Top 5 # Xem Nhiều Nhất Ý Nghĩa Văn Bản Bài Qua Đèo Ngang Mới Nhất 3/2023 # Top Like | Athena4me.com

Nêu Ý Nghĩa Bài Thơ Qua Đèo Ngang

Có nơi đâu đẹp tuyệt vời

Như sông như núi, như người Việt Nam

Câu thơ thể hiện niềm kiêu hãnh, tự hào về non sông đất trời Việt Nam. Thiên nhiên trên quê hương ta có vẻ đẹp mộng mơ, chan hoà sức sống. Chính vì vậy, thiên nhiên luôn là dề tài bất tận của thi ca. Lúc thì lung linh, huyền diệu như trong mộng, lúc lại rực rỡ, kiêu sa tựa ánh mặt trời. Nhưng đồng thời, cảnh vật cũng sẽ nhuốm màu ảm đạm, thê lương dưới ánh mắt của các nhà thơ mang một tâm sự u hoài khi sáng tác một bài thơ tức cảnh. Vì thế, đại thi hào Nguyễn Du đã từng nói: Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ. Câu thơ thật thích hợp khi ta liên tưởng đến bà Huyện Thanh Quan với bài thơ Qua đèo Ngang.

Bước tới đèo Ngang bóng xế tà.

Cỏ cây chen đá, lá chen hoa Lom khom dưới núi, tiều vài chú Lác đác bên sông, chợ mấy nhà Nhớ nước đau lòng con quốc quốc

Thương nhà mỏi miệng cái gia gia

Dừng chân đứng lại, trời non, nước

Một mảnh tình riêng, ta với ta.

Phải hiểu rõ và yêu quý bài thơ mới thấy hết được tài năng cũng như tư tưởng luôn hướng về quê hương đất nước và gia đình của bà Huyện Thanh Quan. Ai dám bảo rằng người phụ nữ trong xã hội phong kiến không có được những tình cảm thiêng liêng đó?

Chỉ mới đọc hai câu đầu của bài thơ thôi:

Bước tới đèo Ngang bóng xế tà

Cỏ cây chen đá, lá chen hoa

là ta đã nhận ngay ra một nỗi buồn xa vắng.

Câu thơ xuất hiện cụm từ bóng xế tà và sự hiện diện của điệp từ chen cùng cách gieo vần lưng lá, đá đã tạo nên sự cô đơn, tĩnh mịch. Từ tà như diễn tả một khái niệm sắp tàn lụa, biến mất. Yếu tố thời gian làm cho câu thơ thêm phần buồn bã. Ca dao cũng đã có câu:

Vẳng nghe chim vịt kêu chiều

Bâng khuâng nhớ mẹ, chín chiều ruột đau

Thế mới biết, những tình cảm cao quý của mỗi người dường như gặp nhau ở một điểm. Đó chính là thời gian. Mà quãng thời gian thích hợp nhất để bộc lộ sự nhớ nhung khắc khoải chính là lúc chiều về. Ở bài thơ Qua đèo Ngang, tác giả bỗng dâng lên cảm xúc man mác khi bà bắt gặp ánh hoàng hôn bao phủ cảnh vật ở Hoành Sơn. Cảnh vật đã buồn lại trống vắng hơn bởi điệp từ chen ở câu thứ hai. Nó làm cho người đọc thơ bỗng cảm nhận được sự hoang vắng của đèo Ngang lúc chiều tà, bóng xế mặc dù nơi đây rất đẹp: có cỏ cây, đá, lá, hoa. Vì ở đây vắng vẻ quá nên thi sĩ đã phóng tầm mắt để tìm kiếm một chút gì gọi là sự sống linh động. Và kìa, phía xa xa dưới chân đèo xuất hiện hình ảnh:

Lom khom dưới núi tiều vài chú

Lác đác bên sông, chợ mấy nhà

Câu thơ gợi cho tả hình dung trong ánh hoàng hôn lạnh lẽo, mấy người tiều phu đang đốn củi, mấy quán chợ xiêu xiêu trong gió. Đảo ngữ đưa hai từ láy lom khom, lác đác lên đầu câu đã được tác giả sử dụng như nhấn mạnh thêm sự u hoài ở đây. Nhà thơ đi tìm một sự sống nhưng sự sống đó lại làm cho cảnh vật héo hắt, buồn bã hơn, xa vắng hơn. Sự đối lập vốn có của hai câu thực khiến cho cảnh trên sông, dưới núi thêm rời rạc, thưa thớt. Từ vài, mấy như càng nói rõ thêm sự vắng vẻ ở nơi này. Trong sự hiu quạnh đó, bỗng nhiên vẳng lên tiếng kêu đều đều, man mác của loài chim quốc quốc, chim gia gia trong bóng hoàng hôn đang buông xuống.

Từ ghép đau lòng, mỏi miệng khiến cho ta có cám giác tha thiết, ray rứt. Từ nhớ nước, thương nhà là nỗi niềm của con chim quốc, chim gia gia do tác giả cảm nhận được hay chính là nghệ thuật ẩn dụ để nói lên tâm sự từ trong sâu thẳm tâm hồn của nữ sĩ? Nghệ thuật chơi chữ quốc quốc gia gia phải chăng là Tổ quốc và gia đình của Bà Huyện Thanh Quan hồi đó?

Sự song song về ý, về lời của hai câu thơ trong phần luận của bài thơ này nhằm nhấn mạnh tình cảm của bà Huyện Thanh Quan đối với Tổ quốc, gia đình trước cảnh thật là khéo léo và tài tình. Từ thực tại của xã hội đương đời mà bà đang sống cho đến cảnh thực của đèo Ngang đã khiến cho tác giả sực nhớ đến mình và tâm sự:

Dừng chân dứng lại trời non nước

Một mảnh tình riêng ta với ta.

Câu kết của bài, ta cảm thấy nhà thơ có tâm sự u hoài về quá khứ. Dừng lại và quan sát bà chỉ thấy: trời, non, nước. Vũ trụ thật rộng lớn, xung quanh bà là cả một bầu trời với núi, với sông khiến cho con người cảm thấy mình bé nhỏ lại, đơn độc, trống vắng, ở đây, chỉ có một mình bà ta với ta, lại thêm mảnh tình riêng cho nước, cho nhà trong huyết quản đã làm cho cõi lòng nhà thơ như tê tái. Vũ trụ bao la quá! Con người cô đơn quá! Tất cả lại được diễn tả dưới ngòi bút tài hoa của người nữ sĩ nên bài thơ là bức tranh đặc sắc. Từ ta với. ta như một minh chứng cho nghệ thuật điêu luyện trong sáng tác thơ ca của bà Huyện Thanh Quan. Bởi vì cũng ta với ta nhưng nhà thơ Nguyễn Khuyến lại nói:

Bác đến chơi đây ta với ta

Lại là sự kết hợp của hai người: tuy hai mà một, tuy một mà hai. Còn bà Huyện lại:

Một mảnh tình riêng ta với ta.

Đã tô đậm thêm sự lẻ loi, đơn chiếc của mình. Qua câu thơ, ta như cảm nhận sâu sắc hơn nỗi niềm tâm sự của tác giả trước cảnh tình quê hương…

Từ xưa đến nay, có nhiều nhà thơ tả cảnh đèo Ngang nhưng không ai thành công bằng bà Huyện Thanh Quan vì trong tác phẩm của bà có cả tâm hồn, tình cảm, nỗi lòng và tài năng của một cây bút tuyệt vời. Cả bài thơ được gieo vần “a” như chính tâm sự hoài cổ của tác giả. Chúng ta không tìm thấy dù chỉ một chút gọi là sự ồn ào trong cách miêu tả. Tất cả chỉ là sự trầm lắng, mênh mang như chính tâm sự của tác giả.

Lời thơ nghe xao xuyến, bồi hồi làm cho người đọc xúc động cũng chính là những cảm xúc sâu lắng của bà Huyện Thanh Quan khi đặt chân lên đèo Ngang trong khung cảnh miền núi khi hoàng hôn buông xuống. Cũng những cảm xúc ấy, ta sẽ gặp lại khi đọc bài Chiều hôm nhớ nhà của bà với câu:

Trời chiều bảng lảng bóng hoàng hôn

Tiếng ốc xa đưa, vẳng trống dồn.

Để tỏ lòng biết ơn đối với nhà thơ xưa đã cho ta những phút giây có được tình cảm tốt đẹp xuất phát từ đáy tâm hồn, từ sự rung cảm thật sự, người đời đã đặt một tên làng, một tên đường: Bà Huyện Thanh Quan để mãi mãi ghi nhớ tài năng cũng như tư tưởng tuyệt vời của người, nữ sĩ đối với non sông, đất nước một thời đã qua.

Soạn Bài : Qua Đèo Ngang

Hướng dẫn soạn văn, soạn bài, học tốt bài

Bà Huyện Thanh Quan (? – ?), tên thật là Nguyễn Thị Hinh, người làng Nghi Tàm nay thuộc quận Tây Hồ, Hà Nội. Chồng bà làm tri huyện Thanh Quan (thuộc Thái Bình ngày nay), do đó có tên gọi là Bà Huyện Thanh Quan. Bà là một nữ sĩ vào loại tài danh hiếm có thời phong kiến. Tác phẩm của bà hiện còn lại sáu bài thơ trong đó có bài Qua Đèo Ngang nổi tiếng.

Bài thơ này được viết theo thể thất ngôn bát cú. Đây là một trong hai dạng cơ bản, phổ biến nhất của thơ Đường luật, gồm thất ngôn bát cú (7 chữ, 8 câu) và thất ngôn tứ tuyệt (7 chữ, 4 câu). Thơ thất ngôn bát cú Đường luật có những quy định rất chặt chẽ về bố cục (tổ chức cơ bản về nội dung và hình thức), luật (quy định về vần, thanh trong cả bài, đối giữa các cặp câu 3 – 4, 5 – 6), niêm (sự liên kết giữa các câu 1 – 8, 2 – 3, 4 – 5, 6 – 7).

1. Nhận dạng thể thơ của bài Qua Đèo Ngang về số câu, số chữ, về cách gieo vần và về phép đối.

: Dựa vào phần giới thuyết thể thơ ở trên, tự kiểm tra về số câu, số chữ, cách gieo vần và phép đối của bài thơ.

2. Cảnh vật được miêu tả và lúc chiều tà. Thời điểm đó dễ gợi lên tâm trạng buồn, cô đơn nhất là với người lữ thứ.

3. Cảnh Đèo Ngang được miêu tả gồm những chi tiết: cỏ cây, hoa lá, dãy núi, con sông, cái chợ, mấy túp nhà, tiếng chim quốc, chim đa đa, có vài chú tiều phu. Các chi tiết này cho thấy cảnh Đèo Ngang um tùm, rậm rạp. Con người thì ít ỏi, thưa thớt. Các từ láy: lom khom, lác đác, các từ tượng thanh: quốc quốc, đa đa có tác dụng lớn trong việc gợi hình, gợi cảm và càng gợi lên cảm giác hoang vắng, quạnh hiu.

4. Cảnh Đèo Ngang là cảnh thiên nhiên, núi đèo bát ngát, thấp thoáng có sự sống của con người nhưng rất hoang sơ. Cảnh được miêu tả vào lúc chiều tà, lại được nhìn từ tâm trạng của kẻ xa quê nên cảnh gợi lên cảm giác buồn, hoang sơ, vắng lặng.

5. Có thể thấy, ấn sâu kín trong bức tranh thiên nhiên là tâm trạng của người lữ thứ (Bà Huyện Thanh Quan). Đó là tâm trạng buồn, cô đơn, hoài cổ. Đọc bài thơ, ta cảm nhận được tiếng kêu da diết của chim quốc, chim đa đa cũng chính là tiếng lòng tha thiết nhớ nhà, nhớ quá khứ của đất nước. Câu thơ cuối cùng chính là cao trào của nỗi buồn, nỗi cô đơn của người khách xa quê.

6. Giữa cảnh trời, non, nước và một mảnh tình riêng có quan hệ đối lập nhau. Cảnh càng rộng lớn thì tình càng cô đơn, con người càng nhỏ bé. Như thế, rõ ràng cảnh góp phần khiến nỗi cô đơn của tác giả càng lớn hơn, nặng nề hơn.

Đọc một bài thơ thất ngôn bát cú, trước hết phải chú ý đọc đúng nhịp (4/3), sau nữa là chú ý đến phép đối trong hai cặp 3 – 4, 5 – 6. Riêng với bài thơ này, cần chú ý đọc chậm, diễn cảm, thể hiện được nỗi buồn sâu lắng của tác giả.

– Từ ta thứ nhất và từ ta thứ hai đều chỉ bản thân người nói.

– Vì thế, ta với ta có nghĩa là không có ai khác (chỉ có một mình tác giả mà thôi).

Bài 8. Qua Đèo Ngang

CHÀO MỪNG THẦY CÔ VỀ DỰ GiỜ LỚP

MÔN : VĂN 7

GIÁO VIÊN: PHAN THANH TUYỀN HỎI:Đọc bài thơ “Bánh trôi nước” của Hồ Xuân Hương và cho biết bài thơ có mấy lớp nghĩa? Mỗi lớp nghĩa biểu đạt ý cơ bản gì?Đáp án Bài thơ có 2 lớp nghĩa: – Nghĩa đen: miêu tả đặc tính của chiếc bánh trôi và quá trình tạo nó. Ca ngợi nét đẹp văn hóa của dân tộc. – Nghĩa bóng: (nghĩa chính) đề cao trân trọng vẻ đẹp nhan sắc và tâm hồn, sự trong trắng son sắt của người phụ nữ Việt Nam xưa và sự cảm thông sâu sắc cho thân phận chìm nổi của họ.KIỂM TRA MIỆNGQuan sát bức tranh sau và nêu hiểu biết của emvề Đèo Ngang? Tiết 29 ,Văn bản : Qua Đèo Ngang (Bà huyện Thanh Quan)I. ĐỌC – TÌM HiỂU CHUNG 1.Tác giả

Tiết 29, Văn bản : Qua Đèo Ngang (Bà huyện Thanh Quan)-Tên thật: Nguyễn Thị Hinh. Sống ở thế kỷ XIX Quê ởlàng NghiTàm (nay thuộcTây Hồ, Hà Nội). Chồng bàlàm tri huyệnThanh Quan (nay thuộc Thái Ninh, TháiBình). Do đó có tên gọi Huyện ThanhQuan. – Bà là một trong số nữ sỹ tài hoa hiếm có trong thờitrung đại. Hiện còn để lại 6 bài thơ Nôm Đường luật,trong đó có bài thơ Qua Đèo Ngang. (6 bài thơ gồm:Thăng Long thành hoài cổ; Chiềuhôm nhớ nhà; ChùaTrấn Bắc; Cảnh chiều hôm; Đền Trấn Võ; Qua ĐèoNgang)I. Đọc và tìm hiểu chung 1.Tác giả

Tiết 29, Văn bản : Qua Đèo Ngang (Bà huyện Thanh Quan)2.Tác phẩm – Hoàn cảnh ra đời: Bài thơ được ra đời khoảng thếkỷ 19, khi bà Huyện Thanh Quan lần đầu xa nhà, xaquê, vào kinh đô Huế nhận chức “Cung trung giáotập” (dạy nghi lễ cho các cung nữ, phi tần theo chỉ dụcủa nhà vua). – Thể thơ :2. Tác phẩmThể thơ :Thất ngôn bát cú Đường luật. Tiết 29 Văn bản : Qua Đèo Ngang (Bà huyện Thanh Quan) QUA ĐÈO NGANGBước tới đèo Ngang, bóng xế tà, T T B B T T BCỏ cây chen đá, lá chen hoa.T B B T T B BLom khom dưới núi, tiều vài chú, B B T T B B T Lác đác bên sông, chợ mấy nhà.T T B B T T BNhớ nước đau lòng, con quốc quốc, T T B B B T TThương nhà mỏi miệng, cái gia gia. B B T T T B BDừng chân đứng lại, trời, non, nước, B B T T B B TMột mảnh tình riêng, ta với ta. T T B B B T B2. Tác phẩmBước tới Đèo Ngang, bóng xế tà,Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.

Lom khom dưới núi, tiều vài chú,Lác đác bên sông, chợ mấy nhà.

Nhớ nước đau lòng, con quốc quốc,Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia.

Dừng chân đứng lại, trời, non,nước,Một mảnh tình riêng, ta với ta.ĐỀTHỰCLUẬNKẾT3. Bố cục : 4 phần Tiết 29 Văn bản : Qua Đèo Ngang (Bà huyện Thanh Quan)2. Tác phẩm3. Bố cục : 4 phần Tiết 29 Văn bản : Qua Đèo Ngang (Bà huyện Thanh Quan)4. Giải thích từ khó – Con quốc quốc 🙁 cũng viết là cuốc cuốc ) chim đỗ quyên ( chim cuốc )– Cái gia gia 🙁 cũng viết là da da ) : chim đa đa , còn gọi là gà gô .– Đèo Ngang :Thuộc dãy núi Hoành Sơn , một nhánh của dãy núi Trường Sơn , chạy thẳng ra biển , phân chia địa giới hai tỉnh Quảng Bình và Hà Tĩnh .-Tiều :Người chuyên nghề đốn củiII. Phân tích:1. Hai câu đề :Bước tới Đèo Ngang,

Tiết 29, Văn bản : Qua Đèo Ngang (Bà huyện Thanh Quan)1. Tìm hàm nghĩa cụm từ ” Ta với ta ” 2. Cảnh Đèo Ngang được miêu tả trong thời điểm nào ? A. Xế trưa B. Xế chiều C. Ban mai D. Đêm khuya .3. Tâm trạng của tác giả thể hiện qua bài thơ là tâm trạng như thế nào ? A. Yêu say trước vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước . B. Đau xót ngâm ngùi trước sự đổi thay của quê hương C. Buồn thương da diết khi phải sống trong cảnh cô đơn . D. Cô đơn trước thực tại , da diết nhớ về quá khứ của đất nước .ĐĐHướng dẫn học tập( Hướng dẫn HS tự học ở nhà) * Đối với bài học ở tiết học này: – Về nhà học bài , học ghi nhớ , học thuộc lòng văn bản. – Viết thành văn cảm nhận sâu sắc của em về bài thơ. * Đối với bài học ở tiết học tiếp theo – Chuẩn bị bài ” Bạn đến chơi nhà” + Tác giả , tác phẩm + Cảm xúc của nhà thơ khi bạn tới chơi + Gia cảnh của chủ nhà + Ý nghĩa bài thơ

Soạn Bài Qua Đèo Ngang (Siêu Ngắn)

Soạn bài Qua đèo ngang

Bố cục

– Phần 1 (6 câu thơ đầu): Cảnh đèo Ngang khi chiều về

– Phần 2 (còn lại): Nỗi lòng nhà thơ

Hướng dẫn soạn bài

Câu 1 (trang 103 Ngữ Văn 7 Tập 1):

– Bài thơ Qua đèo ngang là bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật

– Dấu hiệu:

+ bài thơ có tám câu mỗi câu bảy chữ hợp vần ở chữ cuối câu một và chữ cuối các câu chẵn( 1,2,4,6,8)

+ có phép đối ở các cặp câu 3,câu 4 và câu 5, câu 6

Câu 2 (trang 103 Ngữ Văn 7 Tập 1):

– Cảnh tượng đèo Ngang được miêu tả vào lúc xế tà (trời đã về chiều , ngày sắp tàn)

– Thời điểm đó có những lợi thế rất lớn khi bộc lộ tâm trạng cô đơn của tác giả khi qua đèo Ngang

+ Thời điểm này thường dễ gợi buồn cho lòng người vì đó thường là thời gian con người được sum họp cùng gia đình trong khi mình lại cô đơn nơi này

+ ca dao dân ca cũng rất hay lấy cảnh chiều để gợi tâm trạng

Chiều chiều ra đứng ngõ sau

Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều

Vẳng nghe chim vịt kêu chiều

Bâng khuâng nhớ mẹ chín chiều ruột đau

Câu 3 (trang 103 Ngữ Văn 7 Tập 1):

– Cảnh đèo Ngang được miêu tả bằng những chi tiết

+ cỏ cây, hoa lá, tiếng chim cuốc

+ lác đác, mấy nhà, vài chú tiều

+ các từ láy lom khom,lác đác các từ tượng thanh quốc quốc gia gia được dùng khéo léo giàu khả năng gợi hình biểu cảm

Câu 4 (trang 103 Ngữ Văn 7 Tập 1):

– Qua miêu tả của Bà Huyện Thanh Quan cảnh tượng đèo Ngang hiện lên với bức tranh thiên nhiên hoang sơ bát ngát núi đèo có sự sống con người nhưng vắng lặng, qua đó bộc lộ tâm trạng cô đơn u buồn của tác giả

Câu 5 (trang 103 Ngữ Văn 7 Tập 1):

– Khi qua đèo Ngang tâm trạng tác giả thấy cô đơn hoài cổ trong nỗi nhớ nước thương nhà thấm đậm tâm hồn

– Tâm trạng đó được thể hiện qua hai hình thức

+ mượn cảnh nói tình (cảnh chiều tà ở đèo Ngang, tiếng chim cuốc nhớ nước, tiếng chim đa đa thương nhà)

+ trực tiếp tả tình: câu thơ cuối bài (Một mảnh tình riêng ta với ta)

Câu 6 (trang 104 Ngữ Văn 7 Tập 1):

– Nói đến mảnh tình riêng giữa cảnh trời non nước bao la ở đèo Ngang khác với nói mảnh tình riêng ttrong không gian chật hẹp ở chỗ nó thể hiện tương quan đối lập: trời non, nước càng bao la càng rộng thì mảnh tình riêng càng nặng nề u uất

Luyện tập

Bài 1 (trang 104 Ngữ Văn 7 Tập 1):

– Hàm nghĩa của cụm từ ta với ta: hai từ ta ở đây đều chỉ tác giả chỉ có mình tác giả . Qua đó khắc sâu hơn nữa tâm trạng cô đơn trống trải u buồn giữa thiên nhiên đất trời mênh mông hoang vắng nơi xứ lạ của Bà Huyện Thanh Quan

Bài giảng: Qua đèo ngang – Cô Trương San (Giáo viên VietJack)

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng….miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Nhóm học tập facebook miễn phí cho teen 2k8: chúng tôi

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Các bài Soạn văn lớp 7 siêu ngắn được biên soạn bám sát câu hỏi sgk Ngữ Văn lớp 7 Tập 1, Tập 2 giúp bạn dễ dàng soạn bài Ngữ Văn 7 hơn.