Top 11 # Xem Nhiều Nhất Xung Đột Pháp Luật Là Gì Mới Nhất 3/2023 # Top Like | Athena4me.com

Quy Phạm Xung Đột Là Gì

Quy phạm xung đột là quy phạm ấn định luật pháp nước nào cần áp dụng để giải quyết các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài mỗi khi có sự kiện pháp lý phát sinh cụ thể.

1. Đặc điểm quy phạm xung đột

Quy phạm xung đột sẽ không đưa ra các chế tài hay phương án để giải quyết các sự việc, mà nó chỉ là một kênh luật trung gian, chỉ định, chọn lựa luật pháp của một nước cụ thể giải quyết nên cấu trúc khá phức tạp, mang tính trừu tượng cao.

Tính điều chỉnh gián tiếp thể hiện ở chỗ quy phạm xung đột sẽ làm nhiệm vụ dẫn chiếu để tìm ra phương án giải quyết các quan hệ phát sinh.

Ví dụ về một quy phạm xung đột:

Khoản 1 Điều 766 Bộ luật dân sự 2015 quy định: “Việc xác lập, thực hiện, thay đổi, chấm dứt quyền sở hữu tài sản, nội dung quyền sở hữu tài sản được xác định theo pháp luật của nước có tài sản”. Như vậy, xác định được tài sản ở nước nào sẽ áp dụng pháp luật nước đó.

2. Cấu trúc của một quy phạm xung đột

Phần phạm vi: là phần quy định quy phạm xung đột này được áp dụng cho loại quan hệ nào: đất đai, hôn nhân, thương mại, thừa kế,…

Phần hệ thuộc: là phần chỉ ra luật pháp nước nào sẽ được áp dụng để giải quyết quan hệ ở phần phạm vi.

Ví dụ: Điều 126 Luật Hôn nhân gia đình năm 2015: Trong việc kết hôn (phần phạm vi) giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài, mỗi bên sẽ tuân theo pháp luật nước mình (phần hệ thuộc) và kết hôn.

3. Phân loại quy phạm xung đột

Quy phạm xung đột một bên: Đây là quy phạm chỉ ra quan hệ dân sự này chỉ áp dụng luật pháp của một nước cụ thể.

Quy phạm xung đột hai bên (hai chiều) đây là những quy phạm đề ra nguyên tắc chung để cơ quan tư pháp có thẩm quyền lựa chọn áp dụng luật của một nước nào đó để điều chỉnh đối với quan hệ tương ứng.

Ví dụ: Khoản 2 Điều 766 BLDS quy định: “Quyền sở hữu đối với động sản trên đường vận chuyển được xác định theo pháp luật của nước nơi có động sản được chuyển đến”.

Xung Đột Pháp Luật Trong Tư Pháp Quốc Tế

Nhóm: Registered Gia nhập: 29-11-2016(UTC)Bài viết: 268Đến từ: Tp. Hồ Chí Minh

Thanks: 136 timesĐược cảm ơn: 81 lần trong 50 bài viết

Xung đột pháp luật là hiện tượng đặc thù của Tư pháp Quốc tế. Bài viết sẽ làm rõ Xung đột pháp luật là gì? Nguyên nhân và phạm vi của xung đột pháp luật?

I. Xung đột pháp luật là gì?

Xung đột pháp luật là hiện tượng pháp lý trong đó hai hay nhiều hệ thống pháp luật cùng tham gia vào điều chỉnh một quan hệ tư pháp quốc tế mà nội dung điều chỉnh trong mỗi hệ thống pháp luật sự khác nhau.

II. Nguyên nhân của xung đột pháp luật:

Do mỗi nước có điều kiện cơ sở hạ tầng khác nhau, bởi vậy pháp luật của các nước được xây dựng trên các nền tảng đó cũng có sự khác nhau. Đối với mỗi quốc gia sự phát triển kinh tế là khác nhau chính vì vậy dẫn đến các yếu tố về hệ thống pháp luật, chính trị là khác nhau; các nước đều có những quan điểm về chính trị, pháp quyền, đạo đức, tôn giáo… là khác nhau do đó cũng có sự khác biệt trong sự vận động của nền kinh tế

III. Phạm vi của xung đột pháp luật:

Xung đột pháp luật chỉ xảy ra trong các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài. Còn trong các lĩnh vực quan hệ pháp luật khác như hình sự, hành chính… không xảy ra xung đột pháp luật bởi vì theo Điều 678 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản như sau:

1. Việc xác lập, thực hiện, thay đổi, chấm dứt quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản được xác định theo pháp luật của nước nơi có tài sản, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.

2. Quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản là động sản trên đường vận chuyển được xác định theo pháp luật của nước nơi động sản được chuyển đến, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

Tuy nhiên quyền sở hữu trí tuệ lại có ngoại lệ theo Điều 679 Bộ luật Dân sự 2015 về Quyền sở hữu trí tuệ quy định:

Quyền sở hữu trí tuệ được xác định theo pháp luật của nước nơi đối tượng quyền sở hữu trí tuệ được yêu cầu bảo hộ.

Nhóm: Registered Gia nhập: 01-03-2017(UTC)Bài viết: 207

Cảm ơn: 44 lầnĐược cảm ơn: 89 lần trong 63 bài viết

Để giải quyết xung đột pháp luật thì thông thường có hai phương pháp là phương pháp xung đột và phương pháp thực chất. Tương ứng với đó là luật xung đột và luật thực chất. Tư pháp quốc tế tuy khó hiểu nhưng học thì rất hay.

1 người cảm ơn doantrinh cho bài viết.

Các Phương Pháp Giải Quyết Xung Đột Pháp Luật Trong Tư Pháp Quốc Tế

Xung đột pháp luật là hiện tượng pháp lý trong đó hai hay nhiều hệ thống pháp luật cùng tham gia vào điều chỉnh một quan hệ tư pháp quốc tế mà nội dung điều chỉnh trong mỗi hệ thống pháp luật sự khác nhau.

1. Lý luận chung về phương pháp giải quyết xung đột pháp luật trong tư pháp quốc tế

Mặc dù phương pháp xung đột có những hạn chế nhất định nhưng có thể nói phương pháp xung đột là phương pháp điều chỉnh chủ yếu của tư pháp quốc tế vì cả lý luận và thực tiễn đã chứng minh việc xây dựng quy phạm xung đột, kể cả quy phạm xung đột thống nhất trong các điều ước quốc tế là dễ dàng hơn việc xây dựng các quy phạm thực chất. Do đặc thù của tư pháp quốc tế là điều chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố nước vì thế trong tư pháp quốc tế cũng có những phương pháp đặc thù để điều chỉnh các quan hệ này. Chỉ có hai phương pháp là phương pháp thực chất và phương pháp xung đột được sử dụng để điều chỉnh trong Tư pháp quốc tế.

Phương pháp xung đột được xem là phương pháp chủ yếu và quan trọng nhất trong Tư pháp quốc tế vì xuất phát từ lý do về các điều kiện về lịch sử, dân tộc, trình độ phát triển và lợi ích… của các quốc gia còn có sự khác biệt thậm chí là khác xa nhau, vì vậy việc nhất thể hóa các quy phạm thực chất sẽ rất khó khăn nhưng thống nhất hóa các quy phạm xung đột thì lại dễ dàng hơn từ đó ta giải quyết các xung đột pháp luật một cách hữu hiệu và thực tế.

2. Phương pháp dùng quy phạm xung đột

Phương pháp dùng quy phạm xung đột bắt nguồn từ các công trình nghiên cứu của Friedrich Carl von Savigny, một nhà luật gia người Đức rất nổi tiếng và có ảnh hưởng lớn vào thế kỷ 18 trong giới luật gia với học thuyết “Luật của trái chủ”. Sau đó phương pháp này được sử dụng phổ biến để giải quyết xung đột trong tư pháp quốc tế và còn được gọi là “Luật xung đột” (Conflitct of laws) tại các nước theo hệ thống luật Anh – Mỹ. Phương pháp này được áp dụng chủ yếu và rộng rãi như một công cụ để thiết lập và bảo đảm trật tự pháp lý trong các quan hệ do tư pháp quốc tế điều chỉnh. Hiện nay phương pháp dùng quy phạm xung đột được sử dụng cả trong hệ thống Common Law hay hệ thống Civil Law.

Trước hết cần phải hiểu khái niệm về quy phạm xung đột. Quy phạm xung đột là quy phạm chỉ ra hệ thống pháp luật nào trong đó các hệ thống pháp luật đang xung đột được áp dụng để giải quyết quan hệ pháp luật có yếu tố nước ngoài trong từng trường hợp cụ thể.

Khác với các quy phạm pháp luật thông thường nói chung được cấu thành bởi ba bộ phận là giả định, quy định và chế tài, quy phạm xung đột về cơ cấu chỉ bao gồm hai bộ phận là phạm vi và lệ thuộc. Đây là hai bộ phận không thể thiếu trong mỗi quy phạm xung đột. Phần phạm vi là phần quy định mối quan hệ cụ thể nào chịu sự điều chỉnh của quy phạm xung đột. Phần hệ thuộc là phần quy định rõ luật nước nào sẽ được áp dụng để giải quyết xung đột trong mối quan hệ đã được nêu tại phần phạm vi.

3. Phương pháp thống nhất luật thực chất

Quy phạm pháp luật thực chất hay còn gọi là quy phạm thực chất là những quy phạm trực tiếp giải quyết các quan hệ pháp luật mang tính quốc tế, trực tiếp quy định quyền và nghĩa vụ cụ thể đối với các chủ thể tham gia các quan hệ này.

Thống nhất luật thực chất là việc các nước cùng nhau thỏa thuận xây dựng các quy phạm thực chất để điều chỉnh các quan hệ kinh doanh quốc tế. Thống nhất luật thực chất được tiến hành bằng cách ký kết các điều ước quốc tế song phương hoặc đa phương có hiệu lực đối với các nước thành viên.

Từ những thập kỷ 20 của thế kỷ XX đã xuất hiện rất nhiều điều ước thương mại quốc tế chứa đựng các quy phạm thực chất thống nhất ký kết và thực hiện như một xu hướng phát triển kinh tế tất yếu của thể giới. Một số điều ước quốc tế trong lĩnh vực mua bán hàng hóa quốc tế như Công ước La Haye năm 1964 về mua bán quốc tế các động sản hữu hình, Công ước của Liên hợp quốc tế về quốc tế (Công ước viên năm 1980).

Trước đây, Việt Nam có tham gia vào một điều ước quốc tế đa phương thống nhất luật thực chất về hợp đồng, đó là Điều kiện giao hàng chung được thông qua năm 1958 trong Khuôn khổ Hội đồng tương trợ kinh tế giữa các nước xã hội chủ nghĩa vào thời kỳ bấy giờ (khối SEV). Điều kiện giao hàng chung này được áp dụng một cách bắt buộc và tự động cho tất cả các hợp đồng mua bán giữa các doanh nghiệp thuộc các quốc gia của SEV. Nội dung của Điều kiện giao hàng chung là các quy phạm thực chất thống nhất, điều chỉnh các vấn đề về hợp đồng mua bán như thành lập hợp đồng, quyền và nghĩa vụ của các bên, vi phạm hợp đồng, các chế tài, bất khả kháng,… Khi Hội đồng tương trợ kinh tế tan rã vào năm 1991, Điều kiện giao hàng chung này cũng chấm dứt hiệu lực.

Phương pháp được xây dựng trên cơ sở hệ thống các quy phạm thực chất trực tiếp giải quyết các quan hệ dân sự quốc tế, điều này có ý nghĩa là nó trực tiếp phân định quyền và nghĩa vụ rõ ràng giữa các bên tham gia. Các quy phạm thực chất thống nhất trong các điều ước quốc tế, tập quán quốc tế.

– Các quy phạm thực chất thống nhất hiện nay chủ yếu có trong điều ước quốc tế về các lĩnh vực thương mại, hằng hải quốc gia hoặc các lĩnh vực quyền sở hữu công nghiệp: Công ước Becnơ 1886 về bảo vệ quyền tác giả; Công ước Viên 1980 về mua bán hàng hoá quốc tế.

– Các quy phạm thực chất trong luật của quốc gia ( luật quốc nội): quy phạm thực chất được quy định trong luật đầu tư, luật về chuyển giao công nghệ…

Ngoài ra trong trường hợp khi tư pháp quốc tế xảy ra không có quy phạm thực chất và quy phạm xung đột, vấn đề điều chỉnh quan hệ này được thực hiện dựa trên nguyên tắc luật điều chỉnh các quan hệ xã hội. Theo quan điểm chung hiện nay, trong trường hợp quan hệ tư pháp quốc tế xảy ra mà không có quy phạm thực chất thống nhất cũng như quy phạm xung đột nếu các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia quan hệ đó phát sinh trên cơ sở pháp luật nước nào thì áp dụng pháp luật nước đó trừ khi hậu quả của việc áp dụng đó trái với những nguyên tắc kể trên.

Tuy các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia phát triển, đã rất nỗ lực trong việc xây dựng các quy phạm thực chất thống nhất, nhưng nhìn chung, việc này thường khó khăn. Mặc dù có nhiều nỗ lực trong việc xây dựng các quy phạm thực chất thống nhất có hiệu lực áp dụng trên phạm vi quốc tế, nhưng phương pháp giải quyết xung đột pháp luật bằng cách sử dụng quy phạm xung đột vẫn là phương pháp được áp dụng phổ biến.

Tại Sao Lại Có Hiện Tượng Xung Đột Pháp Luật Trong Tư Pháp Quốc Tế

Tại sao lại có hiện tượng xung đột pháp luật trong tư pháp quốc tế – Bài tập cá nhân Tư pháp quốc tế 9 điểm

Mỗi quốc gia đều tự xây dựng cho mình một hệ thống pháp luật riêng nhằm khẳng định chủ quyền cũng như bảo vệ quyền lợi cho công dân nước mình.. Tuy nhiên, giữa các hệ thống pháp luật này luôn có sự khác nhau, thậm trí là trái ngược nhau do nhiều nguyên nhân. Trong xu thế hội nhập toàn cầu hiện nay, ít hay nhiều các quốc gia sẽ xích lại gần nhau để cùng hợp tác và phát triển . Ở đó, xung đột pháp luật xảy ra khi hai hay nhiều HTPL đồng thời đều có thể áp dụng đề điều chỉnh một QHPL nào đó. Trong phạm vi bài viết này, em xin làm rõ vấn đề: “Tại sao lại có hiện tượng xung đột pháp luật trong tư pháp quốc tế ?”.

NỘI DUNG 1. Khái niệm xung đột pháp luật trong TPQT

Hiện tượng pháp luật của hai hay nhiều nước khác nhau cùng có thể được áp dụng để điều chỉnh các mối quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài được gọi là hiện tượng xung đột pháp luật.

2. Nguyên nhân làm phát sinh hiện tượng xung đột pháp luật:

Quan hệ dân sự, hôn nhân gia đình, lao động, thương mại và tố tụng dân sự có yếu tố nước ngoài không được điều chỉnh bằng quy phạm thực chất thống nhất.

Việc xây dựng và hình thành các quy phạm thực chất thống nhất của các quốc gia khác nhau là rất cần thiết, nó làm giảm hoặc thậm chí triệt tiêu sự khác biệt trong luật pháp của các quốc gia và có tính chất đơn giản hóa và hữu hiệu hóa trong điều chỉnh các quan hệ Tư pháp quốc tế. Trong những trường hợp nhất định nếu cứ áp dụng luật trong nước để điều chỉnh thì rất khó giải quyết và thậm chí có trường hợp không thể giải quyết nổi, trong khí đó các điều ước quốc tế mà trong đó có các quy phạm thực chất thống nhất, cơ quan có thẩm quyền giải quyết cũng như các bên tham gia quan hệ Tư pháp quốc tế sẽ chiếu theo đó để xem xét và giải quyết thực chất vấn đề trên cơ sở áp dụng ngay các quy phạm đó. Nó cũng loại trừ việc phải chọn luật và áp dụng luật nước ngoài nữa, mà áp dụng ngay các quy phạm điều ước đó.

Có thể nói, quy phạm thực chất đóng vai trò quan trọng trong việc hạn chế những xung đột pháp luật giữa các nước, nó là căn cứ pháp lý chung để các quốc gia làm căn cứ giải quyết vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài. Chính vì vậy, khi các quan hệ dân sự, hôn nhân gia đình, lao động, thương mại và tố tụng dân sự có yếu tố nước ngoài không được điều chỉnh bằng quy phạm thực chất sẽ dẫn đến những xung đột pháp luật giữa các quốc gia.

Có sự khác nhau về nội dung trong pháp luật của các nước; hoặc có sự khác nhau trong việc giải thích và áp dụng những quy định giống nhau về mặt hình thức.

Sự phát triển về mặt kinh tế, chính trị, xã hội tạo ra những khác biệt trong quy định của pháp luật các nước, hay nói cách khác chính những sự khác biệt này các quốc gia sẽ phải xây dựng cho mình hệ thống pháp luật phù hợp với những quan hệ đó nhằm điều chỉnh xã hội. Ví dụ: tuổi kết hôn, theo luật pháp Việt Nam là nam từ 20 tuổi trở lên, nữ từ 18 tuổi trở lên thì mới có quyền kết hôn. Trong khi tại Pháp độ tuổi này là 18 không phân biệt nam hay nữ. Như vậy nếu một công dân nam Việt Nam 19 tuổi muốn kết hôn cùng 1 công dân nữ Pháp 18 tuổi, họ có thể đăng ký kết hôn tại Pháp, nhưng khi có tranh chấp phát sinh trong quan hệ hôn nhân diễn ra tại Việt Nam thì mối quan hệ hôn nhân này có thể không được toà án Việt Nam công nhận. Trong ví dụ trên, mặc dù cùng điều chỉnh nhóm quan hệ trong lĩnh vực hôn nhân nhưng giữa pháp luật Việt nam và Pháp về tuổi kết hôn, nhưng nội dung trong quy định lại có sự khác nhau trong việc xác định độ tuổi có quyền kết hôn. Có thể nói, mặc dù cùng điều chỉnh chung một vấn đề nhưng nội dung trong pháp luật của các nước có quy định khác nhau, chính điều này đã tạo nên xung đột pháp luật giữa các nước.

III. KẾT LUẬN

Do sự khác biệt giữa các nước về kinh tế, chính trị, xã hội: theo quan điểm của triết học Mác – Leenin, giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng có mối quan hệ biện chứng với nhau. Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng, kiến trúc thượng tầng có sự tác động trở lại cơ sở hạ tầng. Do đó, đối với mỗi quốc gia sự phát triển kinh tế là khác nhau chính vì vậy dẫn đến các yếu tố về hệ thống pháp luật, chính trị là khác nhau; các nước đều có những quan điểm về chính trị, pháp quyền, đạo đức, tôn giáo… là khác nhau do đó cũng có sự khác biệt trong sự vận động của nền kinh tế. Nếu nền kinh tế phát triển kéo theo cả một hệ thống pháp luật được xây dựng hoàn thiện, phát triền và ngược lại nếu nền kinh tế lạc hậu, kém phát triển thì hệ thống pháp luật cũng có những yếu kém, hạn chế nhất định. sự dung hòa trong việc giải quyết các vấn đề phát sinh trong quan hệ tư pháp quốc tế có thể được giải quyết nếu các nước có sự phát triển tương đương về mặt kinh tế, xã hội. Chính những sự khác biệt về kinh tế, chính trị, xã hội đã tạo ra một rào cản trong việc áp dụng pháp luật để giải quyết chung một vấn đề phát sinh giữa các nước.

Sự hợp tác quốc tế về mọi mặt giữa các quốc gia là hiện thực tất yếu khách quan trong mọi thời đại, nhất là trong xu thế hội nhập toàn cầu hóa hiện nay. Tìm hiểu về nguyên nhân xảy ra xung đột góp phần lựa phương pháp giải quyết phù hợp. Việt Nam, một quốc gia đang trên đà phát triển cũng không nằm ngoài xu hướng đó. Xét về cơ sở lý luận cũng như thực tiễn, TPQT ở các quốc gia khác nhau còn có nhiều sự khác biệt, điều này tạo ra những rào cản, hạn chế sự giao lưu, hợp tác giữa các quốc gia. Do đó, TPQT Việt Nam cần không ngừng củng cố và hoàn thiện hơn nữa, nhất là với việc xây dựng ra một phương pháp giải quyết XĐPL khách quan, hợp lý.