Top 12 # Xem Nhiều Nhất Ý Nghĩa Của Văn Bản Kiều Ở Lầu Ngưng Bích Mới Nhất 3/2023 # Top Like | Athena4me.com

Ý Nghĩa Và Nghệ Thuật Của Bài “Kiều Ở Lầu Ngưng Bích “?

Trong truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du, có thể nói đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một trong những đoạn trích hay nhất, xúc động nhất khi miêu tả cảm xúc, tâm trạng của con người. Với bút pháp nghệ thuật tả cảnh để ngụ tình, nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ độc thoại nội tâm, đại thi hào đã làm nổi bật được tâm trạng sầu não, cô đơn, buồn nhớ, hãi hùng của nàng Kiều, chuẩn bị bước vào cuộc đời đầy sóng gió “thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần” của Kiều. Trong suốt 15 năm lưu lạc đó, Kiều phải chịu biết bao cay đắng tủi nhục. Nguyễn Du luôn theo sát bước chân của nàng để cùng cảm thông chia sẻ với nàng. Mỗi một hoàn cảnh Kiêu có một nỗi đau riêng, một tâm trạng riêng, ngòi bút nhân đạo của Nguyễn Du đã diễn tả những nỗi niềm sâu kín của nàng. Đoạn trích thuộc phần thứ hai của tác phẩm và là một bức tranh tâm tình đầy xúc động của những ngày tháng đầy cô đơn tuyệt vọng (từ câu 1033 đến câu 1054).Sau khi bị Mã Giám Sinh làm nhục, Kiều bị đưa về Lâm Tri, nơi Mã Giám Sinh chung vốn với Tú bà mở cửa hàng thanh lâu để tiếp khách làng chơi. Biết bị lừa dối, lại còn bị mụ Tú bà đánh đập hành hạ, quá uất ức nàng đã rút đao sẵn bên mình để quyên sinh. Sợ Kiều liều mình thì “vốn liếng đi đời nhà ma”, Tú bà đành phải chăm sóc thuốc thang rồi đưa Kiều ra lầu Ngưng Bích…“Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân”“Khoá xuân”, nhà thơ mỉa mai, thực chất đây là những ngày Kiều bị Tú bà giam lỏng. Vừa trải qua những đau khổ, hãi hùng này lại bị nhốt ở nơi vắng vẻ, tâm trạng Kiều càng cảm thấy cô đơn, chán ngán. Từ trên lầu cao nhìn ra chung quanh là cả một không gian bát ngát, tất cả đều xa vời:“Vẻ non xa tấm trăng gần ở chungBốn bề bát ngát xa trông.”” Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia” – Núi mờ xa, trăng trên trời cao dẫu có muốn kéo lại cho gần để làm bạn thì trắng vẫn vời vợi, quay nhìn ra bốn bề thấy xa vắng tít tắp, chỉ có cát vàng cồn nọ nối tiếp nhau cùng với bụi hồng trên dặm dài thăm thẳm. Không có bóng dáng con người, không gian vắng lặng đến rợn người, ngay cả cảnh vật cũng ở nơi xa xôi. Nàng đắm chìm trong nỗi niềm buồn tủi cô liêu, lặng lẽ như một chiếc bóng may chỉ còn “Mây sớm đèn khuya” làm bạn tâm tình với nàng. Trong những giây phút âm thầm cô quạnh đó, hình ảnh những người thân lại hiện về, nàng nhớ Kim Trọng, nhớ về một mối tình trong sáng đẹp đẽ. Đêm trăng này gợi nhớ lại một đêm trăng trước hai người cùng nhau thề nguyện ước hẹn dưới ánh trăng. Nàng thương Kim Trọng vẫn tháng ngày mong nhớ, không biết nàng ở nơi góc bể chân trời nao:“Tưởng người dưới nguyệt chén đồngTin sương luống những rày trông mai chờ”Cho dù tình yêu chỉ còn trong ki niệm xót xa nhưng tấm lòng son sắt thủy chung của nàng với Kim Trọng vẫn không nhạt phai.“Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”Nguyễn Du đã sử dụng ngôn ngữ độc thoại kết hợp hài hòa giữa phong cách cổ điển và phong cách dân tộc, tạo nên những vần thơ biểu cảm thể hiện một tâm trạng bi kịch, một cảnh ngộ đầy đau thương của Kiều – Trọng khi chia li. “Trâm gãy gương tan” nàng vẫn dành cho người yêu bao tình thương nỗi nhớ. Cảnh ngộ của Kiều càng thật thương tâm, nhưng nàng thương mình thì ít mà thương người thân thì nhiều. Nàng xót thương cha mẹ già vì thương nhớ con mà sớm hôm mòn mỏi tựa cửa chờ mong, tuổi già sức yếu ai là người chăm nom, cậy nhờ:“Xót người tựa cửa hôm maiQuạt nồng ấp lạnh những ai đó giờSân Lai cách mấy nắng mưaCó khi gốc tử đã vừa người ôm”Giọng thơ rưng lệ, nỗi đau của Kiều như thấm vào cảnh vật thời gian và lòng người bấy lâu nay. Xót thương cha mẹ già, tưởng nhớ người yêu, Kiều lại có cái tình yêu vẹn toàn. Hình ảnh người thân không làm vơi bớt nỗi lẻ loi cô quạnh, trái lại nỗi buồn càng thêm trĩu nặng. Ở tám câu thơ cuối, điệp ngữ “Buồn trông” nơi đầu câu khiến cho nỗi buồn như chất chồng mãi, mỗi câu thơ là một cảnh, một tâm trạng nhưng tựu chung vẫn chỉ là nỗi buồn cô đơn tuyệt vọng thương mình, thương người thân, thương cho thân phận và duyên số.Đây là đoạn thơ hay nhất trong Truyện Kiều. Cứ mỗi cặp lục bát là một nét tâm trạng buồn trông. Ngoại cảnh và tâm cảnh cùng cảnh thiên nhiên và diễn biến tâm trạng nhân vật được diễn tả qua một hệ thống hình tượng mà ngôn ngữ mang tính ước lệ, mở ra một trường liên tưởng bi thương.“Buồn trông cửa bể chiều hôm”Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa”Cửa bể mênh mông lúc ngày tàn chiều hôm càng làm tăng nỗi buồn cô đơn của kiếp người lưu lạc. “Thuyền ai” lúc ẩn lúc hiện thấp thoáng cánh buồm xa xa đầy ám ảnh.Buồn trông con thuyền ai xa lạ, cánh buồm xa xa thấp thoáng, Kiều càng nghĩ đến thân phận bơ vơ của mình nơi đất khách quê người. Rồi những cánh hoa trôi nổi dập vùi theo dòng nước có khác nào cuộc đời lênh đênh vô định của nàng:“Buồn trông ngọn nước mới saHoa trôi man mác biết là về đâu”Nhìn ra xa, Kiều buồn trông về phía chân mây mặt đất về nội cỏ, nàng chỉ thấy trên cái nền xanh xanh mịt mờ bao la là màu sắc tàn úa, vàng héo, rầu rầu của nội cỏ. Màu sắc tê tái thê lương ấy đã phản chiếu nỗi đau tê tái của người con gái lưu lạc:“Buồn trông nội cỏ rầu rầu”Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”“Nội cỏ rầu rầu” tàn úa hiện lên giữa màu xanh nhạt nhòa của chân mây mặt đất chính là tâm trạng lo âu của Kiều khi nghĩ đến tương lai mù mịt, héo tàn của mình. Nhìn xa rồi nhìn gần, vừa buồn trông vừa lắng nghe, nghe tiếng gió, gió gào, gió cuốn trên mặt duềnh. Nghe tiếng ầm ầm của sóng không phải sóng reo mà là sóng kêu. Gió và sóng đang bủa vây xung quanh ghế ngồi. Một tâm trạng cô đơn lẻ loi đang trải qua những giờ phút hãi hùng, ghê sợ, lo âu. Phải chăng âm thanh dữ dội ấy của gió và sóng là biểu tượng cho những tai họa khủng khiếp đang bủa vây, sắp giáng xuống số phận người con gái nhỏ bé, đáng thương:“Buồn trông gió cuốn mặt duềnhẦm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”Bức tranh nước non con người, cận cảnh là lầu Ngưng Bích, viễn cảnh là con thuyền trên cửa biển chiều hôm, là ngọn nước và hoa trôi, là nội cỏ rầu rầu giữa màu xanh xanh chân mây mặt đất, là gió cuốn và tiếng sóng ầm ầm kêu nơi mặt duềnh… mang ý nghĩa tượng trưng và giàu giá trị thẩm mỹ. Màu sắc ấy, âm thanh ấy của thiên nhiên vừa bao la mờ mịt, vừa dữ dội, tất cả như đang bủa vây người con gái lưu lạc đau thương trong nỗi buồn đau hãi hùng lẻ loi.Thiên nhiên trong Truyện Kiều chứa đầy tâm trạng, đằng sau mỗi cảnh đều thấp thoáng bóng dáng con người với những nỗi tâm tư thầm kín. Tâm trạng hòa vào cảnh vật, cảnh vật cũng buồn vui với con người! Tả cảnh để ngụ tình là nét nghệ thuật đặc sắc của ngòi bút thiên tài Nguyễn Du và đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” được xem là dấu son trong tác phẩm Truyện Kiều bất hủ.

Tìm Hiểu Kiến Thức Văn Bản: Kiều Ở Lầu Ngưng Bích (Trích Truyện Kiều

Kiều ở lầu Ngưng Bích (trích Truyện Kiều – Nguyễn Du)

I. Đọc – hiểu chú thích.

1. Tác giả: Nguyễn Du

a. Vị trí đoạn trích:

– Nằm ở phần thứ hai “Gia biến và lưu lạc”. Sau khi biết mình bị lừa vào chốn lầu xanh, Kiều uất ức định tự vẫn. Tứ Bà sợ mất vốn, bèn lựa lời khuyên giải, dụ dỗ. Mụ vờ chăm sóc, thuốc thang, hứa hẹn khi nàng bình phục,sẽ gả cho người tử tế; rồi đưa Kiều ra giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, đợi thực hiện âm mưu mới. Sau đoạn này là việc Kiều bị Sở Khanh lừa và phải chấp nhận làm gái lầu xanh. Đoạn trích nằm giữa hai biến cố đau xót. Đây là những biến cố giúp ta hiểu những bàng hoàng tê tái và sự lo âu về tương lại của nàng Kiều.

2. Bố cục đoạn trích:

– Sáu câu đầu: Hoàn cảnh cô đơn, cay đắng xót xa của Kiều

– Tám câu tiếp: Nỗi thương nhớ Kim Trọng và cha mẹ của Kiều

– Tám câu cuối: Tâm trạng đau buồn, âu lo của Kiều qua cách nhìn cảnh vật.

3. Nội dung:

Đoạn trích đã miêu tả chân thực cảnh ngộ cô đơn, buồn tủi, đáng thương, nỗi nhớ người thân da diết và tấm lòng thủy chung, hiếu thảo vị tha của Thúy Kiều khi bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích

II. Đọc – hiểu văn bản:

1. Hoàn cảnh cô đơn, buồn tủi của Kiều (6 câu thơ đầu).

* Sáu câu thơ đầu gợi tả cảnh thiên nhiên nơi lầu Ngưng Bích với không gian, thời gian.

– Không gian nghệ thuật được miêu tả dưới con mắt nhìn của Thúy Kiều:

+ Lầu Ngưng Bích là nơi Kiều bị giam lỏng. Hai chữ “khóa xuân” đã nói lên điều đó.

+ Cảnh đẹp nhưng mênh mông, hoang vắng và lạnh lẽo:

Ngước nhìn xa xa, chỉ thấy dãy núi mờ nhạt.

Nhìn lên trời cao chỉ có “tấm trăng gần” → Thời gian chiều tối, gợi buồn.

Xa hơn nữa, nhìn ra “bốn bề bát ngát xa trông” là những cát vàng cồn nọ nối tiếp nhau cùng với bụi hồng trên dặm dài thăm thẳm.

– Nàng đau đớn, tủi nhục cho thân phận của mình.

+ Cụm từ “mây sớm đèn khuya” gợi thời gian tuần hoàn khép kín, quanh đi quẩn lại hết “mây sớm” lại “đèn khuya”. Thời gian cứ thế trôi đi, rồi lặp lại, Kiều thấy tuyệt vọng với tâm trạng cô đơn, buồn tủi, hổ thẹn đến “bẽ bàng”.

+ Bốn chữ “như chia tấm lòng” diễn tả nỗi niềm chua xót, nỗi lòng tan nát của Kiều.

⇒ Bút pháp chấm phá đặc sắc, khung cảnh làm nền cho Kiều thổ lộ tâm tình. Thiên nhiên rộng lớn mà con người nhỏ bé, đơn côi.

2. Nỗi thương nhớ Kim Trọng và cha mẹ của Kiều (8 câu thơ tiếp theo).

* Nỗi nhớ về Kim Trọng:

+ Nàng nhớ đến cảnh mình cùng Kim Trọng uống rượu thề nguyền dưới ánh trăng. Chữ “tưởng” ở đây có thể xem là một nhãn tự. Nguyễn Du không dùng chữ “nhớ” mà dùng chữ “tưởng”.“Tưởng” vừa là nhớ, vừa là hình dung, tưởng tượng ra người mình yêu.

+ Thúy Kiều như tưởng tượng thấy, ở nơi xa kia, người yêu cũng đang hướng về mình, đang ngày đêm đau đáu chờ tin nàng: “Tin sương luống những rày trông mai chờ”.

+ Rồi bất chợt, nàng liên tưởng đến thân phận “bên trời góc biển bơ vơ” của mình. Kiều băn khoăn tự hỏi: “Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”:

+ Câu thơ muốn nói tới tấm lòng son của Kiều, tấm lòng nhớ thương Kim Trọng sẽ không bao giờ phai mờ, nguôi quên dù cho có gặp nhiều trắc trở trong đường đời.

+ Câu thơ còn gợi ra một cách hiểu nữa: Tấm lòng son trong trắng của Kiều bị những kẻ như Tú Bà, Mã Giám Sinh làm cho dập vùi, hoen ố,biết bao giờ mới gột rửa được?

⇒ Trong bi kịch tình yêu, Thúy Kiều có nỗi đau về nhân phẩm.

–  Kiều nhớ đến Kim Trọng bởi trong cơn gia biến, Kiều đã phải hi sinh mối tình đầu đẹp đẽ để cứu gia đình, Kiều đã phần nào “đền ơn sinh thành” cho cha mẹ. Vì thế trong lòng Kiều, Kim Trọng là người mất mát nhiều nhất, nỗi đau ấy cứ vò xé tâm can Kiều khiến Kiều luôn nghĩ đến Kim Trọng.

* Kiều xót xa nghĩ đến cha mẹ:

– Chữ “xót” diễn tả tấm lòng Kiều dành cho đấng sinh thành:

+ Nàng lo lắng xót xa nghĩ đến hình bóng tội nghiệp của cha mẹ, khi sáng sớm, lúc chiều hôm tựa cửa ngóng tin con, hay mong chờ con đến đỡ đần

+ Nàng lo lắng không biết giờ đây ai là người chăm sóc cha mẹ khi thời tiết đổi thay.

+ Nàng xót xa khi cha mẹ ngày một thêm già yêu mà mình không được ở bên cạnh để phụng dưỡng.

⇒ Tác giả đã sử dụng các thành ngữ “rày trông mai chờ”, “quạt nồng ấp lạnh”, “cách mấy nắng mưa” và các điển tích, điển cố “sân Lai,gốc Tử”để nói lên tâm trạng nhớ thương, lo lắng và tấm lòng hiếu thảo của Kiều dành cho cha mẹ. Ở đây, Nguyễn Du đã miêu tả khách quan tâm trạng của Thúy Kiều vượt qua những định kiến của tư tưởng phong kiến: đặt chữ tình trước chữ hiếu.

3. Tâm trạng đớn đau, tuyệt vọng của Kiều qua cách nhìn cảnh vật (8 câu thơ cuối).

– Điệp ngữ “buồn trông” được lặp lại 4 lần tạo âm hưởng trầm buồn, trở thành điệp khúc diễn tả nỗi buồn đang dâng lên lớp lớp trong lòng Kiều. Cảnh vật thiên nhiên qua con mắt của Kiều gợi nỗi buồn da diết:

+ Cánh buồm thấp thoáng lúc ẩn lúc hiện nơi cửa bể chiều hôm gợi hành trình lưu lạc mờ mịt không biết đâu là bến bờ.

+ Cánh hoa trôi man mác trên ngọn nước mới sa gợi thân phận nhỏ bé, mỏng manh, lênh đênh trôi dạt trên dòng đời vô định không biết đi đâu về đâu.

+ Nội cỏ rầu rầu trải rộng nơi chân mây mặt đất gợi cuộc sống úa tàn, bi thương, vô vọng kéo dài không biết đến bao giờ.

+ Hình ảnh “gió cuốn mặt duềnh” và âm thanh ầm ầm của tiếng sóng “kêu quanh ghế ngồi” gợi tâm trạng lo sợ hãi hùng như báo trước,chỉ ngay sau lúc này, dông bão của số phận sẽ nổi lên, xô đẩy, vùi dập cuộc đời Kiều.

⇒ Bằng nghệ thuật ẩn dụ, hệ thống câu hỏi tu từ, các từ láy “thấp thoáng”, “xa xa”, “man mác”,“rầu rầu”,”xanh xanh”,”ầm ầm”… góp phần làm nổi bật nỗi buồn nhiều bề trong tâm trạng Kiều. Tác giả lấy ngoại cảnh để bộc lộ tâm cảnh. Cảnh được miêu tả từ xa đến gần; màu sắc từ nhạt đến đậm; âm thanh từ tĩnh đến động; nỗi buồn từ man mác, mông lung đến lo âu, kinh sợ, dồn đến cơn bão táp của nội tâm, cực điểm của cảm xúc trong lòng Kiều. Toàn là hình ảnh về sự vô định, mong manh, sự dạt trôi, bế tắc, sự chao đảo nghiêng đổ dữ dội. Lúc này, Kiều trở nên tuyệt vọng,yếu đuối nhất, vì thế nàng đã mắc lừa Sở Khanh để rồi dấn thân vào cuộc đời ô nhục.

III. Tổng kết.

1. Nội dung:

Đoạn trích đã miêu tả chân thực cảnh ngộ cô đơn, buồn tủi, đáng thương, nỗi nhớ người thân da diết và tấm lòng thủy chung, hiếu thảo vị tha của Thúy Kiều khi bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích

2. Nghệ thuật:

– Đoạn trích thành công ở nghệ thuật miêu tả nội tâm đặc sắc với bút pháp tả cảnh ngụ tình được coi là đặc sắc nhất trong Truyện Kiều

– Thể thơ lục bát cổ truyền, nghệ thuật tả cảnh ngụ tình tinh tế kết hợp các biện pháp tu từ quen thuộc, điệp ngữ “buồn trông”…

Đọc Hiểu Văn Bản Kiều Ở Lầu Ngưng Bích

KIỀU Ở LẦU NGƯNG BÍCH (Trích Truyện Kiều – Nguyễn Du)

I – TÌM HIỂU CHUNG

1. Tác giả:

Nguyễn Du (1765-1820) tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên; quê làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh; sinh trưởng trong một gia đình đại quí tộc, nhiều đời làm quan và có truyền thống về văn học. Cha là Nguyễn Nghiễm, đỗ tiến sĩ, từng giữ chức Tể tướng, anh cùng cha khác mẹ là Nguyễn Khản cũng từng làm quan to dưới triều Lê – Trịnh.

Nguyễn Du sống trong một thời đại có nhiều biến động: cuối thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX, chế độ phong kiến Việt Nam khủng hoảng trầm trọng, bão táp phong trào nông dân khởi nghĩa nổi lên khắp nơi, đỉnh cao là khởi nghĩa Tây Sơn đánh đổ các tập đoàn phong kiến Lê, Trịnh, Nguyễn, quét sạch hai mươi vạn quân Thanh, rồi phong trào Tây Sơn thất bại, nhà Nguyễn được thiết lập. Những biến cố đó đã in dấu ấn trong sáng tác của Nguyễn Du, như chính trong Truyện Kiều ông viết: Trải qua một cuộc bể dâu – Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.

Nguyễn Du từng trải một cuộc đời phiêu bạt: sống nhiều nơi trên đất Bắc, ở ẩn ở Hà Tĩnh, làm quan dưới triều Nguyễn, đi sứ Trung Quốc. Vốn hiểu biết sâu rộng, phong phú về cuộc sống của Nguyễn Du có phần do chính cuộc đời phiêu bạt, trải nghiệm nhiều tạo thành.

Đoạn trích nằm ở phần thứ hai trong Truyện Kiều (Gia biến và lưu lạc). Gia đình Kiều gặp cơn nguy biến. Do thằng bán tơ vu oan, cha và em Kiều bị bắt giam. Để chuộc cha, Kiều quyết định bán mình. Tưởng gặp được nhà tử tế, ai dè bị bắt vào chốn lầu xanh, Kiều uất ức định tự tử. Tú Bà (chủ quán lầu xanh) vờ hứa hẹn gả chồng cho nàng, đem nàng ra giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, sau đó mụ sẽ nghĩ cách để bắt nàng phải tiếp khách làng chơi.

Đoạn trích gồm hai mươi hai câu. Sáu câu thơ đầu thể hiện hoàn cảnh cô đơn, tội nghiệp của Thuý Kiều; tám câu thơ tiếp thể hiện nỗi thương nhớ của nàng về Kim Trọng và về cha mẹ; tám câu còn lại thể hiện tâm trạng đau buồn, âu lo của Thuý Kiều.

II – GIÁ TRỊ TÁC PHẨM

Nguyễn Du là một bậc thầy về tả cảnh. Nhiều câu thơ tả cảnh của ông có thể coi như là chuẩn mực cho vẻ đẹp của thơ ca cổ điển:

– Dưới trăng, quyên đã gọi hè Đầu tường lửa lựu lập loè đâm bông.

– Long lanh đáy nước in trời Thành xây khói biếc, non phơi bóng vàng…

Với những câu thơ này, Nguyễn Du đã làm đẹp, làm giàu có thêm rất nhiều cho ngôn ngữ dân tộc. Từng có ý kiến cho rằng, so với tiếng Hán vốn có tính hàm súc, tính biểu hiện rất cao thì tiếng Việt trở nên quá nôm na, ít khả năng biểu hiện. Tuy nhiên, Nguyễn Du đã chứng minh rằng ngôn ngữ tiếng Việt có một khả năng biểu hiện vô giới hạn.

Nhưng Nguyễn Du không chỉ giỏi về tả cảnh mà còn giỏi về tả tình cảm, tả tâm trạng. Trong quan niệm của ông, hai yếu tố tình và cảnh không tách rời nhau mà luôn đi liền với nhau, bổ sung cho nhau. Ví dụ, trong hai câu thơ tả cảnh chị em Thuý Kiều đi chơi xuân:

Nao nao dòng nước uốn quanh Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.

Cảnh rất đẹp và thanh, ứng với tâm hồn hai chị em đang nhẹ nhàng thơi thới. Ngược lại, khi người buồn thì cảnh cũng buồn theo. Trong một đoạn thơ khác thuộc Truyện Kiều, ông viết:

Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.

Hai câu thơ này thể hiện rất rõ quan niệm của Nguyễn Du về mối quan hệ giữa tâm trạng của con người và cảnh vật. Cảnh vật đẹp hay không đẹp, nhẹ nhàng, thanh thoát hay nặng nề, u ám phụ thuộc rất nhiều vào tâm trạng của con người trước cảnh đó.

Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là sự kết hợp, giao hoà của hai yếu tố cảnh vật và tâm trạng. Về cảnh vật có lầu cao, có non xanh nước biếc, sơn thuỷ hữu tình. Nếu Thuý Kiều ở vào một hoàn cảnh khác, trong tâm trạng khác thì hẳn cảnh đó sẽ rất đẹp. Tuy nhiên, tâm trạng Kiều lại đang rất u ám, sầu não: bị Tú Bà giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, Kiều da diết nhớ cha mẹ, nhớ người yêu, đồng thời lại rất đau xót cho thân phận mình. Cảnh vật, do đó, nhuốm màu tâm trạng:

Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung.

Kiều ngắm cảnh hay Kiều đối cảnh? Thật khó có thể nói là “ngắm” theo nghĩa thông thường của từ này. Bởi “ngắm” có nghĩa là chiêm ngưỡng, thưởng ngoạn. Kiều đang trong tâm trạng như thế sao có thể thưởng ngoạn cho được? Bởi vậy, dù có cả “vẻ non xa” lẫn “tấm trăng gần” nhưng cảnh vật ấy chẳng thể nào gợi lên một chút tươi vui hay ấm áp. Nhà thơ đã dùng hai chữ “ở chung” thật khéo. Kiều trông thấy tất cả những thứ đó nhưng với nàng, chúng chẳng khác gì nhau và càng không có gì đặc biệt. Hai yếu tố trái ngược (non xa, trăng gần) tưởng như phi lí nhưng thực ra đã diễn tả rất chính xác sự trống trải của cảnh vật qua con mắt của Kiều. Khung cảnh “bốn bề bát ngát” chỉ càng khiến cho lòng người thêm gợi nhớ:

Bốn bề bát ngát xa trông Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia.

Có thể hình dung rất rõ một không gian mênh mang đang trải rộng ra trước mắt Kiều. Một người bình thường đứng trước không gian ấy cũng khó ngăn được nỗi buồn. Với Kiều, không gian rộng rãi, trống trải ấy chỉ càng khiến nàng suy nghĩ về cuộc đời mình:

Bẽ bàng mây sớm đèn khuya Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.

Bởi trong những câu thơ tả cảnh trên đã thấm đẫm cái “tình” (tâm trạng) của Kiều nên đến những câu thơ này, Nguyễn Du đã bắt vào mạch tả tâm trạng một cách hết sức tự nhiên. ý thơ chuyển đổi rất linh hoạt: tả cảnh gắn với không gian. Không gian cao rộng (non xa, trăng gần) càng khiến cho cảnh mênh mang, dàn trải. Tả tâm trạng lại gắn với thời gian. Thời gian dằng dặc (mây sớm, đèn khuya) càng cho thấy tâm trạng chán nản, buồn tủi của Kiều. “Nửa tình nửa cảnh”  trước mắt là tình hay là cảnh, dường như cũng không còn phân biệt được nữa.

Theo dòng tâm trạng của Kiều câu thơ bắt vào nỗi nhớ:

Tưởng người dưới nguyệt chén đồng Tin sương luống những rày trông mai chờ. Bên trời góc bể bơ vơ Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.

Nhớ nhà, trước hết Kiều nhớ đến Kim Trọng, nhớ đến chén rượu thề nguyền dưới trăng. Đối với một người luôn đa sầu đa cảm, nặng tình nặng nghĩa như Thuý Kiều, cảm xúc ấy thật xa xót. Càng nhớ đến Kim Trọng thì Kiều lại càng đau đớn cho thân phận mình. Việc Kiều thương Kim Trọng đang chờ mong tin mình một cách vô vọng đã cho thấy một vẻ đẹp khác trong tâm hồn nàng: Kiều luôn nghĩ đến người khác trước khi nghĩ đến bản thân mình. Tấm lòng ấy thật cao đẹp và đáng quý biết bao!

Tiếp theo là Kiều nhớ đến cha mẹ. Có ý kiến cho rằng, Kiều đã nhớ đến người yêu trước rồi mới nhớ đến cha mẹ, phải chăng là nàng đã đặt chữ “tình” lên trên chữ “hiếu”? Thực ra, việc Nguyễn Du miêu tả nỗi nhớ của Kiều dành cho Kim Trọng trước rồi mới miều tả nỗi nhớ cha mẹ là hoàn toàn hợp lí. Kiều không hề đặt chữ “hiếu” sau chữ “tình”. Khi gia đình gặp tai biến, trước câu hỏi “Bên tình bên hiếu bên nào nặng hơn?”, Kiều đã dứt khoát lựa chọn chữ “hiếu” bằng hành động bán mình chuộc cha. Giờ đây, khi cha và em nàng đã được cứu, người mà nàng cảm thấy mình có lỗi chính là Kim Trọng. Nhưng không vì thế mà nỗi nhớ cha mẹ kém phần day dứt:

Xót người tựa cửa hôm mai Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ? Sân Lai cách mấy nắng mưa Có khi gốc tử đã vừa người ôm.

Những thành ngữ, điển tích, điển cố (tựa cửa hôm mai, quạt nồng ấp lạnh, Sân Lai, gốc tử) liên tục được sử dụng đã thể hiện rất rõ tình cảm nhớ nhung sâu nặng cũng như những băn khoăn trăn trở của Thuý Kiều khi nghĩ đến cha mẹ, nghĩ đến bổn phận làm con của mình. Trong hoàn cảnh thực tế, những suy nghĩ, tâm trạng đó càng chứng tỏ nàng là một người con rất mực hiếu thảo.

Tám câu thơ cuối cũng nằm trong số những câu thơ tả cảnh hay nhất của Truyện Kiều. Chúng thể hiện rất rõ nét nghệ thuật “tả cảnh ngụ tình” của Nguyễn Du:

Buồn trông cửa bể chiều hôm, Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa? Buồn trông ngọn nước mới sa, Hoa trôi man mác biết là về đâu? Buồn trông nội cỏ dàu dàu, Chân mây mặt đất một màu xanh xanh…

Nếu tách riêng các yếu tố ngoại cảnh ra mà xét thì có thể thấy đó là một khung cảnh thật thơ mộng và lãng mạn: có cánh buồm thấp thoáng, có man mác hoa trôi, có nội cỏ chân mây mặt đất một màu… Thế nhưng khi đọc lên, những câu thơ này chỉ khiến cho lòng người thêm sầu muộn, ảo não. Nguyên nhân là bởi trước mỗi cảnh vật kia, sừng sững án ngữ cụm từ “buồn trông”. Không phải là “xa trông” như người ta vẫn nói, cũng không phải là “ghé mắt trông” như Xuân Hương đã từng tinh nghịch mà điền trước đền thờ Sầm Nghi Đống, ở đây, nhân vật trữ tình chỉ có một tâm thế duy nhất: “buồn trông”. Tâm trạng nàng đang ngổn ngang trăm mối: nhớ người yêu, nhớ cha mẹ, cảm giác mình là người có lỗi,… và nhất là đang hết sức đau xót cho thân phận mình. Bởi vậy, cảnh vật ấy cần được cảm nhận theo con mắt của Thuý Kiều: cánh buồm thấp thoáng nổi trôi vô định, hoa trôi man mác càng gợi nỗi phân li, nội cỏ không mơn mởn xanh mà “dàu dàu” trong sắc màu tàn úa… Nổi bật lên trong cảnh vật đó là những âm thanh mê hoặc:

Buồn trông sóng cuốn mặt duềnh ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi

Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du cũng đã nhiều lần miêu tả âm thanh. Có thể nói lần nào ông cũng thành công. Có khi chỉ qua một vài từ, ông đã diễn tả rất chính xác cảnh huyên náo trong nhà Thuý Kiều khi bọn vô lại kéo đến nhà:

Trước thầy sau tớ xôn xao Đầu trâu mặt ngựa ào ào như sôi.

Nguyễn Du đặc biệt thành công khi ông tả tiếng đàn của Kiều. Tuỳ theo tâm trạng, mỗi lần tiếng đàn của Kiều cất lên là một lần người nghe phải chảy nước mắt khóc cho số phận oan nghiệt của nàng.

Trong đoạn thơ này, Nguyễn Du không tả tiếng đàn mà tả tiếng sóng. Trong khung cảnh bát ngát, mênh mang, tiếng sóng vỗ “ầm ầm” (lưu ý: nhà thơ đã đảo ngữ để cho ấn tượng đó càng rõ ràng hơn) quả là một thứ âm thanh hết sức bất thường. Dường như nó muốn phá vỡ khung cảnh nặng nề nhưng yên tĩnh, nó dứt Kiều ra khỏi dòng suy tư về gia đình, người thân mà trả nàng về với thực tại nghiệt ngã.

Ngoài ra, dường như đó còn là những dự cảm về quãng đời đầy những khổ đau, tủi nhục ê chề mà Kiều sắp phải trải qua.

(Sưu tầm)

Bài 7. Kiều Ở Lầu Ngưng Bích

GIÁO ÁN THAO GIẢNGGiáo viên : Vũ Thị XoanMôn : Ngữ văn 9Lớp dạy: 9 D Ngày dạy: 03/10/2014Tiết TKB: 4 Tiết PPCT: 32

Hoạt động của GV và Học sinhNội dung

HS Đọc lại 8 câu thơ: Tưởng người… bao giờ cho phai– GV: Tám câu thơ trên miêu tả những nỗi nhớ thương nào của Kiều?– HS: Nỗi nhớ người yêu (Kim Trọng). Nỗi nhớ cha mẹ.– GV: Người đầu tiên Kiều nhớ đến là ai?– HS: Kim Trọng.– GV: Tìm những câu thơ thể hiện nỗi nhớ Kim Trọng?– HS: Tưởng người … cho phai.– GV: Em hiểu “tưởng” có nghĩa là gì?– HS: Tưởng là nghĩa là nhớ lại, tưởng tượng, hình dung ra.– GV: Nhớ KT, K đã tưởng tượng lại những gì?– HS: Kiều nhớ lại buổi thề nguyền dưới trăng. Hình ảnh KT ngày đêm trông ngóng chờ đợi tin nàng mà vẫn uổng công vô ích.– GV: Kiều nhớ KT trong tâm trạng như thế nào?– HS: Đau đớn, xót xa.– GV: Kiều đau đớn xót xa vì điều gì?– HS: Vì mối tình đầu trong trắng, thiết tha của mình đã tan vỡ.– GV giảng: Câu thơ “Tin sương luống những rày trông mai chờ” đã diễn tả được nỗi nhớ thương của K với KT. Nàng hình dung ra được nỗi đau khổ thất vọng của KT khi bặt tin nàng. Rõ ràng nàng đã quên đi nỗi đau cả về thể xác lẫn tinh thần của mình để thương cho KT, lo lắng cho KT. – GV: Quay về với hoàn cảnh thực tại của mình, Kiều có suy nghĩ gì?– HS: Kiều thương cho thân phận bơ vơ, nổi trôi của mình nơi chân trời góc bể.– GV: Em hiểu như thế nào về tâm sự của K qua câu thơ: Tấm son gột rửa bao giờ cho phai?– HS: Kiều băn khoăn khi sự trong trắng, trinh tiết của mình đã bị hoen ố biết bao giờ mới gột rửa được. Kiều muốn khẳng định tấm lòng thủy chung son sắt của mình với KT sẽ không bao giờ có thể phai nhạt.– GV: Từ đó em thấy Kiều nhớ về Kim Trọng với tấm lòng ntn?– HS: Kiều nhớ Kim Trọng với tấm lòng thủy chung, son sắt.– GV: Quay lại tám câu thơ miêu tả nỗi nhớ của Kiều: Tưởng người … bao giờ cho phai”– GV: Em có nhận xét gì về trình tự miêu tả nỗi nhớ của nhà thơ Nguyễn Du qua tám câu thơ trên?– HS: Tác giả đã miêu tả nỗi nhớ của Kiều với Kim Trọng trước, nỗi nhớ cha mẹ