Top 11 # Xem Nhiều Nhất Xuất Xứ Văn Bản Kiều Ở Lầu Ngưng Bích Mới Nhất 6/2023 # Top Like | Athena4me.com

Kiều Ở Lầu Ngưng Bích

Nguyễn Du sinh năm 1765 mất năm 1820.

Tên chữ là Tố Như, hiệu Thanh Hiên.

Quê quán: làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.

Cuộc đời

Ông sinh trưởng trong gia đình đại quý tộc có truyền thống khoa bảng và sáng tạo nghệ thuật.

Ông sống trong thời đại đau khổ, bế tắc và nhiều biến động.

Ông là người có hiểu biết sâu rộng, có vốn sống phong phú, Nguyễn Du đã sống nhiều năm lưu lạc tiếp xúc với nhiều cảnh đời và thân phận con người trong thời đại loạn lạc, dâu bể.

Sự nghiệp văn học của Nguyễn Du rất phong phú và đồ sộ.

Ông có ba tập thơ chữ Hán với 243 bài, sáng tác chữ Nôm xuất sắc nhất là “Truyện Kiều”.

Đoạn trích được trích trong tác phẩm Truyện Kiều, được viết bằng chữ Nôm.

Đoạn trích nằm ở phần hai (Gia biến và lưu lạc).

Sau khi biết mình bị lừa vào chốn lầu xanh, Kiều uất ức định tự vẫn. Tú Bà vờ hứa hẹn đợi bà bình phục sẽ gả chồng cho nàng vào nơi tử tế, rồi đưa Kiều ra giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, đợi thực hiện âm mưu mới.

Văn bản được bố cục thành ba phần.

Phần 1: 6 câu đầu: Hoàn cảnh cô đơn của Kiều.

Phần 2: 8 câu còn lại: Nỗi nhớ của Kiều

Phần 3: Còn lại: Tâm trạng của Thúy Kiều.

Không gian: Lầu Ngưng Bích.

Thời gian: Mây sớm, đèn khuya, trăng.

Cảnh vật

Non xa – trăng gần.

Mây – đèn.

Cồn cát nọ – bụi hồng kia.

Bốn bề bát ngát.

⇒ Nghệ thuật liệt kê, đối lập làm cho cảnh vật hiện ra bộn bề, bát ngát mênh mông đối lập với lòng người cô đơn trống vắng nơi đất khách quê người.

Câu thơ “nửa tình“: vẻ đẹp trước lầu Ngưng Bích đã được nàng gửi gắm và tình cảm nhớ quê hương. Lúc này tình cảm và cảnh vật cứ đan xen,hoà trộn làm cho tâm trạng bẽ bàng, sầu tủi.

⇒ Cảnh vật dưới cái nhìn của Kiều được hiện ra đẹp nhưng đượm buồn.

Nhớ người yêu.

Nhớ cha mẹ.

Nỗi nhớ Kim Trọng.

Nhớ đêm thề nguyện với Kim Trọng dưới đêm trăng.

Hình dung Kim Trọng nơi xa xôi đang mong chờ tin tức. Kiều cảm thấy mình có lỗi.

“Tấm son gột rửa“: động từ mạnh “gột rửa” diễn tả tấm lòng thuỷ chung, mối tình đầu đẹp đẽ không thể gột rửa được cho dù nàng muốn lãng quên nó đi.

⇒ Tác giả dùng từ chọn lọc diễn tả nỗi nhớ người yêu đau đáu, da diết, đầy cảm động.

Nỗi nhớ cha mẹ.

“xót“: xót thương cha mẹ ngày ngày “tựa cửa” ngóng tin con.

“Quạt nồng ấp lạnh“: lo cho cha mẹ, thương cha mẹ già yếu mà mình không được chăm sóc. Kiều tự trách mình không chu đáo.

Điển tích “Sân Lai” để nói đến tấm lòng hiếu thảo của Kiều chỉ biết lo cho người khác mà không nghĩ đến mình.

⇒ Kiều là người thuỷ chung, hiếu thảo, vị tha.

Điệp ngữ: “buồn trông” 4 lần, kết hợp một hệ thống từ láy và đặc biệt là mỗi cặp câu thơ là một cảnh vật.

Cảnh vật: hình ảnh cánh buồm “xa xa” thấp thoáng nơi cửa bể chiều hôm gợi cảnh đời lưu lạc nơi chân trời góc bể, nỗi nhớ quê hương da diết.

Cảnh vật: cánh hoa trôi man mác gợi lên số phận lênh đênh vô định của Kiều.

Cảnh vật: nội cỏ rầu rầu gợi về một tương lai mờ mịt trong xã hội phong kiến suy tàn không lối thoát mà thân phận nhỏ bé của con người không biết làm sao đây.

Cảnh vật: “gió cuốn mặt duềnh“, “ầm ầm tiếng sóng” kêu gợi tâm trạng hãi hùng, lo sợ trước số phận, cuộc sống đang đe doạ bủa vây xung quanh nàng.

Nghệ thuật: vần bằng, hệ thống từ láy tạo nên nỗi buồn tầng tầng lớp lớp.

Miêu tả cảnh vật từ xa đến gần diễn tả tâm trạng từ chỗ nhớ quê hương, người thân đến lo buồn cho tương lai, sợ hãi, rùng rợn cho số phận của mình.

⇒ Với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, tác giả xây dựng một bức tranh tâm trạng đặc sắc nhất, hay nhất của Truyện Kiều: nỗi buồn đau của Kiều như lan toả sang cảnh vật đã xâm chiếm lòng nàng.

Ghi chú:

Nội dung: Đoạn thơ thể hiện tâm trạng cô đơn, buồn tủi và tấm lòng thủy chung, hiếu thảo của Thúy Kiều.

Nghệ thuật: Miêu tả nội tâm nhân vật, diễn biến tâm trạng được thể hiện qua ngôn ngữ độc thoại.

Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đặc sắc.

Điệp ngữ.

Ôn Tập Văn Bản “Kiều Ở Lầu Ngưng Bích”

Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung.

Bốn bề bát ngát xa trông,

Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia.

Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,

Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.

Tưởng người dưới nguyệt chén đồng,

Tin sương luống những rày trông mai chờ.

Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.

Xót người tựa cửa hôm mai,

Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ ?

Sân Lai cách mấy nắng mưa,

Có khi gốc tử đã vừa người ôm.

Buồn trông cửa bể chiều hôm,

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa.

Buồn trông ngọn nước mới ra.

Hoa trôi man mác biết là về đâu?

Buồn trông ngọn cỏ rầu rầu,

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.

Đoạn trích nằm ở phần thứ hai Gia biến và lưu lạc. Sau khi bị Mã Giám Sinh lừa gạt, làm nhục, bị Tú bà mắng nhiếc, Kiều nhất quyết không chịu tiếp khách làng chơi, không chịu chấp nhận cuộc sống lầu xanh. Đau đớn, phẫn uất, tủi nhục nàng định tự vẫn. Tú bà sợ mất vốn bèn lựa lời khuyên giải, dụ dỗ Kiều. Mụ vờ chăm sóc thuốc thang, hứa hẹn khi nàng bình phục sẽ gả nàng cho người tử tế. Tú bà đưa Kiều ra sống riêng ở lầu Ngưng Bích, thực chất là giam lỏng nàng để thực hiện âm mưu mới đê tiện hơn, tàn bạo hơn.

+ Sáu câu đầu : hoàn cảnh cô đơn, tội nghiệp của Kiều.

+ Tám câu tiếp : nỗi thương nhớ Kim Trọng và thương nhớ cha mẹ của nàng.

+ Tám câu cuối : tâm trạng đau buồn, âu lo của Kiều thể hiện qua cách nhìn cảnh vật.

Giá trị nghệ thuật: nghệ thuật miêu tả nội tâm đặc sắc, bút pháp tả cảnh ngụ tình hay nhất trong “Truyện Kiều”.

– Khoá xuân: khoá kín tuổi xuân, ý nói cấm cung (con gái nhà quyền quý ngày xưa không được ra khỏi phòng); ở đây nói việc Kiều bị giam lỏng.

– Tấm son: tấm lòng son, chỉ tấm lòng thuỷ chung gắn bó.

– Duyềnh (cũng gọi là doành): vụng (vũng) sông hoặc vụng biển.

– Kiều ở lầu Ngưng Bích thực chất là bị giam lỏng ( khoá xuân).

– Nàng trơ trợi giữa một không gian mênh mông, hoang vắng: ” bốn bề bát ngát xa trông“. Cảnh “non xa“, “trăng gần” gợi hình ảnh lầu Ngưng Bích đơn độc, chơi vơi giữa mênh mông trời nước. Từ trên lầu cao nhìn ra chỉ thấy những dãy núi mờ xa, những cồn cát bụi bay mù mịt. Cái lầu trơ trọi ấy giam một thân phận trơ trọi, không một bóng hình thân thuộc bầu bạn, không cả bóng người.

Hình ảnh “non xa” “trăng gần”, “cát vàng”, “bụi hồng” có thể là cảnh thực mà cũng có thể là hình ảnh mang tính ước lệ để gợi sự mênh mông, rợn ngợp của không gian, qua đó diễn tả tâm trạng cô đơn của Kiều.

– Cụm từ ” mây sớm đèn khuya” gợi thời gian tuần hoàn, khép kín. Tất cả như giam hãm con người, như khắc sâu thêm nỗi cô đơn khiến Kiều càng bẽ bàng, chán ngán, buồn tủi “bẽ bàng mây sớm đèn khuya” sớm và khuya, ngày và đêm, Kiều ” thui thủi quê người một thân” và dồn tới lớp lớp những nỗi niềm chua xót đau thương khiến tấm lòng Kiều như bị chia xẻ: ” Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng “. Vì vậy, dù cảnh có đẹp đến mấy, tâm trạng Kiều cũng không thể vui được.

Tâm trạng nhớ thương Kim Trọng và thương nhớ cha mẹ của Kiều qua ngôn ngữ độc thoại nội tâm:

* Cùng là nỗi nhớ nhưng cách nhớ khác nhau với những lý do khác nhau nên cách thể hiện cũng khác nhau:

+ Nhớ Kim Trọng: Kiều “tưởng” như thấy lại kỷ niệm thiêng liêng đêm thề nguyện, đính ước ” Tưởng người dưới nguyệt chén đồng“. Cái đêm ấy hình như mới ngày hôm qua. Một lần khác nàng nhớ về Kim Trọng cũng là ” Nhớ lời nguyện ước ba sinh“. Kiều xót xa hình dung người yêu vẫn chưa biết tin nàng bán mình, vẫn ngày đêm mòn mỏi chờ trông chốn Liêu Dương xa xôi. Nàng nhớ người yêu với tâm trạng đau đớn: ” Tấm son gột rửa bao giờ cho phai“. Có lẽ “tấm son” ấy là tấm lòng Kiều son sắt, thuỷ chung, không nguôi nhớ thương Kim Trọng. Cũng có thể là Kiều đang tủi nhục khi tấm lòng son sắt đã bị dập vùi, hoen ố, không biết bao giờ mới gột rửa cho được. Trong nỗi nhớ chàng Kim có cả nỗi đau đớn vò xé tâm can.

+ Nhớ cha mẹ: nàng thấy “xót” khi tưởng tượng, ở chốn quê nhà, cha mẹ nàng vẫn tựa cửa ngóng chờ tin tức người con gái yêu. Nàng xót thương da diết và day dứt khôn nguôi vì không thể ” quạt nồng ấp lạnh“, phụng dưỡng song thân, băn khoăn không biết hai em có chăm sóc cha mẹ chu đáo hay không. Nàng tưởng tượng nơi quê nhà tất cả đã đổi thay, gốc tử đã vừa người ôm, cha mẹ ngày thêm già yếu. Cụm từ ” cách mấy nắng mưa” vừa cho thấy sự xa cách bao mùa mưa nắng, vừa gợi được sự tàn phá của thời gian, của thiên nhiên lên con người và cảnh vật. Lần nào nhớ về cha mẹ, Kiều cũng ” nhớ ơn chín chữ cao sâu ” và luôn ân hận mình đã phụ công sinh thành, phụ công nuôi dạy của cha mẹ.

: Bút pháp tả cảnh ngụ tình của Nguyễn Du trong 8 câu cuối “Kiều ở lầu Ngưng Bích”: Nghệ thuật tử cảnh ngụ tình:

– Đây là 8 câu thơ thực cảnh mà cũng là tâm cảnh. Mỗi biểu hiện của cảnh đồng thời là một ẩn dụ về tâm trạng của người – mỗi một cảnh lại khơi gợi ở Kiều những nỗi buồn khác nhau, với những lý do buồn khác nhau trong khi nỗi buồn đã đầy ắp tâm trạng để rồi tình buồn lại tác động vào cảnh, khiến cảnh mỗi lúc lại buồn hơn, nỗi buồn mỗi lúc một ghê gớm, mãnh liệt hơn.

– Cách sử dụng ngôn ngữ độc thoại, điệp ngữ. Bốn bức tranh, bốn nỗi buồn đều được tác giả khắc hoạ qua điệp từ “buồn trông” đứng đầu mỗi câu có nghĩa là buồn mà trông ra bốn phía, trông ngáng một cái gì mơ hồ sẽ đến làm thay đổi hiện tại, nhưng trông mà vô vọng. “Buồn trông” có cái thảng thốt lo âu, có cái xa lạ bút tầm nhìn, có cả dự cảm hãi hùng của người con gái ngây thơ lần đầu lại bước giữa cuộc đời ngang ngược. Điệp ngữ “buồn trông” kết hợp với các hình ảnh đứng sau đã diễn tả nỗi buồn với nhiều sắc độ khác nhau. Điệp ngữ lại được kết hợp với các từ láy chủ yếu là những từ láy tượng hình, dồn dập, chỉ có một từ láy tượng thanh ở câu cuối tạo nên nhịp điệu, diễn tả nỗi buồn ngày một tăng, dâng lên lớp lớp, nỗi buồn vô vọng, vô tận. Điệp ngữ tạo âm hưởng trầm buồn, trở thành điệp khúc của đoạn thơ cũng là điệp khúc của tâm trạng.

Một cánh buồm thấp thoáng nơi cửa biển

Những cánh hoa tàn lụi trôi man mác trên ngọn nước mới xa

, còn đâu cái “xanh tận chân trời” như sác cỏ trong tiết Thanh minh khi Kiều còn trong cảnh đầm ấm. Màu xanh này gợi cho Kiều một rầu rầu”, “xanh xanh” – sắc xanh héo úa, mù mịt, nhạt nhoà trải dài từ chân mây đến mặt đất nỗi chán ngán, vô vọng vì cuộc sống cô quạnh và những chuỗi ngày vô vị, tẻ nhạt không biết kéo dài đến bao giờ.

Dường như nỗi buồn càng lúc càng tăng, càng dồn dập. Một cơn “gió cuốn mặt duềnh” làm cho tiếng sóng bỗng nổi lên ầm ầm như vây quanh ghế Kiều ngồi. Cái âm thanh “ầm ầm tiếng sóng” ấy chính là âm thanh dữ dội của cuộc đời phong ba bão táp đã, đang ập đổ xuống đời nàng và còn tiếp tục đè nặng lên kiếp người nhỏ bé ấy trong xã hội phong kiến cổ hủ, bất công. Tất cả là đợt sóng đang gầm thét, rì rào trong lòng nàng. Lúc này Kiều không chỉ buồn mà còn lo sợ, kinh hãi như rơi dần vào vực thẳm một cách bất lực. Nỗi buồn ấy đã dâng đến tột đỉnh, khiến Kiều thực sự tuyệt vọng. Thiên nhiên chân thực, sinh động nhưng cũng rất ảo. Đó là cảnh được nhìn qua tâm trạng theo quy luật ” Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu – Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ“.

– Cảnh được miêu tả từ xa đến gần, màu sắc từ nhạt đến đậm, âm thanh từ tĩnh đến động để diễn đạt nỗi buồn từ man mác, mông lung đến lo âu, kinh sợ, dồn đến bão táp nội tâm cực điểm của cảm xúc trong lòng Kiều. Tờt cả là hình ảnh về sự vô định, mong manh, sự dạt trôi bế tắc, sự chao đảo, nghiêng đổ dữ dội. Lúc này Kiều trở nên tuyệt vọng, yếu đuối nhất. Cũng vì thế mà nàng đã mắc lừa Sở Khanh để rồi dấn thân vào cuộc đời ” thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần“.

Cảnh thiên nhiên là cái cớ để tác giả bộc lộ cảm xúc của mình.

(Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” – Truyện Kiều).

B. Luyện tập viết đoạn:

a. Hãy chép bảy câu thơ tiếp theo để hoàn thành khổ thơ trên.

b. Đoạn thơ vừa chép diễn tả tâm trạng của ai với ai ?

c. Trật tự diễn tả tâm trạng đó có hợp lý không? Tại sao?

d. Viết một đoạn văn ngắn khoảng 10 câu, theo cách diễn dịch phân tích tâm trạng của nhân vật tr ữ tình trong đoạn thơ trên.

a. Chép chính xác 7 câu thơ tiếp theo để hoàn thành khổ thơ.

b. Đoạn thơ diễn tả tâm trạng nhớ thương Kim Trọng và cha mẹ của Kiều trong những ngày sống cô đơn ở lầu Ngưng Bích.

c. Trật tự diễn tả tâm trạng của Kiều: Nhớ Kim Trọng trước cha mẹ đặt trong cảnh ngộ Kiều lúc đó là rất hợp lý vì:

Vầng trăng ở câu thứ 2 trong đoạn trích gợi nhớ tới lời thề đính ước với Kim Trọng.

Đau đớn xót xa vì mối tình đầu đẹp đẽ tan rã.

Cảm thấy mình có lỗi khi không giữ được lời hẹn ước với chàng Kim.

Với cha mẹ, Kiều đã phần nào làm trong chữ hiếu: bán mình để cứu cha và em → cách diễn tả này thể hiện sự tinh tế của ngòi bút Nguyễn Du và người đọc thấy được sự cảm thông của tác giả đối với nhân vật

d.Nội dung viết đoạn (Xem ở dàn ý phân tích).

Nhận xét về đoạn trích Bài tập 2 : Kiều ở lầu Nhưng Bích, có ý kiến cho rằng: Ngòi bút của Nguyễn Du hết sức tinh tế, cảnh không chỉ đơn thuần là bức tranh thiên nhiên mà còn là bức tranh tâm trạng. Mỗi biểu hiện của cảnh phù hợp với từng trạng thái của tình.

Hãy viết 1 đoạn văn từ 10-12 câu, phân tích 8 câu thơ cuối của đoạn trích để làm sáng tỏ nhận xét trên.

Chỉ ra một phép liên kết nối, một phép thế sử dụng trong đoạn trên.

Cảnh không chỉ đơn thuần là bức tranh thiên nhiên mà còn là bức tranh tâm trạng, đó chính là bút pháp nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đặc sắc của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du được thể hiện ở 8 câu thơ cuối của đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích. Cảnh cửa bể chiều hôm gợi ra khoảng thời gian đã cuối ngày rồi, khi đó cũng là lúc các gia đình quây quần bên nhau, nhưng đối lập với đó, lại một mình cô đơn giữa không gian rừng núi, biển cả bao la. Lúc này, Kiều buồn tủi biết mấy, nàng muốn theo những cánh buồn xa xa kia đi xa mãi, xa mãi trở về với quê hương, gia đình yêu dấu của mình mà không thể nào được, điều ước vẫn chỉ là điều ước mà thôi. lại nhìn cánh hoa mỏng manh trôi man mác, cứ nổi lên lại ngụp xuống giữa ngọn nước mới sa để rồi chợt lo lắng cho số phận của mình liệu có như cánh hoa nhỏ bé kia biết trôi dạt về đâu giữa bao sóng gió cuộc đời giữa cái chốn lầu xanh dơ bẩn này. chính cuộc sống hiện tại khi biết mình bị lừa làm gái lầu xanh, rồi còn bị Tú Bà giảm ở lầu Ngưng Bích, chờ đợi được gả một tấm chồng theo lời hứa của Tú Bà đã làm Kiều rất chán ghét. Cái màu xanh bàng bạc, gần như sắp lụi tàn héo úa của nội cỏ rầu rầu đã thể hiện rất rõ tâm trạng này, dù hiện tại đã buồn chán nhưng nhìn về tương lai của đám cỏ ấy cũng như tương lai của Kiều càng tuyệt vọng, u ám hơn thế, nó chỉ là một màu xanh xanh héo úa, ảm đạm bởi giờ đây nàng sống không có mục đích, không có cả con đường tới tương lai thì mới vô vọng làm sao! nàng chợt hốt hoảng giật mình bởi tiếng sóng ầm ầm, đánh rất mạnh, càng làm chông chênh thêm vị trí của mình đang ngồi. Tới đây nỗi lo lắng, sợ hãi của Kiều đã lên tới tột cùng bởi tiếng sóng ấy có khác nào tiếng sóng dữ dội, ập tới cuộc đời Kiều và báo trước tương lai đầy biến đọng của nàng, mà như sau này ta đã biết là thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần đầy những sóng gió, gian nan vất vả. , qua bút pháp tả cảnh ngụ tình ta hiểu được tâm trạng cô đơn, buồn tụi và thấy thương xót cho thân phận của Kiều và cảm nhận được tình yêu thương con người sâu sắc của đại thi hào của Nguyễn Du.

Phép nối: và, rồi, tóm lại

Phếp thế: Kiều – nàng (bài làm học sinh )

Kiều Ở Lầu Ngưng Bích (Trích Truyện Kiều)

Em hãy tìm hiểu cảnh thiên nhiên trong sáu câu thơ đầu:

– Đặc điểm của không gian trước lầu Ngưng Bích (chú ý không gian mở ra theo chiều rộng, chiều xa, chiều cao qua cái nhìn của nhân vật).

– Thời gian qua cảm nhận của Thúy Kiều (chú ý hình ảnh trăng, “mây sớm đèn khuya”).

– Qua khung cảnh thiên nhiên có thể thấy Thúy Kiều đang ở trong hoàn cảnh, tâm trạng như thế nào? Từ ngữ nào góp phần diễn tả hoàn cảnh và tâm trạng ấy?

Trả lời:

– Hai chữ “khóa xuân” cho thấy Kiều ở lầu Ngưng Bích thực chất là bị giam lỏng.

– Câu thơ sáu chữ, chữ nào cũng gợi lên sự rợn ngợp của không gian: “Bốn bề bát ngát xa trông”. Cảnh “non xa”, “trăng gần” như gợi lên hình ảnh lầu Ngưng Bích chơi vơi giữa mênh mang trời nước.

– Cụm từ “mây sớm đèn khuya” gợi thời gian tuần hoàn, khép kín.

Câu 2 (Trang 95 SGK ngữ văn 9 tập 1)

Tám câu thơ tiếp theo trực tiếp nói lên nỗi nhớ thương của Kiều.

a) Trong cảnh ngộ của mình nàng đã nhớ tới ai? Nàng nhớ ai trước, ai sau? Nhớ như thế có hợp lí không, vì sao?

b) Cùng là nỗi nhớ nhưng lại là cách nhớ khác nhau với những lí do khác nhau nên thể hiện cũng khác nhau. Em hãy phân tích việc dùng từ ngữ, hình ảnh của tác giả để làm sáng tỏ điều đó.

c) Em có nhận xét gì về tấm lòng Thúy Kiều qua nỗi nhớ thương của nàng?

Trả lời:

– Đầu tiên Kiều nhớ tới Kim Trọng. Điều này vừa phù hợp với quy luật tâm lí, vừa thể hiện sự tinh tế của ngòi bút Nguyễn Du.

– Tiếp đó Kiều nhớ đến cha mẹ. Nghĩ tới song thân, Kiều thương và xót. Nàng thương cha mẹ khi sáng, khi chiều tựa cửa ngóng tin con, trông mong sự đỡ đần. Nàng xót xa lúc cha mẹ tuổi già sức yếu mà nàng không được tự tay chăm sóc và hiện thời ai người trông nom.

Câu 3 (Trang 96 SGK ngữ văn 9 tập 1)

Tám câu thơ cuối miêu tả cảnh vật qua tâm trạng.

a) Cảnh là thực hay hư? Mỗi cảnh vật có nét riêng đồng thời lại có nét chung để diễn tả tâm trạng Kiều. Em hãy phân tích và chứng minh điều đó.

b) Em có nhận xét gì về cách dùng điệp ngữ của Nguyễn Du trong tám câu thơ cuối? Cách dùng điệp ngữ ấy góp phần diễn tả tâm trạng như thế nào?

Trả lời:

Đúng là cảnh lầu Ngưng Bích được nhìn qua tâm trạng Kiều: cảnh từ xa đến gần, màu sắc từ nhạt đến đậm, âm thanh từ tĩnh đến động, nỗi buồn từ man mác, mông lung đến lo âu, kinh sợ. Ngọn gió cuốn mặt duềnh và tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi là cảnh tượng hãi hùng, như báo trước dông bão của số phận sẽ nổi lên, xô đẩy, vùi dập cuộc đời Kiều.

Câu 1 – Luyện tập (Trang 96 SGK ngữ văn 9 tập 1)

Thế nào là nghệ thuật tả cảnh ngụ tình? Phân tích nghệ thuật tả cảnh ngụ tình trong tám câu thơ cuối (“Buồn trông cửa bể chiều hôm… Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”).

Trả lời:

Tả cảnh ngụ tình là một bút pháp đặc trưng của văn học trung đại nói chung, của ngòi bút Nguyễn Du nói riêng với cơ chế là tả cảnh thông qua đó để bộc lộ tâm trạng con người, tả cảnh để nói tình chứ không chỉ là bức tranh tả cảnh thuần túy.

– Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình trong tám câu thơ cuối:

→ Cảnh vật ở tám câu thơ cuối được nhìn qua con mắt của Thúy Kiều nên nhuốm màu tâm trạng rõ rệt.

Bạn đang học lớp?

Phân Tích: Kiều Ở Lầu Ngưng Bích ( Truyện Kiều )

Ngoài đoạn trích Cảnh ngày xuân miêu tả cái đẹp của mùa xuân thì đến đoạn trích này, các ban sẽ thấy một hình ảnh Kiều với thật nhiều những suy nghĩ tâm tư tình cảm.

KIỀU Ở LẦU NGƯNG BÍCH đáng thương thay cho số phận của Kiều. Hồng nhan mà bạc mệnh

A/ Tìm hiểu khái quát:

1/tác giả: Nguyễn Du. 2/ Văn bản: Kiều ở lầu Ngưng Bích a) Xuất xứ: Trích từ Truyện Kiều Của Nguyễn Du Vị trí nằm ở phần 2 của truyện Kiều ( Gia biến và lưu lạc) b) Thể loại: Thơ c) Nội dung:Tả cảnh nơi lầu Ngưng Bích và tâm trạng cô đơn, buồn khổ, nhớ nhà, nhớ người yêu của Kiều . d) Bố cục 3 phần -Phần I: 6 câu đầu: Thể hiện hoàn cảnh cô đơn tội nghiệp của Thuý Kiều. -Phần II: 8 câu sau: Thể hiện nỗi thương nhớ của nàg về Kim Trọng và về cha mẹ. -Phần III: 8 câu cuối: Thể hiện tâm trạng đau buồn , âu lo của Thuý Kiều.

B-trả lời câu hỏi

1/ Hoàn cảnh cô đơn của Kiều: Sáu câu đầu là bức tranh thiên nhiên tại lầu Ngưng Bích . Gợi tả hòan cảnh cô đơn của Kiều Trước hết là hình ảnh bị giam lỏng : “Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân”. Khóa xuân là khóa kín tuổi xuân, ý nói là bị cấm cung. Hai chữ cấm cung cho thấy Kiều bị giam trong lầu Ngưng Bích như co gái bị cấm cung . Nàng trơ trọi giữa một khung cảnh thiên nhiên vắng lặng, heo hút , không một bóng người : “Vẻ non xa tấm trăng gần soi chung. Bốn bề bát ngát xa trông, Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia”. Câu thơ “Bốn bề bát ngát xa trông” như mở ra trước mắt Kiều một không gian rợn ngợp. Từ lầu cao nhìn ra là những dãy núi bát ngát điệp trùng xa mờ và mảnh trăng gần gũi như sắp chạm đầu. Trước mắt nàng là cảnh vật bốn bề xa trông bát ngát, bên thì từng đụn cát vàng nhấp nhô như sóng lượn , bên thì những đám bụi hồng trải khắp dặm xa. Cảnh thiên nhiên mênh mông hoang vắng đó càng làm nổi bật hơn nỗi niềm cô đơn, buồn tủi của Kiều khiến nàng thêm bẻ bàng chua xót : “Bẽ bàng mây sớm đèn khuya. Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng” Cụm từ “mây sớm đèn khuya” là từ thời gian khép kín. Khuya và sớm, đêm và ngày Kiều lẻ loi trơ trọi chỉ biết làm bạn với mây và đèn . Có thể nói đây là lúc nàng cô đơn tuyệt đối.

2/ Tâm trạng Thúy Kiều : Trong xúc cảm, trước hết, nàng nhớ đến Kim Trọng. Nàng hình dung ra người yêu đang sầu tư ngóng đợi. Có lẽ hơn lúc nào hết, trong lúc này, Kiều thương Kim Trọng vô hạn. Trong tình thương ấy có một chút ân hận ,nàng cảm thấy như mình có lỗi với chàng. Để chàng phải ngày đêm trông ngóng, đau khổ, mòn mõi “rày trông mai chờ”, Kiều xót xa, ân hận như một kẻ phụ tình. “Tưởng người dưới nguyệt chén đồng. Tin sương luống những rày trông mai chờ”. Càng thương nhớ người yêu , càng tiếc nuối mối tình đầu không trọn vẹn, Kiều càng thấm thía tình cảnh bơ vơ nơi đất khách quê người của mình và càng hiểu tấm lòng sắt son của mình đối với Kim sẽ không bao giờ phai nhạt. “Bên trời góc bểbơ vơ. Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”. Ở bốn câu thơ còn lại , Kiều xót xa thương nhớ cha mẹ : “Xót người tựa cửa hôm mai . Quạt nồng ấm lạnh những ai đó giờ ? Sân Lai cách mấy nắng mưa. Có khi gốc tử đã vừa người ôm” Với cha mẹ, nỗi nhớ thương của Kiều cũng ngập tràn xót xa, da diết . Tuy đã bán mình cứu cha và em khỏi cảnh ngục tù nhưng Kiều vẫn thấy mình chưa trọn đạo làm con . Nàng hình dung ra bóng song thân giàyếu đang ngày đên “tựa cửa” ngóng trông mình và xót xa tự nghĩ ai sẽ là người thay mình chăm sóc cha mẹ . Chỉ với bốn câu thơ độc thọai nội tâm, tác giả đã thể hiện một cách sinh động , cao đẹp và đầy xúc cảm tấm lòng hiếu thảo của Kiều. Trong đọan thơ này , tài năng của thi hào Nguyễn du còn thể hiện ở chỗ đã đặt tình trước hiếu khi viết về tâm trạng Kiều. Để nàng nhớ người yêu trước rồi mới nhớ đến cha mẹ. Điều này thật chuẩn xác và khách quan vì đối vơi cha mẹ Kiều đả tự bán mình, như vậy cũng đã đền đáp được một phần chữ hiếu, công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ. Còn đối với Kim Trọng, Kiều đã thấy mình lỗi hẹn như một người bạc tình: “Kim lang ơi, hỡi Kim lang. Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây” Đây là một chi tiết nhỏ nhưng nó cho thấy cái tinh tế trong tâm lý nhân vật mà Nguyễn Du nhận ra đã thể hiện một cách cực kỳ chính xác.

3/ Ở tám câu thơ cuối đoạn trích, Nguyễn du đã cho thấy một bút pháp tả cảnh ngụ tình đặc sắc . Cảnh vật được miêu tả qua tâm trạng, tâm trạng nhuốm lên cảnh vạt, cảnh vật thể hiện tâm trạng: – Sắc thái của bức tranh thiên nhiên thể hiện từng trạng thái tình cảm của Thuý Kiều: + Nhớ thương cha mẹ, quê hương, cảnh vật là: ” Buồn trồn cửa bể chiều hôm, Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa. + Nhớ người yêu, xót xa cho tình duyên lỡ dở , thì cảnh là: ” Buồn trông ngọn nước mới sa, Hoa trôi man mác biết là về đâu” + Buồn tủi, đau đớn cho thân mình, thì cảnh là: ” Buồn trông gió cuốn mặt duềnh Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh gkế ngồi” Như vậy, từng chi tiết, hình ảnh , khung cảnh thiên nhiên đều mang đậm trạng thái tình cảm của Thuý Kiều. Mỗi cảnh là mỗi tình, song tất cả đều buồn thươg đúng là ” Người buồn cảnh có vui đâu bao jờ” – Cụm từ” Buồn trông” được lặp lại 4 lần trong 8 câu thơ như những đợt sóng lòng trùng điệp, càng khiến nỗi buồn dằng dặc, mênh mông, kết hợp vs cái nhìn từ xa đến gần , thu hẹp dần vào nội cảm con người để đến cuối đoạn thì tâm trạng cô đơn, sầu nhớ, cảm giác đau đớn trào lên. Sóg jó nổi lên như dự báo về những đâu khổ ê chề rồi đay sẽ xảy ra đối vs Kiều, là dự cảm cho 1 đoạn đời: “Thanh lâu 2 lượt thanh y 2 lần”.