Top 3 # Xem Nhiều Nhất Ý Nghĩa Nhan Đề Văn Bản Khi Con Tu Hú Mới Nhất 3/2023 # Top Like | Athena4me.com

Ý Nghĩa Nhan Đề Khi Con Tu Hú

Đề bài: Nhan đề Khi con tu hú có ý nghĩa gì? Nhan để ấy có phù hợp với nội dung của bải thở hay không? Vì sao? HƯỚNG DẪN – Nhan đề Khi con tu hú là một vế trong câu thơ đầu: Khi con tu hú gọi hầy. Khi con tu hú gọi bầy là khi mùa hè đến, người tù cách mạng (nhân vật trữ tình) cảm thấy phòng giam chật chội, ngột ngạt và khao khát cuộc sống tự do ở bên ngoài. Nhan đề bài thơ gợi mở cảm hứng, cảm xúc chung cho toàn bài thơ. Nhan đề này có giá trị hoán dụ, giá trị liên tưởng cao. Tu hú …

Đề bài: Nhan đề Khi con tu hú có ý nghĩa gì? Nhan để ấy có phù hợp với nội dung của bải thở hay không? Vì sao?

– Nhan đề Khi con tu hú là một vế trong câu thơ đầu: Khi con tu hú gọi hầy. Khi con tu hú gọi bầy là khi mùa hè đến, người tù cách mạng (nhân vật trữ tình) cảm thấy phòng giam chật chội, ngột ngạt và khao khát cuộc sống tự do ở bên ngoài. Nhan đề bài thơ gợi mở cảm hứng, cảm xúc chung cho toàn bài thơ. Nhan đề này có giá trị hoán dụ, giá trị liên tưởng cao. Tu hú là tín hiệu của mùa hè, của sự sống bên ngoài. Nó tác động sâu sắc tới tâm hồn người tù làm cho người tù mang nhiều tâm trạng.

Toàn bài thơ là cảnh thiên nhiên mùa hè mà người tù tưởng tượng ra nhờ sự tác động của tiếng chim tu hú. Bức tranh thiên nhiên mùa hè rộn rã âm thanh, rực rỡ màu sắc, không gian bao la khoáng đạt. Tiếng chim tu hú đã đánh thức tình yêu sự sống của người chiến sĩ. Tình yêu thiết tha cộng với một tâm hồn nhạy cảm đã khiến người tù càng yêu cuộc sống và càng khao khát tự do. Tiếng chim tu hú đánh thức tâm trạng uất ức, ngột ngạt đến bức bối, sự khao khát tự do đến cháy bỏng, muốn thoát khỏi cuộc sống tù đầy của người chiến sĩ.

-Bài thơ mở đầu và kết thúc đều bằng âm thanh tiếng tu hú. Tác giả nhấn mạnh tiếng tu hú đã tác động tới con người. Nó khơi nguồn cảm xúc, khơi dậy tình yêu cuộc sống, thôi thúc, giục giã khát vọng tự do của người chiến sĩ đang bị tù đày.

-Nhan đề Khi con tu hú dã gợi tứ chung cho toàn bài thơ, phù hợp với nội dung cảm xúc được thể hiện của bài thơ.

Nêu Ý Nghĩa Nhan Đề Bài Thơ Khi Con Tu Hú

Tố Hữu làm bài thơ Khi con tu hú vào tháng 7 năm 1939 khi ông đang bị thực dân Pháp bắt giam, tiếng chim trở thành cảm hứng, khát vọng của người chiến sĩ trẻ đang sống trong cảnh tù đầy.

Trước hết ” khi con tu hú” cất tiếng kêu gọi hè thì cũng là lúc tác giả hình dung ra một bức tranh thiên nhiên mùa hè sống động và náo nhiệt với bao âm thanh, bao màu sắc tươi tắn tuyệt đẹp. Đó là những hình ảnh về một cánh đồng lúa chín vàng trải dài bát ngát, từng con sáo diều được những đứa trẻ mục đồng thả ,đang bay lượn trên bầu trời trong xanh cao và rộng biết bao. Vườn trái cây nhà ai đã chín rồi, chín trong cái oi bức của trời hè, mang hương vị ngọt lịm của đất, đâu đó tiếng ve vẫn đang kêu râm ran trong những bụi cây xanh rậm rạp. Tất cả khung cảnh hiện lên làm tác giả dấy lên những khát vọng cao cả. Đó là một khát vọng được đập tan cơn oi bức ngày hè, được đạp tung cửa nhà tù chật hẹp, vượt thoát ra khỏi không gian tối tăm của tù đầy để ra ngoài kia thỏa sức được ngắm nhìn không gian ngoài kia, sự dục dã của tiếng chim tu hú khiến lòng tác giả như sôi sục một sức sống mãnh liệt, một hy vọng khó lòng dập tắt của người chiến sĩ trẻ. Tiếng tu hú trở thành tiếng gọi mời, tiếng mời mọc của tự do, thành sức mạnh thôi thúc khát vọng vượt thoát của người tù. Không chỉ thoát ra khỏi hoàn cảnh thực tại mà còn là hàm ý rằng, người tù cách mạng phải đấu tranh đưa cả dân tộc ra khỏi sự tối tăm của ách xâm lược.

Như vậy tiếng chim tu hú trong nhan đề không còn đơn gian như một dấu hiệu giúp người đọc nhận biết cảm hứng chủ đạo mà nó còn là hình tượng gửi gắm những khát vọng tự do, những nỗi lòng sâu sa của người chiến sĩ cách mạng đang bị cầm chân trong cảnh tù đầy.

BÀI LÀM 2

Khi Con Tu Hú là một bài thơ hay của nhà thơ Tố Hữu, một chiến sĩ cách mạng của là một nhà thơ tài giỏi của dân tộc. Ý tứ của bài thơ được bộc lộ qua con tu hú xuất hiện ở phần nhan đề đã giúp người đọc phần nào nhận thức được những ánh xạ tâm hồn của Tố Hữu muốn gửi gắm.

Nhan đề một bài thơ là một phần hết sức quan trọng khi bài thơ đến với sự tiếp nhận của độc giả. Bài thơ của Tố Hữu cũng vậy, tên nhan đề “khi con tu hú” đã trở thành một cánh cửa gợi mở tâm tư của tác giả. Tu Hú là một loài chim chỉ xuất hiện vào mùa hè, đó cũng là khoảng thời gian mà Tố Hữu sáng tác bài thơ vào tháng 7 năm 1939 tại Huế. Lúc này, người chiến sĩ cách mạng đang bị thực dân Pháp bắt giam. Trong nhà tù, người chiến sĩ cách mạng nghe thấy tiếng chim tu hú đang kêu trong những lùm cây cao vang vọng khắp bốn phương. Tiếng tu hú kêu tưởng chừng vô nghĩa những nó đã trở thành một nguồn cảm hứng chủ đạo giúp nhà thơ nói lên tiếng lòng của mình. Giữa khung cảnh trời hè oi ả, những cánh đồng lúa chín trải dài vô tận và những con sáo diều vi vu trên bầu trời trong xanh không một gợn mây, tiếng chim tu hú cất lên náo nức vọng khắp không gian như báo hiệu ngày về, mở đầu cho những tiếng ve râm ran trong những tán cây rậm rạp, mở đầu cho sự oi bức, nóng vội của tâm tưởng người tù. Tiếng chim tu hú không chỉ gợi ra trong tâm thức người tù một bức tranh ngày hè sống động mà còn khơi dậy những khát vọng chân chính của người chiến sĩ cách mạng. Đó là khát vọng muốn hất tung những bực bội nóng bức, đạp tung những song sắt nhà tù, phá tan sự bức bối và chật hẹp của nhà tù được bao quanh bởi bốn bức tường tăm tối phủ đầy những điều xấu xa của lũ thực dân cướp nước. Liên tưởng không gian gợi lên những khát vọng vượt thoát để được ngắm nhìn thế giới bên ngoài một cách thật trọn vẹn. Mong muốn được nghe rõ hơn tiếng rục rã của những con chim tu hú ngày hè, ngắm nhìn những đồng lúa, con diều, nghe tiếng ve và nhìn bầu trời xanh tươi chứa đầy hy vọng và ước mơ. Hơn thế nữa , đặt bài thơ trong bối cảnh thời đại, khi đất nước ta đang lâm vào cảnh bị mất nước, bị đô hộ bởi những tên thực dân đớn hèn và độc ác, khiến nhân dân ta chịu biết bao đầy dọa và khổ đau. Tiếng chim tu hú không còn là sự rục rã vượt thoát ra khỏi không gian chật hẹp của một cá thể mà nó trở thành sự rục rã cho cả một dân tộc với khát khao tự do, khát khao được dương cao ngọn cờ độc lập, và ước mong có được một cuộc sống ấm no và hạnh phúc.

Đối với Tố Hữu, tiếng chim trở nên vô cùng đặc biệt, nhan đề đã gợi mở ra nội dung và nghệ thuật cho cả bài thơ. Bài thơ tràn ngập tiếng chim tu hú gọi bầy, gọi những cảnh sắc thiên nhiên ngày hè, gọi cả tâm hồn thi sĩ hãy sống dậy đạp tung song sắt và những áp bức bất công từ kẻ thù mang bộ mắt xấu xa của bọn thực dân. Vì vậy, nhan đề trở thành tín hiệu, nói cách khác chúng trở thành một bước đệm hoàn hảo để triển khai toàn bộ ý nghĩa của bài thơ Khi con tu hú rất sâu sắc và ý nghĩa.

Khi Con Tu Hú (Văn 8)

NGỮ VĂN 8Giáo viên :Trần Thị Kim PhượngPhòng GD-ĐT Giao Thuỷ Trường THCS Giao An

1939 Từ ấy (1937 – 1946); Việt Bắc (1946 – 1954); Gió lộng (1955 – 1961); Ra trận (1962 – 1971); Máu và hoa (1972 – 1977); Một tiếng đờn (1979 – 1992).Các tác phẩm chính của Tố Hữu : Huế, tháng 7 – 1939 ( Tố Hữu, Từ ấy, NXB Văn học, Hà Nội, 1971 ) Khi con tu hú gọi bầy Lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dần Vườn râm dậy tiếng ve ngân Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào Trời xanh càng rộng càng cao Đôi con diều sáo lộn nhào từng không …

Ta nghe hè dậy bên lòng Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi ! Ngột làm sao, chết uất thôi Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu !Khi con tu hú Khi con tu hú( Tố Hữu) Khi con tu hú gọi bầy Lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dần Vườn râm dậy tiếng ve ngân Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào Trời xanh càng rộng càng cao Đôi con diều sáo lộn nhào từng không …

Ta nghe hè dậy bên lòng Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi ! Ngột làm sao, chết uất thôi Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu !Bố cục: +Sáu câu thơ đầu: Bức tranh mùa hè. + Bốn câu thơ sau: Tâm trạng của người chiến sĩ cách mạng.Khi con tu hú( Tố Hữu) Khi con tu hú gọi bầy Lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dần Vườn râm dậy tiếng ve ngân Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào Trời xanh càng rộng càng cao Đôi con diều sáo lộn nhào từng không …

Ta nghe hè dậy bên lòng Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi ! Ngột làm sao, chết uất thôi Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu !Khi con tu hú Khi con tu hỳ g?i b?y Lỳa chiờm dang chớn, trỏi cõy ng?t d?n Vu?n rõm d?y ti?ng ve ngõn B?p rõy vng h?t d?y sõn n?ng do Tr?i xanh cng r?ng cng cao Dụi con di?u sỏo l?n nho t?ng khụng . (Tố Hữu)C?nh v?t trn tr? s?c s?ngÂm thanh r?n ró, s?c m?u r?c r?Không gian khoáng đạt, tự do, thanh bình

Khi con tu hú .Ta nghe hố d?y bờn lũng M chõn mu?n d?p tan phũng, hố ụi ! Ng?t lm sao, ch?t u?t thụi Con chim tu hỳ ngoi tr?i c? kờu ! (Tố Hữu)

Khi con tu hú .Ta nghe hố d?y bờn lũng M chõn mu?n d?p tan phũng, hố ụi ! Ng?t lm sao, ch?t u?t thụi Con chim tu hỳ ngoi tr?i c? kờu ! (Tố Hữu)Lời tâm sự thiết tha, khao khát tự do cháy bỏngTâm trạng ngột ngạt, bức bối, uất ức

Khi con tu hú Khi con tu hỳ g?i b?y .Con chim tu hỳ ngoi tr?i c? kờu ! (Tố Hữu)khi con tu hú

(tố hữu)Nghệ thuật:– Thể thơ lục bát nhẹ nhàng, uyển chuyển– Giọng điệu thơ tự nhiên, tươi sáng, giàu cảm xúc….– Hình ảnh đẹp, gợi cảm, từ ngữ gợi tả…Nội dung: Lòng yêu cuộc sống, niềm khao khát tự do cháy bỏng của người chiến sĩ cách mạng trong cảnh tù đàyCâu hỏi: Trong bài thơ “Khi con tu hú” – Tố Hữu, em thích nhất câu thơ nào? Vì sao?Cảm ơn sự tham gia học tập tích cực của các em học sinh.Cảm ơn các Quý thầy, cô giáo đã đến dự giờ với lớp.

Thuyết Minh Bài Khi Con Tu Hú

Trong bóng tối mịt mờ chốn lao tù, dường như sự sống đã chấm dứt hẳn, bởi lạnh giá, bởi cô độc. Vậy mà, giữa những âm thanh khô khốc, chói tai của tiếng xiềng xích, vẫn vang lên nhịp tim thổn thức, rạo rực của một hồn thơ trẻ tha thiết yêu đời, yêu người. Tố Hữu, bằng cảm xúc chân thật của mình, đã cất lên tiếng nói tâm tình tha thiết của người chiến sĩ cộng sản suốt đời chiến đấu cho lí tưởng và tâm hồn khát khao tự do đến cháy bỏng trong bài thơ “Khi con tu hú”. Nhan đề bài thơ là một sự diễn đạt chưa trọn ý một cách kì lạ. Kì lạ bởi chính chỗ chưa trọn vẹn đó đã mở ra bao nhiêu liên tưởng. Giờ đây, người ta không còn thấy bóng dáng cô đơn, nặng nề của người tù Tố Hữu mà chỉ nghe tiếng lòng nhà thơ đang rộn ràng, ngân vang khi đón nhận lấy tiếng chim tu hú từ xa rộn về. Tu hú gọi bầy là âm thanh hết sức quen thuộc ở chốn làng quê Việt Nam, báo hiệu cho sự chuyển mình của sự sống – mùa hè về. Lúc này, khi con tu hú gọi bầy, trong hoàn cảnh tách biệt với cuộc sống bên ngoài, người chiến sĩ cách mạng càng cảm thấy ngột ngạt hơn, tù túng hơn, vì vậy mà càng thêm khát khao cháy bỏng hướng đến cuộc sống tự do tươi đẹp bên ngoài: “Khi con tu hú gọi bầy Lúa chiêm đương chín, trái cây ngọt dần Vườn râm dậy tiếng ve ngân Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào Trời xanh càng rộng càng cao Đôi con diều sáo lộn nhào tầng không.” Mười chín tuổi, còn trẻ trung, bồng bột, người thanh niên Tố Hữu đã tìm thấy cho mình lí tưởng cao đẹp cuộc đời. Những bước đi không mỏi mệt trên chặng đường chông gai, phút chốc phải dừng đột ngột, bị bó buộc tù hãm khiến cho Tố Hữu không khỏi có lúc thốt lên chua xót: “Cô đơn thay là cảnh thân tù”. Nhưng rồi phút giây ấy cũng nhanh chóng đi qua, nhường chỗ cho không gian cảnh vật tràn trề nhựa sống: những bông luá chín, hạt bắp vàng, ánh nắng đào, trời xanh rộng, đôi sáo diều, tiếng ve ngân… Phải có một sự tưởng tượng lãng mạn, bay bổng và một tâm hồn mến yêu sự sống sâu sắc mới có thể vẽ lại toàn bộ bức tranh phong cảnh mùa hè sống động đến vậy. Thiên nhiên hiện lên tuyệt đẹp kia không phải là hiện thực, tất cả chỉ là sự tưởng tượng của một tâm hồn mơ mộng khi căng tất cả các giác quan để nghe, để nhìn, để ngửi, để cảm nhận không khí hè qua tiếng gọi bầy của tu hú. Chỉ bằng vài đường nét, màu sắc, âm thanh, nhà thơ đã phơi bày một bức tranh đầy nhựa sống với cánh đồng lúa chiêm quen thuộc của quê hương đã bao lần đi vào thơ Tố Hữu: “Đây từng ô mạ xanh mơn mởn (…) Ôi ruộng đồng quê hương thương nhớ ơi!” Giờ đây lại hiện về trong trạng thái căng đầy nhất, viên mãn nhất, lúa ngả vàng, ngả sang màu niềm vui, là màu vàng rực rỡ của mùa hè, của mồ hôi kết tinh thành hạt thóc. Với một tâm hồn lãng mạn tinh tế, Tố Hữu đã cảm nhận sự thay đối của màu nắng với nhiều góc độ: từ ánh nắng của “đôi ánh lạt ban chiều” (Tâm tư trong tù), ánh nắng yếu ớt dễ bóp nghẹt bởi bóng tối tới một “ánh nắng đào” giữa mùa hè, lấp đi dấu ấn của “vườn râm”. Câu thơ là một không gian thoải mái với sắc hồng kì lạ. Đó là thứ ánh sáng êm dịu, hiền hậu, vỗ về cho con người trước những mất mát, đau khổ trong cuộc đời. Có lẽ từ chính sự gặp gỡ tuyệt diệu của chàng thanh niên trẻ tuổi: “Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ Mặt trời chân lí chói qua tim” đã khiến cho ánh nắng mùa hè có sự thay đổi tinh tế đến vậy. Và sự xuất hiện của bầu trời trong vắt như mặt nước yên bình nâng tầm bay cho các cánh diều đã đẩy tầm nhìn, tầm nhận thức của nhà thơ lên đến độ sâu nhất, xa nhất, cao nhất: “Trời xanh càng rộng càng cao Đôi con diều sáo lộn nhào từng không” Thấp thoáng trong ánh nhìn người tù, là một không gian mở rộng đến vô cùng vô tận. Mặc dù có thể lúc ấy ánh nhìn của nhà thơ – chiến sĩ có phần bị che khuất đi bởi chấn song nhà tù chật hẹp. Trên bầu trời lúc này không phải là một mình lẻ loi, con sáo diều cũng có đôi, có cặp, có được sự tự do bay lượn trong vùng trời riêng kia. Huống chi là con người. Vậy mà, thực tế thì sao? Con người cô đơn, cô đơn hơn bao giờ hết, và mất tự do. Không ngẫu nhiên mà bài thơ có sự bổ đôi của hai câu thơ lục bát. Nhà thơ diễn tả bức tranh mùa hè sống động đối lập với cảnh mùa đông trong ngục tối đã làm nổi bật lên khát vọng cháy bỏng của người chiến sĩ trên con đường tìm đến tự do. bốn câu thơ kết đã lắng lại cho tiếng lòng náo nức bật lên: “Ta nghe hè dậy bên lòng Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi! Ngột làm sao, chết mất thôi Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu” Khổ thơ là lời bộc lộ trực tiếp cho tâm tư con người. Bốn câu cảm thán là sự dồn nén những cảm xúc mãnh liệt của một trái tim đau khổ, uất hận vì mất tự do. Nhà thơ nghe hè, cảm nhận hè chỉ qua tiếng chim tu hú gọi bầy. Hè đã đến, ba tháng trong ngục tối cũng đã trôi qua, lòng người thanh niên đầy nhiệt huyết càng trỗi dậy mạnh mẽ hơn tiếng gọi lên đường, tiếng gọi của tự do. Từ trong sâu thẳm tâm tư mình, người tù đã nhận ra tất cả cuộc sống náo nức, vui tươi bên ngoài lúc chỉ là tưởng tượng, bởi đó là tất cả những hình ảnh tồn tại trong trí nhớ của nhà thơ. Đó là những cánh đồng, những vườn cây trái, những vườn râm. Còn hiện tại, kẻ thù đang giày xéo quê hương, đã biến bao đồng quê thành hoang mạc và thực chất không gian tự do mà nhà thơ khát khao bên ngoài kia cũng chỉ là một không gian tù hãm, một cái lồng to giam chí lớn, như chụp lên cuộc sống con người, lên quê hương. Cho nên, khổ thơ là sự bừng tiûnh của lí trí, là tâm trạng uất ức, ngột ngạt muốn đạp bỏ tất cả, tìm đến không gian tự do, tự tại thật sự. Bằng cách ngắt nhịp mạnh kết hợp với những từ ngữ mạnh mẽ: “đạp tan”, “chết uất”, câu thơ đã tập trung cao độ tinh thần yêu đời, yêu người cháy bỏng. Tiếng kêu tu hú cứ day đi day lại cả bài thơ, như thúc giục, như lời thôi thúc người tù vượt thoát cảnh giam cầm, tìm về với tự do. Có lẽ vì vậy mà ba năm sau, Tố Hữu đã vượt ngục và quay về đội ngũ, để làm tròn ước nguyện cống hiến tất cả cuộc đời cho cách mạng. “Khi con tu hú” là một bài thơ kết hợp hài hoà của cảnh và tình. Cảnh mở ra rạo rực, tha thiết, tình lắng đọng da diết, trầm buồn. Với tâm hồn dân tộc, ngòi bút linh hoạt, mềm mại, Tố Hữu xứng đáng với danh hiệu con chim đầu đàn trong nền thơ ca cách mạng Việt Nam.

Trong bóng tối mịt mờ chốn lao tù, dường như sự sống đã chấm dứt hẳn, bởi lạnh giá, bởi cô độc. Vậy mà, giữa những âm thanh khô khốc, chói tai của tiếng xiềng xích, vẫn vang lên nhịp tim thổn thức, rạo rực của một hồn thơ trẻ tha thiết yêu đời, yêu người. Tố Hữu, bằng cảm xúc chân thật của mình, đã cất lên tiếng nói tâm tình tha thiết của người chiến sĩ cộng sản suốt đời chiến đấu cho lí tưởng và tâm hồn khát khao tự do đến cháy bỏng trong bài thơ “Khi con tu hú”. Nhan đề bài thơ là một sự diễn đạt chưa trọn ý một cách kì lạ. Kì lạ bởi chính chỗ chưa trọn vẹn đó đã mở ra bao nhiêu liên tưởng. Giờ đây, người ta không còn thấy bóng dáng cô đơn, nặng nề của người tù Tố Hữu mà chỉ nghe tiếng lòng nhà thơ đang rộn ràng, ngân vang khi đón nhận lấy tiếng chim tu hú từ xa rộn về. Tu hú gọi bầy là âm thanh hết sức quen thuộc ở chốn làng quê Việt Nam, báo hiệu cho sự chuyển mình của sự sống – mùa hè về. Lúc này, khi con tu hú gọi bầy, trong hoàn cảnh tách biệt với cuộc sống bên ngoài, người chiến sĩ cách mạng càng cảm thấy ngột ngạt hơn, tù túng hơn, vì vậy mà càng thêm khát khao cháy bỏng hướng đến cuộc sống tự do tươi đẹp bên ngoài: “Khi con tu hú gọi bầy Lúa chiêm đương chín, trái cây ngọt dần Vườn râm dậy tiếng ve ngân Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào Trời xanh càng rộng càng cao Đôi con diều sáo lộn nhào tầng không.” Mười chín tuổi, còn trẻ trung, bồng bột, người thanh niên Tố Hữu đã tìm thấy cho mình lí tưởng cao đẹp cuộc đời. Những bước đi không mỏi mệt trên chặng đường chông gai, phút chốc phải dừng đột ngột, bị bó buộc tù hãm khiến cho Tố Hữu không khỏi có lúc thốt lên chua xót: “Cô đơn thay là cảnh thân tù”. Nhưng rồi phút giây ấy cũng nhanh chóng đi qua, nhường chỗ cho không gian cảnh vật tràn trề nhựa sống: những bông luá chín, hạt bắp vàng, ánh nắng đào, trời xanh rộng, đôi sáo diều, tiếng ve ngân… Phải có một sự tưởng tượng lãng mạn, bay bổng và một tâm hồn mến yêu sự sống sâu sắc mới có thể vẽ lại toàn bộ bức tranh phong cảnh mùa hè sống động đến vậy. Thiên nhiên hiện lên tuyệt đẹp kia không phải là hiện thực, tất cả chỉ là sự tưởng tượng của một tâm hồn mơ mộng khi căng tất cả các giác quan để nghe, để nhìn, để ngửi, để cảm nhận không khí hè qua tiếng gọi bầy của tu hú. Chỉ bằng vài đường nét, màu sắc, âm thanh, nhà thơ đã phơi bày một bức tranh đầy nhựa sống với cánh đồng lúa chiêm quen thuộc của quê hương đã bao lần đi vào thơ Tố Hữu: “Đây từng ô mạ xanh mơn mởn (…) Ôi ruộng đồng quê hương thương nhớ ơi!” Giờ đây lại hiện về trong trạng thái căng đầy nhất, viên mãn nhất, lúa ngả vàng, ngả sang màu niềm vui, là màu vàng rực rỡ của mùa hè, của mồ hôi kết tinh thành hạt thóc. Với một tâm hồn lãng mạn tinh tế, Tố Hữu đã cảm nhận sự thay đối của màu nắng với nhiều góc độ: từ ánh nắng của “đôi ánh lạt ban chiều” (Tâm tư trong tù), ánh nắng yếu ớt dễ bóp nghẹt bởi bóng tối tới một “ánh nắng đào” giữa mùa hè, lấp đi dấu ấn của “vườn râm”. Câu thơ là một không gian thoải mái với sắc hồng kì lạ. Đó là thứ ánh sáng êm dịu, hiền hậu, vỗ về cho con người trước những mất mát, đau khổ trong cuộc đời. Có lẽ từ chính sự gặp gỡ tuyệt diệu của chàng thanh niên trẻ tuổi: “Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ Mặt trời chân lí chói qua tim” đã khiến cho ánh nắng mùa hè có sự thay đổi tinh tế đến vậy. Và sự xuất hiện của bầu trời trong vắt như mặt nước yên bình nâng tầm bay cho các cánh diều đã đẩy tầm nhìn, tầm nhận thức của nhà thơ lên đến độ sâu nhất, xa nhất, cao nhất: “Trời xanh càng rộng càng cao Đôi con diều sáo lộn nhào từng không” Thấp thoáng trong ánh nhìn người tù, là một không gian mở rộng đến vô cùng vô tận. Mặc dù có thể lúc ấy ánh nhìn của nhà thơ – chiến sĩ có phần bị che khuất đi bởi chấn song nhà tù chật hẹp. Trên bầu trời lúc này không phải là một mình lẻ loi, con sáo diều cũng có đôi, có cặp, có được sự tự do bay lượn trong vùng trời riêng kia. Huống chi là con người. Vậy mà, thực tế thì sao? Con người cô đơn, cô đơn hơn bao giờ hết, và mất tự do. Không ngẫu nhiên mà bài thơ có sự bổ đôi của hai câu thơ lục bát. Nhà thơ diễn tả bức tranh mùa hè sống động đối lập với cảnh mùa đông trong ngục tối đã làm nổi bật lên khát vọng cháy bỏng của người chiến sĩ trên con đường tìm đến tự do. bốn câu thơ kết đã lắng lại cho tiếng lòng náo nức bật lên: “Ta nghe hè dậy bên lòng Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi! Ngột làm sao, chết mất thôi Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu” Khổ thơ là lời bộc lộ trực tiếp cho tâm tư con người. Bốn câu cảm thán là sự dồn nén những cảm xúc mãnh liệt của một trái tim đau khổ, uất hận vì mất tự do. Nhà thơ nghe hè, cảm nhận hè chỉ qua tiếng chim tu hú gọi bầy. Hè đã đến, ba tháng trong ngục tối cũng đã trôi qua, lòng người thanh niên đầy nhiệt huyết càng trỗi dậy mạnh mẽ hơn tiếng gọi lên đường, tiếng gọi của tự do. Từ trong sâu thẳm tâm tư mình, người tù đã nhận ra tất cả cuộc sống náo nức, vui tươi bên ngoài lúc chỉ là tưởng tượng, bởi đó là tất cả những hình ảnh tồn tại trong trí nhớ của nhà thơ. Đó là những cánh đồng, những vườn cây trái, những vườn râm. Còn hiện tại, kẻ thù đang giày xéo quê hương, đã biến bao đồng quê thành hoang mạc và thực chất không gian tự do mà nhà thơ khát khao bên ngoài kia cũng chỉ là một không gian tù hãm, một cái lồng to giam chí lớn, như chụp lên cuộc sống con người, lên quê hương. Cho nên, khổ thơ là sự bừng tiûnh của lí trí, là tâm trạng uất ức, ngột ngạt muốn đạp bỏ tất cả, tìm đến không gian tự do, tự tại thật sự. Bằng cách ngắt nhịp mạnh kết hợp với những từ ngữ mạnh mẽ: “đạp tan”, “chết uất”, câu thơ đã tập trung cao độ tinh thần yêu đời, yêu người cháy bỏng. Tiếng kêu tu hú cứ day đi day lại cả bài thơ, như thúc giục, như lời thôi thúc người tù vượt thoát cảnh giam cầm, tìm về với tự do. Có lẽ vì vậy mà ba năm sau, Tố Hữu đã vượt ngục và quay về đội ngũ, để làm tròn ước nguyện cống hiến tất cả cuộc đời cho cách mạng. “Khi con tu hú” là một bài thơ kết hợp hài hoà của cảnh và tình. Cảnh mở ra rạo rực, tha thiết, tình lắng đọng da diết, trầm buồn. Với tâm hồn dân tộc, ngòi bút linh hoạt, mềm mại, Tố Hữu xứng đáng với danh hiệu con chim đầu đàn trong nền thơ ca cách mạng Việt Nam.