi người dường như gặp nhau ở một điểm. Đó chính là thời gian. Mà quãng thời gian thích hợp nhất để bộc lộ sự nhớ nhung khắc khoải chính là lúc chiều về. Ở bài thơ Qua đèo Ngang, tác giả bỗng dâng lên cảm xúc man mác khi bà bắt gặp ánh hoàng hôn bao phủ cảnh vật ở Hoành Sơn. Cảnh vật đã buồn lại trống vắng hơn bởi điệp từ chen ở câu thứ hai. Nó làm cho người đọc thơ bỗng cảm nhận được sự hoang vắng của đèo Ngang lúc chiều tà, bóng xế mặc dù nơi đây rất đẹp: có cỏ cây, đá, lá, hoa. Vì ở đây vắng vẻ quá nên thi sĩ đã phóng tầm mắt để tìm kiếm một chút gì gọi là sự sống linh động. Và kìa, phía xa xa dưới chân đèo xuất hiện hình ảnh:

Lom khom dưới núi tiều vài chú

Lác đác bên sông, chợ mấy nhà

Câu thơ gợi cho tả hình dung trong ánh hoàng hôn lạnh lẽo, mấy người tiều phu đang đốn củi, mấy quán chợ xiêu xiêu trong gió. Đảo ngữ đưa hai từ láy lom khom, lác đác lên đầu câu đã được tác giả sử dụng như nhấn mạnh thêm sự u hoài ở đây. Nhà thơ đi tìm một sự sống nhưng sự sống đó lại làm cho cảnh vật héo hắt, buồn bã hơn, xa vắng hơn. Sự đối lập vốn có của hai câu thực khiến cho cảnh trên sông, dưới núi thêm rời rạc, thưa thớt. Từ vài, mấy như càng nói rõ thêm sự vắng vẻ ở nơi này. Trong sự hiu quạnh đó, bỗng nhiên vẳng lên tiếng kêu đều đều, man mác của loài chim quốc quốc, chim gia gia trong bóng hoàng hôn đang buông xuống.

Từ ghép đau lòng, mỏi miệng khiến cho ta có cám giác tha thiết, ray rứt. Từ nhớ nước, thương nhà là nỗi niềm của con chim quốc, chim gia gia do tác giả cảm nhận được hay chính là nghệ thuật ẩn dụ để nói lên tâm sự từ trong sâu thẳm tâm hồn của nữ sĩ? Nghệ thuật chơi chữ quốc quốc gia gia phải chăng là Tổ quốc và gia đình của Bà Huyện Thanh Quan hồi đó?

Sự song song về ý, về lời của hai câu thơ trong phần luận của bài thơ này nhằm nhấn mạnh tình cảm của bà Huyện Thanh Quan đối với Tổ quốc, gia đình trước cảnh thật là khéo léo và tài tình. Từ thực tại của xã hội đương đời mà bà đang sống cho đến cảnh thực của đèo Ngang đã khiến cho tác giả sực nhớ đến mình và tâm sự:

Dừng chân dứng lại trời non nước

Một mảnh tình riêng ta với ta.

Câu kết của bài, ta cảm thấy nhà thơ có tâm sự u hoài về quá khứ. Dừng lại và quan sát bà chỉ thấy: trời, non, nước. Vũ trụ thật rộng lớn, xung quanh bà là cả một bầu trời với núi, với sông khiến cho con người cảm thấy mình bé nhỏ lại, đơn độc, trống vắng, ở đây, chỉ có một mình bà ta với ta, lại thêm mảnh tình riêng cho nước, cho nhà trong huyết quản đã làm cho cõi lòng nhà thơ như tê tái. Vũ trụ bao la quá! Con người cô đơn quá! Tất cả lại được diễn tả dưới ngòi bút tài hoa của người nữ sĩ nên bài thơ là bức tranh đặc sắc. Từ ta với. ta như một minh chứng cho nghệ thuật điêu luyện trong sáng tác thơ ca của bà Huyện Thanh Quan. Bởi vì cũng ta với ta nhưng nhà thơ Nguyễn Khuyến lại nói:

Bác đến chơi đây ta với ta

Lại là sự kết hợp của hai người: tuy hai mà một, tuy một mà hai. Còn bà Huyện lại:

Một mảnh tình riêng ta với ta.

Đã tô đậm thêm sự lẻ loi, đơn chiếc của mình. Qua câu thơ, ta như cảm nhận sâu sắc hơn nỗi niềm tâm sự của tác giả trước cảnh tình quê hương…

Từ xưa đến nay, có nhiều nhà thơ tả cảnh đèo Ngang nhưng không ai thành công bằng bà Huyện Thanh Quan vì trong tác phẩm của bà có cả tâm hồn, tình cảm, nỗi lòng và tài năng của một cây bút tuyệt vời. Cả bài thơ được gieo vần “a” như chính tâm sự hoài cổ của tác giả. Chúng ta không tìm thấy dù chỉ một chút gọi là sự ồn ào trong cách miêu tả. Tất cả chỉ là sự trầm lắng, mênh mang như chính tâm sự của tác giả.

Lời thơ nghe xao xuyến, bồi hồi làm cho người đọc xúc động cũng chính là những cảm xúc sâu lắng của bà Huyện Thanh Quan khi đặt chân lên đèo Ngang trong khung cảnh miền núi khi hoàng hôn buông xuống. Cũng những cảm xúc ấy, ta sẽ gặp lại khi đọc bài Chiều hôm nhớ nhà của bà với câu:

Trời chiều bảng lảng bóng hoàng hôn

Tiếng ốc xa đưa, vẳng trống dồn.

Để tỏ lòng biết ơn đối với nhà thơ xưa đã cho ta những phút giây có được tình cảm tốt đẹp xuất phát từ đáy tâm hồn, từ sự rung cảm thật sự, người đời đã đặt một tên làng, một tên đường: Bà Huyện Thanh Quan để mãi mãi ghi nhớ tài năng cũng như tư tưởng tuyệt vời của người, nữ sĩ đối với non sông, đất nước một thời đã qua.

Cảm Thụ Văn Học: Qua Đèo Ngang

[văn 7 ]Cảm thụ văn học: Qua đèo Ngang

Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà,

Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.

Lom khom dưới núi tiều vài chú,

Lác đác bên sông chợ mấy nhà.

Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc,

Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.

Dừng chân đứng lại trời non nước,

Một mảnh tình riêng ta với ta.

Tên thật là Nguyễn Thị Hinh sống trong nửa đầu thế kỷ 19. Quê ở làng Nghi Tàm, ven Hồ Tây, kinh thành Thăng Long. Bà xuất thân trong một gia đình quan lại, có nhan sắc, có học, có tài thơ Nôm, giỏi nữ công gia chánh – bà được vua Minh Mệnh vời vào kinh đô Phú Xuân làm nữ quan “Cung trung giáo tập”.

Chồng bà là Lưu Nghi làm tri huyện Thanh Quan, tỉnh Thái Bình, nên người đời trân trọng gọi bà là Bà huyện Thanh Quan.

Bà chỉ còn để lại 6 bài thơ Nôm thất ngôn bát cú Đường luật: “Qua Đèo Ngang”, “Chiều hôm nhớ nhà”, “Thăng Long thành hoài cổ”, “Chùa Trấn Bắc”, “Chơi Đài Khán Xuân Trấn võ”. “Tức cảnh chiều thu”.

Thơ của bà hay nói đến hoàng hôn, man mác buồn, giọng điệu du dương, ngôn ngữ trang nhã, hồn thơ đẹp, điêu luyện.

Trên đường vào Phú Xuân…, bước tới Đèo Ngang lúc chiều ta, cảm xúc dâng trào lòng người, Bà huyện Thanh Quan sáng tác bài “Qua Đèo Ngang”. Bài thơ tả cảnh Đèo Ngang lúc xế tà và nói lên nỗi buồn cô đơn, nỗi nhớ nhà của người lữ khách – nữ sĩ.

Lần đầu nữ sĩ “bước tới Đèo Ngang”, đứng dưới chân con đèo “đệ nhất hùng quan” này, địa giới tự nhiên giữa hai tỉnh Hà Tĩnh – Quảng bình, vào thời điểm “bóng xế tà”, lúc mặt trời đã nằm ngang sườn núi, ánh mặt trời đã “tà”, đã nghiêng, đã chênh chênh. Trời sắp tối. Âm “tà” cũng gợi buồn thấm thía. Câu 2, tả cảnh sắc: cỏ cây, lá, hoa… đá. Hai vế tiểu đối, điệp ngữ “chen”, vần lưng: “đá” – “lá”, vần chân: “tà” – “hoa”, thơ giàu âm điệu, réo rắt như một tiếng lòng, biểu lộ sự ngạc nhiên và xúc động về cảnh sắc hoang vắng nơi Đèo Ngang 200 năm về trước:

“Cỏ cây chen đá, lá chen hoa”.

Chỉ có hoa rừng, hoa dại, hoa sim, hoa mua. Cỏ cây, hoa lá phải “chen” với đá mới tồn tại được. Cảnh vật hoang sơ, hoang dại đến nao lòng.

Nữ sĩ sử dụng phép đối và đảo ngữ trong miêu tả đầy ấn tượng. Âm điệu thơ trầm bổng du dương, đọc lên nghe rất thú vị:

“Lom khom dưới núi tiều vài chú,

Lác đác bên sông chợ mấy nhà”.

Điểm nhìn đã thay đổi: đứng cao nhìn xuống dưới và nhìn xa. Thế giới con người là tiểu phu, nhưng chỉ có “tiều vài chú”. Hoạt động là “lom khom” vất vả đang gánh củi xuống núi. Một nét vẽ ước lệ rong thơ cổ (ngư, tiều, canh, mục) nhưng rất thần tình, tinh tế trong cảm nhận. Mấy nhà chợ bên sông thưa thớt, lác đác. chỉ mấy cáilèu chợ miền núi, sở dĩ nữ sĩ gọi “chợ mấy nhà” để gieo vần mà thôi: “tà” – “hoa” – “nhà”. Cũng là cảnh hoang vắng, heo hút, buồn hoang sơ nơi con đèo xa xôi lúc bóng xế tà.

Tiếp theo nữ sĩ tả âm thanh tiếng chim rừng: chim gia gia, chim cuốc gọi bầy lúc hoàng hôn. Điệp âm “con cuốc cuốc” và “cái gia gia” tạo nên âm hưởng du dương của khúc nhạc rừng, của khúc nhạc lòng người lữ khách. Lấy cái động (tiếng chim rừng) để làm nổi bật cái tĩnh, cái vắng lặng im lìm trên đỉnh đèo Ngang trong khoảnh khắc hoàng hôn, đó là nghệ thuật lấy động tả tĩnh trong thi pháp cổ. Phép đối và đảo ngữ vận dụng rất tài tình:

“Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc,

Thương nhà mỏi miệng cái gia gai”.

Nghe tiếng chim rừng mà “nhớ nước đau lòng”, mà “thương nhà mỏi miệng’ nỗi buồn thấm thía vào 9 tầng sâu cõi lòng, toả rộng trong không gian từ con đèo tới miền quê thân thương. Sắc điẹu trữ tình dào dạt, thiết tha, trầm lắng. Lữ khách là một nữ sĩ nên nỗi “nhớ nước”, nhó kinh kỳ Thăng Long, nhớ nhà, nhó chồng con, nhớ làng Nghi Tàm thân thuộc không thể nào kể xiết!

Bốn chữ “dừng chân đứng lại” thể hiện một nỗi niềm xúc động đến bồn chồn. Một cái nhìn mênh mang: “Trời non nước”; nhìn xa, nhìn gần, nhìn cao, nhìn sâu, nhìn 4 phía… rồi nữ sĩ thấy vô cùng buồn đau, như tan nát cả tâm hồn, chỉ còn lại “một mảnh tình riêng”. Lấy cái bao la, mênh mông, vô hạn của vũ trụ, của “trời non nước” tương phản với cái nhỏ bé của “mảnh tình riêng”, của “ta” với “ta” đã cực tả nỗi buồn cô đơn xa vắng của người lữ khác khi đứng trên cảnh Đèo Ngang lúc ngày tàn. Đó là tâm trang nhớ quê, nhớ nhà:

“Dừng chân đứng lại trời non nước,

Một mảnh tình riêng ta với ta”.

Bài thơ tả cảnh buổi chiều trên Đèo Ngang. Đèo Ngang trước con mắt lữ khách khi vừa đặt chân tới:

Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà

Thiên nhiên như ùa đến trong tầm mắt tác giả, cảnh sắc tươi tắn, ưa nhìn, những sinh vật và đất đá nương tựa, xen lẫn nhau cũng có vẻ đông đúc:

Cỏ cây chen đá, lá chen hoa

Nhưng sau sự cảm nhận đầu tiên ấy, tác giả đã có thì giờ buông tầm mắt ra xa, tìm đến thế giới con người.

Lẽ ra thiên nhiên có thêm con người phải sinh động, đẹp đẽ hơn nhưng ở đây sự điểm xuyết của mấy người hái củi thưa thớt, mấy quán chợ lơ thơ chỉ khiến cho cảnh vật thêm hiu hắt.

Lom khom dưới núi tiều vài chú

Lác đác bên sông chợ mấy nhà

Bà Huyện Thanh Quan đã nhìn bao quát toàn cảnh, bà còn cảm nhận về Đèo Ngang qua thính giác: tiếng chim quốc, tiếng chim đa đa vọng đến, rơi vào cái vắng vẻ tĩnh mịch của buổi chiều trên đèo.

Khung cảnh thiên nhiên ấy, hoàn cảnh lữ thứ ấy khiến cho tiếng chim gợi liên tưởng đến những từ đồng âm biểu hiện những ý nghĩa, những vấn đề hết sức sâu sắc và lớn lao: nhớ nước và thương nhà.

Thương nhà thì đã rõ, bà Huyện Thanh Quan có một thời được triệu về Huế làm chức Cung trung giáo tập.

Bà vốn người Nghi Tàm, Hà Nội (Bài thơ này có thể làm trong dịp vào cung đó). Một người phụ nữ phải rời nhà đi xa như thế, dù là đi làm quan, cũng ngổn ngang biết bao nỗi niềm.

Cái tiếng chim đa đa tha thiết khêu gợi biết bao. Nhưng còn cái tiếng khắc khoải của những con chim quốc. Điều đó không lấy gì làm chắc, bởi lẽ thời bà sống và làm quan, đất nước đã chuyển sang nhà Nguyễn đến thập kỉ thứ ba, thứ tư rồi.

Có điều, như các triều đại phong kiến khác, nhà Nguyễn bấy giờ đã bộc lộ những mặt tiêu cực, những chỗ yếu kém và cả những tội ác. Là một nhà thơ nhạy cảm, bà Huyện Thanh Quan hẳn có những điều buồn phiền, bất như ý về hiện thực xã hội. Cái nỗi đau lòng khi nhớ nước có lẽ chính là như thế, chính là sự nghĩ về hiện tình đất nước đương thời.

Và khi thiên nhiên đã đánh thức dậy trong lòng tác giả những mối suy tư lớn lao thì thiên nhiên bỗng như lùi xa, trả tác giả trở lại với chính tâm tư mình và chỉ có một mình:

Dừng chân đứng lại: trời, non, nước

Một mảnh tình riêng, ta với ta.

Qua Đèo Ngang trước tiên là bài thơ tả cảnh. Cảnh vật hiện ra phong phú dần theo bước chân người đi. Có cảnh sắc: cỏ cây, hoa lá, đá, tiều phu bên sườn núi, chợ bên sông, nhà; có âm thanh: tiếng quốc quốc, gia gia khắc khoải, dồn dập.

Và khi lên đến đỉnh đèo thì nhà thơ đã nhìn được một cách tổng quát, toàn thể: trời, non, nước. Cái mênh mông vô cùng và hùng vĩ ấy của thiên nhiên đã làm nhà thơ sững lại: dừng chân đứng lại.

Nhưng tả cảnh chỉ là một phần nhỏ ý nghĩa của bài thơ. Chính là bài thơ đã miêu tả rất rõ diễn biến tình cảm của tác giả khi qua con Đèo Ngang này.

Từ cảm nhận ban đầu, tình cảm của tác giả sâu lắng dần; qua sự tiếp nhận của mắt, của tai, những nỗi niềm tâm sự mỗi lúc một dồn nén để rồi chất chứa, cô đọng thành một nỗi buồn, nỗi cô đơn không thể cùng ai chia sẻ.

Hình ảnh một con người, lại là một người phụ nữ, đứng sừng sững giữa cảnh trời, nước, non cao, trong ánh chiều tà đơn độc biết bao!

Ở đây có sự tương phản: tương phản giữa thời gian khoảnh khắc (chiều sắp hết) và vũ trụ vô cùng; tương phản giữa không gian mênh mông hùng vĩ và con người lẻ loi đơn độc.

Sự tương phản ấy đã tạc vào cái vô cùng vô tận của không gian và thời gian: tâm trạng cô đơn, nỗi buồn vô hạn, và cả bóng hình nữ sĩ.

Qua Đèo Ngang là một bài thơ hay và sẽ bất tử với thời gian.

Có lẽ cho đến khi nào con đường Nam Bắc, còn Đèo Ngang thì những người qua đây nhiều người còn nhớ đến nữ sĩ và như còn mường tượng ra bức tượng bà đứng trên cao trội lên bóng chiếu trên đỉnh đèo.

* Nguồn: Tư liệu văn học.

Soạn Bài Qua Đèo Ngang

Soạn bài Qua đèo ngang – Bà Huyện Thanh Quan

* Bố cục : đề – thực – luận – kết

– 2 câu đề : cái nhìn chung về cảnh vật

– 2 câu thực : miêu tả cuộc sống con người

– 2 câu luận : tâm trạng tác giả

– 2 câu kết : nỗi cô đơn lên cao

Câu 1 (trang 103 sgk ngữ văn 7 tập 1)

Qua Đèo Ngang thuộc thể loại

Thất ngôn bát cú

+ Tám câu, mỗi câu 7 chữ

+ Cách gieo vần: cuối các câu 1, 2, 4, 6, 8

+ Câu 3 và 4 đối nhau, câu 5 và câu 6 đối nhau

Câu 2 (trang 105 sgk ngữ văn 7 tập 1)

Cảnh tượng Đèo Ngang được nêu trong bài: thời điểm chiều tà

→ Thời điểm chiều tà gợi lên những nỗi buồn, nhất là người phụ nữ xa nhà

Câu 3 (trang 105 sgk ngữ văn 7 tập 1)

– Cảnh vật gồm có: cỏ, cây, hoa, lá, dãy núi, con sông, cái chợ, mấy túp nhà, có tiếng chim cuốc và chim đa đa, có vài chú tiều phu

– Cảnh Đèo Ngang rậm rạp, um tùm, hoang vắng: cỏ cây chen đá

– Con người xuất hiện thưa thớt, ít ỏi: lác đác chợ mấy nhà, tiều vài chú

– Tiếng kêu quốc quốc, gia gia khắc khoải càng gợi lên cảm giác buồn giữa không gian hoang vắng

Câu 4 (Trang 105 sgk ngữ văn 7 tập 1)

Cảnh tượng ở Đèo Ngang: um tùm cỏ cây, hoang vắng, thưa thớt con người

– Tiếng chim quốc quốc kêu trong bi thiết càng làm tăng thêm nỗi buồn, sự hoang vắng

→ Cảnh vật hoang sơ, thưa thớt càng làm nỗi nhớ quê hương dâng lên và làm nỗi buồn, nỗi cô đơn, âm thầm của mình khi đối diện với thiên nhiên

Câu 5 (trang 87 sgk ngữ văn 7 tập 1)

Tâm trạng của Bà Huyện Thanh Quan khi Đèo Ngang là tâm trạng cô đơn, nhớ nhà, nhớ nước

– Tác giả mượn cảnh vật để giãi bày tâm trạng

– Mượn tiếng chim để gợi nhớ quá khứ nước nhà

– Câu thơ cuối biểu cảm trực nỗi buồn, nỗi cô đơn thầm kín, hướng nội của tác giả

⇒ Tâm trạng của tác giả: buồn, cô đơn, hoài cổ

Câu 6 (trang 87 sgk ngữ văn 7 tập 1)

Một mảnh tình riêng với ta giữa cảnh trời, non, nước bao la ở Đèo Ngang khác với những không gian khác

– Tác giả đối diện với không gian hoang vắng, hiu quạnh → cảm thấy cô đơn và nỗi buồn nhân lên gấp bội

Bài giảng: Qua đèo ngang – Cô Trương San (Giáo viên VietJack)

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng….miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Nhóm học tập facebook miễn phí cho teen 2k8: chúng tôi

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Tìm Hiểu Chi Tiết Văn Bản: Qua Đèo Ngang

Đèo Ngang thuộc dãy núi Hoành Sơn, phân cách địa giới hai tỉnh Hà Tĩnh và Quảng Bình. Là một địa danh nổi tiếng trên đất nước ta. Đã có nhiều thi nhân làm thơ vịnh Đèo Ngang như: Cao Bá Quát có bài Đăng Hoành Sơn, Nguyễn Khuyến có bài Qua Hoành Sơn… Nhưng tiêu biểu, được nhiều người biết và yêu thích nhất vẫn là bài Qua Đèo Ngang của bà Huyện Thanh Quan. Hôm nay chúng ta cùng đi tìm hiểu cái hay của bài thơ này.

– Bà Huyện Thanh Quan tên thật là Nguyễn Thị Hinh. Quê ở Hà Nội, sống vào khoảng cuối thể kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX.

– Là một trong 3 nữ sĩ nổi tiếng của thơ ca trung đại Việt Nam mang đậm phong cách hoài cổ.

– Bà là người nổi tiếng hay chữ vì là con một ông Đốc học danh tiếng, nên được nhà vua mời vào kinh giữ chức Cung Trung giáo tập để dạy các phi tần và các vị công chúa.

– Chồng bà là quan tri huyện của huyện Thanh Quan, tỉnh Thái Bình, nên mọi người gọi là là Bà Huyện Thanh Quan.

– Thơ của bà thường viết về thiên nhiên, phần lớn vào lúc xế chiều, gợi lên cảm giác vắng lặng, buồn buồn. Cảnh trong thơ bà giống như bức tranh thủy mặc, chấm phá, diễn tả bằng nghệ thuật ước lệ. Tả cảnh để gửi gắm tình cảm nhớ thương da diết đối với quá khứ vàng son một đi chưa trở lại. Đó là cái bài thơ hoài cổ, hoài thương rất điển hình. Đối với bà cái đẹp là dĩ vãng. Hiện tại vắng vẻ, quạnh hiu, chỉ là cái bóng mờ mờ của dĩ vãng mà thôi.

– Bà sáng tác không nhiều, hầu hết viết bằng chữ Nôm, theo thể Đường luật: Thăng Long thành hoài cổ; Qua chùa Trấn Bắc; Chiều hôm nhớ nhà; Nhớ nhà; Tức cảnh chiều thu; Cảnh đền Trấn Võ; Cảnh Hương Sơn.

Dưới thời vua Minh Mạng, bà được vời vào kinh đô Huế, giữ chức Cung Trung Giáo Tập (Nữ quan dạy nghi lễ) để dạy nghi lễ cho các công chúa và cung phi. Trên đường đi vào Huế nhận chức, khi dừng chân nghỉ tại Đèo Ngang bà đã viết nên thi phẩm tuyệt tác này.

Bài thơ được viết theo thể thất ngôn bát cú đường luật: Mỗi bài có 8 câu, mỗi câu có 7 chữ. Chỉ có một vần được gieo ở cuối câu thơ và hiệp vần với nhau với nhau ở các câu: 1,2,4,6,8

– Phần 1: 4 câu thơ đầu: Khung cảnh Đèo Ngang buổi chiều tà.

– Phần 2: 4 câu cuối: Tâm trạng của nữ sĩ khi dừng chân tại Đèo Ngang.

– Cảnh hoang vu, vắng vẻ lúc chiều tà:

– Từ láy gợi hình: lom khom, lác đác gợi tả hình dáng vất vả, nhỏ nhoi, thưa thớt của người và vật.

– Dùng lượng từ: vài, mấy chỉ sự ít ỏi.

– Đảo trật tự cú pháp: nhấn mạnh sự sống và hoạt động của con người ở đèo Ngang.

– Nữ thi sĩ đã sử dụng một thủ pháp nghệ thuật rất quen thuộc trong thơ cổ đó là biện pháp: Tả cảnh ngụ tình.

– Sự xuất hiện âm thanh của tiếng chim quốc và tiếng chim đa đa tạo nên một nét động trong bức tranh đèo Ngang.

– Nghệ thuật ẩn dụ, chơi chữ: mượn tiếng chim để bày tỏ lòng người có tác dụng:

+ Làm nổi bật hai trạng thái cảm xúc của người con xa xứ.

+ Diễn tả tâm trạng nhớ quê nhà, nhớ nước

+ Tạo nhạc điệu cân đối cho lời thơ.

– Câu thơ: “Dừng chân đứng lại, trời, non, nước gợi một không gian mênh mông, bao la, bát ngát mà xa lạ.

– Trong bối cảnh không gian đó, con người sẽ cảm thấy mình cô đơn, lẻ loi, rợn ngợp.

– Cụm từ “tình riêng ta với ta” có ý nghĩa:

+ Tình riêng: tâm sự sâu kín, chỉ một mình mình biết, mình hay.

+ Ta với ta: mình đối diện với chính mình.

– Giọng thơ với âm hưởng, nhịp điệu như một tiếng thở dài, ngậm ngùi, nuối tiếc.

– Điệp từ “ta” được sử dụng ở ngôi thứ nhất số ít. Hai từ mà lại chỉ một con người để cực tả nỗi buồn thầm lặng cô đơn đến tột cùng của người lữ thứ.

– Thể hiện tâm trạng cô đơn thầm lặng, nỗi niềm hoài cổ của nhà thơ trước cảnh vật Đèo Ngang.

– Qua Đèo Ngang là một bài thơ xuất sắc, thể hiện tài năng và tấm lòng yêu mến non sông, đất nước của nữ sĩ.

– Khung cảnh đèo Ngang trong buổi chiều tà hùng vĩ nhưng hoang sơ, buồn, tiêu điều, xơ xác. Nỗi buồn cô đơn, sâu thẳm mang nặng nỗi sầu nhân thế mà không thể chia sẻ cùng ai của nhà thơ.

– Sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình.

– Sáng tạo trong việc sử dụng các biện pháp nghệ thuật khác: phép đối xứng, đảo trật tự cú pháp, chơi chữ, tương phản, giọng hơ, từ láy, từ đồng âm khác nghĩa, gợi hình, gợi cảm.

– Sử dụng nghệ thuật đối hiệu quả.

– Thể thơ Đường luật sang trọng được sử dụng điêu luyện.