ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN
PHÂN TÍCH TÁC PHẨM
Xin chú ý đây là bạn đến chơi nhà chứ không phải khách. Khách thì thường phải khách khí đôi chút, không như bạn. Bạn là những người thích chơi với nhau, thông cảm nhau, giúp đỡ nhau, kính trọng nhau, nhưng cũng xuê xoa với nhau. Có thứ bạn ngày nào ta cũng gặp, lại có thứ bạn vì hoàn cảnh lâu lắm mới thấy đến nhà. Người bạn ở đây thuộc loại sau, đặc biệt đến chơi khi nhà thơ không còn làm quan nữa.
Đã bấy lâu nay, bác tới nhà
Đã bấy lâu nay là một khoảng thời gian dài mà khi nói hẳn nhà thơ đã tính với lần đến trước. Bác là cách xưng hô vừa thân mật, vừa trân trọng (chẳng hạn : Bác già tôi cũng già rồi Biết thôi, thôi thế, thì thôi mới là, Muốn đi lại tuổi già thêm nhác, Trước ba năm gặp bác một lần – Khóc Dương Khuê). Câu thơ ở đây nghe như một lời chào, một tiếng reo vui.
Nhưng cái thời điểm bạn đến chơi lúc này mới oái oăm làm sao !
Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa.
Câu thơ báo hiệu một tình huống khó xử, nhưng cũng thể hiện tấm lòng đối với bạn : bạn lâu mới đến thăm thì việc đầu tiên là nghĩ đến chuyện thết bạn thật nhiều, thật ngon. Bốn câu thơ tiếp theo, câu nào cũng nghĩ đến các thứ có thể tiếp bạn mà không được, gần như một cuộc tổng duyệt các thứ sản vật có trong nhà :
Ao sâu nước cả, khôn chài cá, Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà. Cải chửa ra cây, cà mới nụ, Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa.
Cái thú của mấy câu này là tỏ cho thấy cái gì cũng có mà không có gì, không có gì mà vẫn có. Có gà, có cá, có cải, có cà, có bầu, có mướp, có ao, có vườn, cỏ thể nói là nhà cũng phong lưu, khá giả đấy chứ! Có người nhận xét các thứ có ấy gợi lên một không khí điền viên, quê kiểng rất thân thiết, đầm ấm. Nhưng có mà chẳng có gì, bởi vì không đúng lúc, đúng thời vụ. Đến cả miếng trầu là đầu câu chuyện nhà thơ cũng không có. Cái này thì tác giả lại thừa nhận là không có, kể cũng lạ :
Đầu trò tiếp khách, trầu không có
Cái sự không có của tác giả đến đây là cao trào, ở làng quê, cây cau, dây trầu, miếng vỏ lảm sao lại không có, huống nữa, lại là đối với một ông đi đâu giở những cối cùng chày như Nguyễn Khuyến, thì làm sao mà không có được ? Nhưng tất cả cái sự không có ấy được cường điệu lên tới cực đại để mà nói lên cái thứ luôn luôn sẵn có để dành cho bạn : ấy là tấm lòng.
Bác đến chơi đây, ta với ta.
Ta với ta hiểu nhau, ta với ta quý nhau, ta với ta là tất cả ! Phải chăng ở đây có sự tác động của nguyên tắc hữu vô tương tác : đẩy cái vô (không) cho đến tận cùng để cái hữu (có) hiện lên với tất cả sức nặng ? Phải nói rằng khi đấy cái vô lên tận cùng thì bài thơ đã ở vào cái thế chông chênh. Cái gì cũng không có thì lấy gì để tỏ tình bạn ? Câu kết bất ngờ đã cân lại tất cả, lập lại thế cân bằng. Câu kết vì vậy có một sức nặng tình cảm rất lớn. Bài thơ tự nhiên làm ta liên tưởng tới bài Ngắm trăng trong tập Nhật kí trong tù của Hồ Chí Minh sau này :
Trong tù không rượu cũng không hoa, Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ. Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ.
Nhà thơ Hồ Chí Minh cũng gặp một cảnh tương tư : bạn trăng đã đến, nhưng trong tù không rượu cũng không hoa, biết làm sao đây? Giải pháp cuối cùng là tấm lòng đối với tấm lòng : người ngắm trăng, trăng ngắm người, vượt cao lên trên mọi thiêu thốn.
Thế mới biết giải pháp của Nguyễn Khuyến cũng là giải pháp muôn thuở của con người. Ví dù mâm cơm thịt cá ê hề, mà tình cảm lanh nhạt, tiếp đón chiêu lệ, thì phỏng còn có thú vị gì ? Trong bài thơ nầy, nói là chẳng có gì, nhưng tấm lòng muốn đãi bạn tất cả đã hiện lên rất rõ.
Nhưng đây là một bài thơ đùa vui. Người đọc chớ quá thật thà, nghĩ rằng nhà thơ để bạn ngồi nói chuyện suông rồi tiễn bạn ra về. Cũng đừng tưởng rằng nhà Nguyễn Khuyến rất giàu có. Rất có thể bài thơ là lời đùa vui, một chút cường điệu duyên dáng trước bữa cơm không được thinh soạn như ỷ, là lời tự khiêm để bộc bạch tấm lòng thành.
Còn có một điều lạ nữa là trong các thứ được nghĩ đến để mời bạn ở đây lại không thấy có rượu, một thứ mà từ Đỗ Phủ đến Hồ Chí Minh, và cả Nguyễn Khuyến trong các trường hợp khác không thể không nhắc đến : Rượu ngon không có bạn hiền, Không mua không phải không tiền không mím ! (Khóc Dương Khuê), Rượu tiếng rằng hay… (Thu ẩm). Nhưng ai cũng biết, một bài thơ tám câu không phải cái gì cũng nói hết được, và chúng ta, những người đọc, không phải cái gì cũng hiểu hết được. Biết đâu trong mâm, rượu đã sẵn rồi !
Đặc sắc của bài thơ là lời thơ luật mà diễn đạt như lời nói thường, lời khẩu ngữ : Đã bấy lâu nay, bấc tới nhà, Trẻ thời đi vắng,-, chợ thời xa… cải chửa ra cây, cà mới nu, Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa… Bác đến chơi đầy, ta với ta. Lời thơ tự nhiên như là xuất khẩu thành chương, tưởng như không có chút dụng công nào. Đặc sắc thứ hai là tạo một thế chênh vênh, sáu câu nói tới cái không có, để rồi dùng một câu kết bất ngờ cân bằng lại tất cả, biến những câu thơ về cái không có trở thành vô nghĩa, không quan trọng, và đề cao cái ta với ta ấm áp, thân tình.
(Trần Đình sử, Đọc văn – học văn, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2001)
VĂN BẢN ĐỌC THÊM
TỰ TRÀO
Cũng chẳng giàu mà cũng chẳng sang Chẳng gầy, chẳng béo chỉ làng nhàng Cờ đương dở cuộc không còn nước Bạc chửa thâu canh đã chạy làng Mở miệng nói ra gàn bát sách Mềm môi chén mãi tít cung thang Nghĩ mình lại gớm cho mình nhỉ Thế cũng bia xanh, cũng bảng vàng.
(Nguyễn Khuyến)