Top 11 # Xem Nhiều Nhất Xuất Xứ Của Văn Bản Qua Đèo Ngang Mới Nhất 3/2023 # Top Like | Athena4me.com

Đọc Hiểu Văn Bản: Qua Đèo Ngang

ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN TÌM HIỂU KHÁI NIỆM – Thơ Đường luật

Còn gọi là thơ cận thể. Thể thơ cách luật ngũ ngôn hoặc thất ngôn được đặt ra từ đời Đường ở Trung Quốc. Có ba dạng chính : Thơ bát cú (mỗi bài tám câu), thơ tứ tuyệt (mỗi bài bốn câu) và thơ bài luật (dạng kéo dài của thơ Đường luật), trong đó thơ bát cú, nhất là thất ngôn bát cú (mỗi bài tám câu, mỗi câu bảy chữ), được coi là dạng cơ bản vì từ nó, có thể suy ra các dạng khác. Về bố cục, một bài bát cú gồm 4 phần : đề, thực, luận, kết. Trong đề, câu thứ nhất là phá đề, câu thứ hai là thừa đề. Phá đề mở ý của đầu bài ra, thừa đề tiếp ý của phá đề chuyên vào thân bài. Thực (câu 3 và 4) còn gọi là trích thực hay cập trạng, giải thích rõ ý của đầu bài. Luận (câu 5 và 6) phát triển rộng ý của đầu bài. Kết (hai câu cuối) kết thúc ý toàn bài. Cách chia thành 4 phần như vậy cũng như việc quy định rõ nhiệm vụ cho từng phần càng về sau càng chặt. Các nhà thơ có tài năng thường không để cho bố cục nói trên gò bó. Về luật bằng trắc, buộc phải theo sự quy định về thanh bằng thanh trắc trong từng câu và trong cả bài. Hệ thống này được tính từ chữ thứ hai của câu thứ nhất. Nếu chữ này thanh bằng thì bài thơ thuộc luật bằng (và ngược lại). Sự sắp xếp âm thanh chẳng qua chỉ làm cho điệu thơ không đơn điệu. Muốn vậy trong mỗi câu, các cặp bằng trắc lần lượt thay nhau trong mỗi cặp câu (còn gọi là liên), các chữ tương ứng của câu số lẻ và số chẵn phải có thanh ngược nhau (trừ chữ thứ năm và thứ bảy trong liên đầu) ; nhịp đi của liên trên phải khác nhịp đi của liên dưới, muốn vậy chữ thứ hai của câu chẵn thuộc liên trên phải cùng thanh với chữ thứ hai của câu lẻ thuộc liên dưới (sự giống nhau đó gợi là niêm vì làm cho hai câu thuộc hai liên dính vào nhau). Ví dụ : công thức bốn câu đầu của một bài thơ luật bằng :

Trên thực tế, ít người theo đúng hoàn toàn công thức, do đó sinh ra lệ bất luận : chữ thứ nhất của câu hoàn toàn bất luận (bằng trắc đều được) ; chữ thứ năm nói chung ngược thanh với chữ thứ bảy, song cũng có thể bất luận ; riêng chữ thứ ba, nếu là bằng thì không nên đổi thành trắc, nhất là ở câu có vần. Về cách đối : đôi ở phần thực và luận. Các chữ đối nhau về nguyên tắc phải cùng từ loại. Các nhà thơ thường thích dùng các kiểu đối khác nhau để giảm tính chất gò bó như đối lưu thuỷ (hơi thơ cũng như ý của câu thứ hai là do câu thứ nhất trượt xuống, không thể đứng một mình), tá đối (mượn âm hoặc nghĩa một từ khác để đối), điệu đối (chủ yếu là đối về âm điệu), tự đối (đối trong nội bộ một câu), khoan đối (đối không thật chỉnh)… về cách gieo vần : chỉ gieo một vần và chỉ gieo vần bằng (ở cuối các câu 1, 2, 4, 6, 8). Riêng chữ cuối câu thứ nhất, đặc biệt là ở thơ ngũ ngôn, có thể không gieo vần.

Trong quá trình sử dụng, các nhà thơ đã sáng tạo thêm nhiều biệt thể mới của thơ Đường luật như tiệt hạ (ý, lời của mỗi câu thơ đều lơ lửng), yết hậu (thơ tứ tuyệt mà câu cuối chỉ có một vài chữ), thủ vĩ ngâm (câu một giống câu tám),… Nhiều nhà thơ Việt Nam như Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du, Cao Bá Quát, Tú Xương, Nguyễn Khuyến đã sử dụng thể thơ Đường luật để viết nhiều bài thơ có giá trị và trong quá trình sử dụng, đã dân tộc hoá thể thơ này về nhiều phương diện. Do tính chất gò bó về hình thức, từ lâu, đối với số đông người làm thơ, thơ Đường luật khó diễn đạt được đầy đủ, sinh động tình cảm của con người hiện đại. Tuy vậy, thơ Đường luật thỉnh thoảng vẫn còn xuất hiện trên một số lĩnh vực và ở một số trường hợp nhất định trong cuộc sống văn hoá của nhân dân ta.

(Nguyễn Khắc Phi/ Từ điển văn học, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1984)

PHÂN TÍCH TÁC PHẨM

Ở bài thơ này bà Huyện chỉ nói tâm tư của mình.

Đèo Ngang là một cảnh được nhiều người ngâm vịnh. Vì vị trí lịch sử (vùng giáp ranh giữa Đàng Ngoài và Đàng Trong suốt hai thế kỉ) đã đành, còn là vì cảnh trí thiên nhiên ngoạn mục : đứng trên đỉnh nhìn quanh, đông là biển xanh thăm thẳm, sóng tung bọt trắng vào chân núi, tây là núi biếc trùng trùng, bắc nam là vùng cận sơn, đất sỏi một màu đỏ thẫm. Đường ô tô nay còn quanh co, khuất khúc, huống gì hồi xưa. Tột đỉnh, ngày đó là cửa quan đỏ chót ba chữ Hoành Sơn Quan.

Bước tới Đèo Ngang, bóng xế tà, Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.

Bà đến đây vào lúc bóng chiều đã ngả, không chỉ xế mà xế tà. Thời điểm ấy không còn là thời điểm cho vui tươi, rạng rỡ mà đã xiêu xiêu về phía hoài niệm, mơ màng, cảnh vẫn ra vẻ tươi : cỏ cây chen giữa đá, lá chen giữa hoa (có thể hiểu : đá chen giữa cỏ cây, hoa chen giữa lá). Nhưng sao lại không vui, mà lại gây ấn tượng chen lấn, giành giật, tranh lấy một không gian sống ? Tịnh không mảy may chào đón, hớn hở gặp được một nhà thơ lại là một bà quan. Cỏ cây, đá, lá, hoa cứ làm việc của nó, chang biết gì đến người khách quý.

Lom khom dưới núi, tiều vài chú, Lác đác bên sông, chợ mây nhà.

Cỏ cây, hoa đá còn giành giật nhau đất sống, hỏi con người sẽ ra sao ? Rõ là tội nghiệp : Lân với cổ đá, tiều chỉ vài chú lẻ loi, thân hình lom khom như bị núi đè xuống dưới nhỏ nhoi, xa lơ dưới vực sâu. Còn chợ thì tận bên sông (có thể hồi đó, sông Roòn đang còn ở gần núi, từ Đèo có thể nhìn thấy chợ bên sông?), xa tít xa mù, lẽ ra đông nhà đông người, thì chỉ có lác đác mỗi nơi một vài nhà ! Dưới núi, bên sông sao nghe xa xôi thế ! cỏ đá thì giành nhau chỗ sinh tồn vì quá đông, thiên nhiên quá rậm rạp, còn con người thì sao mà thưa thớt, bé nhỏ, hắt hiu vậy ? cảm giác không gian sao mà mênh mông, trông vắng !

Cảnh hiện thực khách quan đó chăng? Hay là cảnh tâm trạng ? Đến hai câu luận mới rõ dần :

Nhớ nước đau lòng, con quốc quốc,

Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia.

Ít nhất đây cũng là tâm trạng con người bé nhỏ đối diện với thiên nhiên bao la. Cũng cần biết một chút điển tích : chim cuốc được lưu truyền là hồn vua Thục Đế mất nước nên đau lòng gào kêu mãi quốc quốc. Con đa đa (chữ Hán gọi là gia gia) nhắc tích Bá Di, Thúc Tề, bề tôi nhà Thương, thà chết đói chứ không chịu sống với nhà Chu (triều đại đã diệt nhà Thương) và ăn thóc nhà Chu ; nó là hoá thân của hai vị ấy nên nó luôn kêu “bất thực cốc Chu gia” (dân gian nhại là “bắt con tép kho cà”) tức không ăn thóc nhà Chu ; nhưng gia gia thì nhắc đến nhà.

Bỗng dưng nhắc đến nước, đến nhà chắc không phải không có căn cớ.

Bà Nguyễn Thị Hinh, người Đàng Ngoài, thuộc Lê Trịnh ; nay đã là triều Nguyễn, con cháu chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Nói như xưa, mệnh thời thế là đã chuyên về họ Nguyễn. Tuy vậy, trong tâm tư thế hệ bà, người đất Bắc không khỏi không ngầm lắng một niềm luyến tiếc nhà Lê, tiếc thương thời cũ. Gia đình bà lại ở Hà Nội. Thăng Long xưa nay đã thay đổi và đã mất dần dấu tích xưa. Nay bà lại vào kinh, một nơi lạ nước lạ nhà, một mình ngàn dặm. Phụ nữ xưa kia mấy khi xa nhà. Nhớ cảnh cũ người xưa, nghĩ nước nhớ nhà, tâm trạng ấy, càng đi xa vào Nam càng nặng, và qua Đèo Ngang là như bước qua vùng đất Đàng Trong, chốn lạ. Cho dù đau lòng bên trong và mỏi miệng bên ngoài, mỗi bên có thể nặng nhẹ khác nhau, nhưng nhớ nước và thương nhà đều một mực tha thiết. Cặp phạm trù nước nhà này có gốc rất sâu trong lòng Việt Nam. Chạm tới nó là khơi động bao nỗi niềm thiết tha, gắn bó của con người với nước và nhà, nước chung và nhà riêng nhưng nhuyễn quánh làm một. Nhớ nước đã đau, thương nhà đã mỏi. Thương nhà đã thêm chiều sâu ở nhớ nước. Nhớ thương như thế không còn là nhớ thương bình thường của riêng một người. Đó là một nỗi nhớ thương có tính cách lịch sử.

Mượn tiếng kêu của hai con chim mà gợi đến nỗi niềm ấy trong lòng, kì thực là từ cảnh trước mắt quay về cảnh đã qua, từ hiện tại trở về quá khứ. Quốc quốc, gia gia trở thành những sinh vật của thời nào, nơi nào, không phải của thời điểm này, không gian này. Nó có đấy mà như không có đấy. Nó mơ hồ, huyền hoặc như nó là hiện thân của tấm lòng người khách đi đường lẻ loi, nhiều tâm sự. Hai cầu thơ như hai tiếng vọng của xa xôi thời gian và mờ mịt không gian, mường tượng như hai tiếng than thương tự đáy lòng.

Dừng chân đứng lại, trời, non, nước, Một mảnh tình riêng, ta với ta.

Đúng là vậy. Trước cảnh trời, non, nước ở Đèo Ngang, non trùng điệp, nước mênh mông, trước cái vô cùng của trời đất, cảnh bể dâu của cuộc đời, con người thấy bé nhỏ tội nghiệp bao nhiêu ! Thêm cái tâm trạng ngổn ngang nhiều suy cảm, con người càng thấy mình cô đơn. Cho nên, quay lại, chỉ có mình với mình, với mảnh tình riêng của mình, đơn lẻ, nhỏ nhoi. Sáu câu thơ là một sự trống vắng mênh mông.

Ta có cảm tưởng bài thơ tả cảnh mà không tả cảnh, chỉ mượn cảnh để tả tâm trạng một người nhưng cũng không phải tâm trạng một người. Nó là một tiếng nói của lịch sử, một chứng tích lịch sử, một đoạn đau thương trong trường khúc đau thương của non nước Việt Nam ở giai đoạn lịch sử có tính bi kịch này. Cái bóng xế tà của nhà thơ không chỉ chiếu nghiêng xuống bài thơ mà còn ngả dài xuống lịch sử, xuống số phận nhân dân ta và đất nước ta dưới triều Nguyễn. Bài thơ của một khoảnh khắc mà ai hay lại là một dự báo cho lâu dài.

(Theo Lê Trí Viễn, Sđd)

VĂN BẢN ĐỌC THÊM

QUA ĐÈO NGANG

Bãi thẳm, ngần xa, cảnh vắng teo

Đèo Ngang lợi bể nước trong veo

Thà là cúi xuống cây đòi sụt

Xô xát trông lên sóng muốn trèo

Lảnh chảnh đầu mầm chim vững tổ

Lanh đanh cuối vụng cá ngong triều

Cuộc cờ kim cổ chừng bao nả

Non nước trông qua vẫn bấy nhiêu.

(Lê Thánh Tông)

* Gợi dẫn

Hãy phân tích điểm giống và khác nhau giữa bài thơ của Bà Huyện Thanh Quan và của Lê Thánh Tông.

Cảm Thụ Văn Học: Qua Đèo Ngang

[văn 7 ]Cảm thụ văn học: Qua đèo Ngang

Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà,

Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.

Lom khom dưới núi tiều vài chú,

Lác đác bên sông chợ mấy nhà.

Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc,

Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.

Dừng chân đứng lại trời non nước,

Một mảnh tình riêng ta với ta.

Tên thật là Nguyễn Thị Hinh sống trong nửa đầu thế kỷ 19. Quê ở làng Nghi Tàm, ven Hồ Tây, kinh thành Thăng Long. Bà xuất thân trong một gia đình quan lại, có nhan sắc, có học, có tài thơ Nôm, giỏi nữ công gia chánh – bà được vua Minh Mệnh vời vào kinh đô Phú Xuân làm nữ quan “Cung trung giáo tập”.

Chồng bà là Lưu Nghi làm tri huyện Thanh Quan, tỉnh Thái Bình, nên người đời trân trọng gọi bà là Bà huyện Thanh Quan.

Bà chỉ còn để lại 6 bài thơ Nôm thất ngôn bát cú Đường luật: “Qua Đèo Ngang”, “Chiều hôm nhớ nhà”, “Thăng Long thành hoài cổ”, “Chùa Trấn Bắc”, “Chơi Đài Khán Xuân Trấn võ”. “Tức cảnh chiều thu”.

Thơ của bà hay nói đến hoàng hôn, man mác buồn, giọng điệu du dương, ngôn ngữ trang nhã, hồn thơ đẹp, điêu luyện.

Trên đường vào Phú Xuân…, bước tới Đèo Ngang lúc chiều ta, cảm xúc dâng trào lòng người, Bà huyện Thanh Quan sáng tác bài “Qua Đèo Ngang”. Bài thơ tả cảnh Đèo Ngang lúc xế tà và nói lên nỗi buồn cô đơn, nỗi nhớ nhà của người lữ khách – nữ sĩ.

Lần đầu nữ sĩ “bước tới Đèo Ngang”, đứng dưới chân con đèo “đệ nhất hùng quan” này, địa giới tự nhiên giữa hai tỉnh Hà Tĩnh – Quảng bình, vào thời điểm “bóng xế tà”, lúc mặt trời đã nằm ngang sườn núi, ánh mặt trời đã “tà”, đã nghiêng, đã chênh chênh. Trời sắp tối. Âm “tà” cũng gợi buồn thấm thía. Câu 2, tả cảnh sắc: cỏ cây, lá, hoa… đá. Hai vế tiểu đối, điệp ngữ “chen”, vần lưng: “đá” – “lá”, vần chân: “tà” – “hoa”, thơ giàu âm điệu, réo rắt như một tiếng lòng, biểu lộ sự ngạc nhiên và xúc động về cảnh sắc hoang vắng nơi Đèo Ngang 200 năm về trước:

“Cỏ cây chen đá, lá chen hoa”.

Chỉ có hoa rừng, hoa dại, hoa sim, hoa mua. Cỏ cây, hoa lá phải “chen” với đá mới tồn tại được. Cảnh vật hoang sơ, hoang dại đến nao lòng.

Nữ sĩ sử dụng phép đối và đảo ngữ trong miêu tả đầy ấn tượng. Âm điệu thơ trầm bổng du dương, đọc lên nghe rất thú vị:

“Lom khom dưới núi tiều vài chú,

Lác đác bên sông chợ mấy nhà”.

Điểm nhìn đã thay đổi: đứng cao nhìn xuống dưới và nhìn xa. Thế giới con người là tiểu phu, nhưng chỉ có “tiều vài chú”. Hoạt động là “lom khom” vất vả đang gánh củi xuống núi. Một nét vẽ ước lệ rong thơ cổ (ngư, tiều, canh, mục) nhưng rất thần tình, tinh tế trong cảm nhận. Mấy nhà chợ bên sông thưa thớt, lác đác. chỉ mấy cáilèu chợ miền núi, sở dĩ nữ sĩ gọi “chợ mấy nhà” để gieo vần mà thôi: “tà” – “hoa” – “nhà”. Cũng là cảnh hoang vắng, heo hút, buồn hoang sơ nơi con đèo xa xôi lúc bóng xế tà.

Tiếp theo nữ sĩ tả âm thanh tiếng chim rừng: chim gia gia, chim cuốc gọi bầy lúc hoàng hôn. Điệp âm “con cuốc cuốc” và “cái gia gia” tạo nên âm hưởng du dương của khúc nhạc rừng, của khúc nhạc lòng người lữ khách. Lấy cái động (tiếng chim rừng) để làm nổi bật cái tĩnh, cái vắng lặng im lìm trên đỉnh đèo Ngang trong khoảnh khắc hoàng hôn, đó là nghệ thuật lấy động tả tĩnh trong thi pháp cổ. Phép đối và đảo ngữ vận dụng rất tài tình:

“Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc,

Thương nhà mỏi miệng cái gia gai”.

Nghe tiếng chim rừng mà “nhớ nước đau lòng”, mà “thương nhà mỏi miệng’ nỗi buồn thấm thía vào 9 tầng sâu cõi lòng, toả rộng trong không gian từ con đèo tới miền quê thân thương. Sắc điẹu trữ tình dào dạt, thiết tha, trầm lắng. Lữ khách là một nữ sĩ nên nỗi “nhớ nước”, nhó kinh kỳ Thăng Long, nhớ nhà, nhó chồng con, nhớ làng Nghi Tàm thân thuộc không thể nào kể xiết!

Bốn chữ “dừng chân đứng lại” thể hiện một nỗi niềm xúc động đến bồn chồn. Một cái nhìn mênh mang: “Trời non nước”; nhìn xa, nhìn gần, nhìn cao, nhìn sâu, nhìn 4 phía… rồi nữ sĩ thấy vô cùng buồn đau, như tan nát cả tâm hồn, chỉ còn lại “một mảnh tình riêng”. Lấy cái bao la, mênh mông, vô hạn của vũ trụ, của “trời non nước” tương phản với cái nhỏ bé của “mảnh tình riêng”, của “ta” với “ta” đã cực tả nỗi buồn cô đơn xa vắng của người lữ khác khi đứng trên cảnh Đèo Ngang lúc ngày tàn. Đó là tâm trang nhớ quê, nhớ nhà:

“Dừng chân đứng lại trời non nước,

Một mảnh tình riêng ta với ta”.

Bài thơ tả cảnh buổi chiều trên Đèo Ngang. Đèo Ngang trước con mắt lữ khách khi vừa đặt chân tới:

Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà

Thiên nhiên như ùa đến trong tầm mắt tác giả, cảnh sắc tươi tắn, ưa nhìn, những sinh vật và đất đá nương tựa, xen lẫn nhau cũng có vẻ đông đúc:

Cỏ cây chen đá, lá chen hoa

Nhưng sau sự cảm nhận đầu tiên ấy, tác giả đã có thì giờ buông tầm mắt ra xa, tìm đến thế giới con người.

Lẽ ra thiên nhiên có thêm con người phải sinh động, đẹp đẽ hơn nhưng ở đây sự điểm xuyết của mấy người hái củi thưa thớt, mấy quán chợ lơ thơ chỉ khiến cho cảnh vật thêm hiu hắt.

Lom khom dưới núi tiều vài chú

Lác đác bên sông chợ mấy nhà

Bà Huyện Thanh Quan đã nhìn bao quát toàn cảnh, bà còn cảm nhận về Đèo Ngang qua thính giác: tiếng chim quốc, tiếng chim đa đa vọng đến, rơi vào cái vắng vẻ tĩnh mịch của buổi chiều trên đèo.

Khung cảnh thiên nhiên ấy, hoàn cảnh lữ thứ ấy khiến cho tiếng chim gợi liên tưởng đến những từ đồng âm biểu hiện những ý nghĩa, những vấn đề hết sức sâu sắc và lớn lao: nhớ nước và thương nhà.

Thương nhà thì đã rõ, bà Huyện Thanh Quan có một thời được triệu về Huế làm chức Cung trung giáo tập.

Bà vốn người Nghi Tàm, Hà Nội (Bài thơ này có thể làm trong dịp vào cung đó). Một người phụ nữ phải rời nhà đi xa như thế, dù là đi làm quan, cũng ngổn ngang biết bao nỗi niềm.

Cái tiếng chim đa đa tha thiết khêu gợi biết bao. Nhưng còn cái tiếng khắc khoải của những con chim quốc. Điều đó không lấy gì làm chắc, bởi lẽ thời bà sống và làm quan, đất nước đã chuyển sang nhà Nguyễn đến thập kỉ thứ ba, thứ tư rồi.

Có điều, như các triều đại phong kiến khác, nhà Nguyễn bấy giờ đã bộc lộ những mặt tiêu cực, những chỗ yếu kém và cả những tội ác. Là một nhà thơ nhạy cảm, bà Huyện Thanh Quan hẳn có những điều buồn phiền, bất như ý về hiện thực xã hội. Cái nỗi đau lòng khi nhớ nước có lẽ chính là như thế, chính là sự nghĩ về hiện tình đất nước đương thời.

Và khi thiên nhiên đã đánh thức dậy trong lòng tác giả những mối suy tư lớn lao thì thiên nhiên bỗng như lùi xa, trả tác giả trở lại với chính tâm tư mình và chỉ có một mình:

Dừng chân đứng lại: trời, non, nước

Một mảnh tình riêng, ta với ta.

Qua Đèo Ngang trước tiên là bài thơ tả cảnh. Cảnh vật hiện ra phong phú dần theo bước chân người đi. Có cảnh sắc: cỏ cây, hoa lá, đá, tiều phu bên sườn núi, chợ bên sông, nhà; có âm thanh: tiếng quốc quốc, gia gia khắc khoải, dồn dập.

Và khi lên đến đỉnh đèo thì nhà thơ đã nhìn được một cách tổng quát, toàn thể: trời, non, nước. Cái mênh mông vô cùng và hùng vĩ ấy của thiên nhiên đã làm nhà thơ sững lại: dừng chân đứng lại.

Nhưng tả cảnh chỉ là một phần nhỏ ý nghĩa của bài thơ. Chính là bài thơ đã miêu tả rất rõ diễn biến tình cảm của tác giả khi qua con Đèo Ngang này.

Từ cảm nhận ban đầu, tình cảm của tác giả sâu lắng dần; qua sự tiếp nhận của mắt, của tai, những nỗi niềm tâm sự mỗi lúc một dồn nén để rồi chất chứa, cô đọng thành một nỗi buồn, nỗi cô đơn không thể cùng ai chia sẻ.

Hình ảnh một con người, lại là một người phụ nữ, đứng sừng sững giữa cảnh trời, nước, non cao, trong ánh chiều tà đơn độc biết bao!

Ở đây có sự tương phản: tương phản giữa thời gian khoảnh khắc (chiều sắp hết) và vũ trụ vô cùng; tương phản giữa không gian mênh mông hùng vĩ và con người lẻ loi đơn độc.

Sự tương phản ấy đã tạc vào cái vô cùng vô tận của không gian và thời gian: tâm trạng cô đơn, nỗi buồn vô hạn, và cả bóng hình nữ sĩ.

Qua Đèo Ngang là một bài thơ hay và sẽ bất tử với thời gian.

Có lẽ cho đến khi nào con đường Nam Bắc, còn Đèo Ngang thì những người qua đây nhiều người còn nhớ đến nữ sĩ và như còn mường tượng ra bức tượng bà đứng trên cao trội lên bóng chiếu trên đỉnh đèo.

* Nguồn: Tư liệu văn học.

Soạn Bài Qua Đèo Ngang

Soạn bài Qua đèo ngang – Bà Huyện Thanh Quan

* Bố cục : đề – thực – luận – kết

– 2 câu đề : cái nhìn chung về cảnh vật

– 2 câu thực : miêu tả cuộc sống con người

– 2 câu luận : tâm trạng tác giả

– 2 câu kết : nỗi cô đơn lên cao

Câu 1 (trang 103 sgk ngữ văn 7 tập 1)

Qua Đèo Ngang thuộc thể loại

Thất ngôn bát cú

+ Tám câu, mỗi câu 7 chữ

+ Cách gieo vần: cuối các câu 1, 2, 4, 6, 8

+ Câu 3 và 4 đối nhau, câu 5 và câu 6 đối nhau

Câu 2 (trang 105 sgk ngữ văn 7 tập 1)

Cảnh tượng Đèo Ngang được nêu trong bài: thời điểm chiều tà

→ Thời điểm chiều tà gợi lên những nỗi buồn, nhất là người phụ nữ xa nhà

Câu 3 (trang 105 sgk ngữ văn 7 tập 1)

– Cảnh vật gồm có: cỏ, cây, hoa, lá, dãy núi, con sông, cái chợ, mấy túp nhà, có tiếng chim cuốc và chim đa đa, có vài chú tiều phu

– Cảnh Đèo Ngang rậm rạp, um tùm, hoang vắng: cỏ cây chen đá

– Con người xuất hiện thưa thớt, ít ỏi: lác đác chợ mấy nhà, tiều vài chú

– Tiếng kêu quốc quốc, gia gia khắc khoải càng gợi lên cảm giác buồn giữa không gian hoang vắng

Câu 4 (Trang 105 sgk ngữ văn 7 tập 1)

Cảnh tượng ở Đèo Ngang: um tùm cỏ cây, hoang vắng, thưa thớt con người

– Tiếng chim quốc quốc kêu trong bi thiết càng làm tăng thêm nỗi buồn, sự hoang vắng

→ Cảnh vật hoang sơ, thưa thớt càng làm nỗi nhớ quê hương dâng lên và làm nỗi buồn, nỗi cô đơn, âm thầm của mình khi đối diện với thiên nhiên

Câu 5 (trang 87 sgk ngữ văn 7 tập 1)

Tâm trạng của Bà Huyện Thanh Quan khi Đèo Ngang là tâm trạng cô đơn, nhớ nhà, nhớ nước

– Tác giả mượn cảnh vật để giãi bày tâm trạng

– Mượn tiếng chim để gợi nhớ quá khứ nước nhà

– Câu thơ cuối biểu cảm trực nỗi buồn, nỗi cô đơn thầm kín, hướng nội của tác giả

⇒ Tâm trạng của tác giả: buồn, cô đơn, hoài cổ

Câu 6 (trang 87 sgk ngữ văn 7 tập 1)

Một mảnh tình riêng với ta giữa cảnh trời, non, nước bao la ở Đèo Ngang khác với những không gian khác

– Tác giả đối diện với không gian hoang vắng, hiu quạnh → cảm thấy cô đơn và nỗi buồn nhân lên gấp bội

Bài giảng: Qua đèo ngang – Cô Trương San (Giáo viên VietJack)

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng….miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Nhóm học tập facebook miễn phí cho teen 2k8: chúng tôi

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Tìm Hiểu Chi Tiết Văn Bản: Qua Đèo Ngang

Đèo Ngang thuộc dãy núi Hoành Sơn, phân cách địa giới hai tỉnh Hà Tĩnh và Quảng Bình. Là một địa danh nổi tiếng trên đất nước ta. Đã có nhiều thi nhân làm thơ vịnh Đèo Ngang như: Cao Bá Quát có bài Đăng Hoành Sơn, Nguyễn Khuyến có bài Qua Hoành Sơn… Nhưng tiêu biểu, được nhiều người biết và yêu thích nhất vẫn là bài Qua Đèo Ngang của bà Huyện Thanh Quan. Hôm nay chúng ta cùng đi tìm hiểu cái hay của bài thơ này.

– Bà Huyện Thanh Quan tên thật là Nguyễn Thị Hinh. Quê ở Hà Nội, sống vào khoảng cuối thể kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX.

– Là một trong 3 nữ sĩ nổi tiếng của thơ ca trung đại Việt Nam mang đậm phong cách hoài cổ.

– Bà là người nổi tiếng hay chữ vì là con một ông Đốc học danh tiếng, nên được nhà vua mời vào kinh giữ chức Cung Trung giáo tập để dạy các phi tần và các vị công chúa.

– Chồng bà là quan tri huyện của huyện Thanh Quan, tỉnh Thái Bình, nên mọi người gọi là là Bà Huyện Thanh Quan.

– Thơ của bà thường viết về thiên nhiên, phần lớn vào lúc xế chiều, gợi lên cảm giác vắng lặng, buồn buồn. Cảnh trong thơ bà giống như bức tranh thủy mặc, chấm phá, diễn tả bằng nghệ thuật ước lệ. Tả cảnh để gửi gắm tình cảm nhớ thương da diết đối với quá khứ vàng son một đi chưa trở lại. Đó là cái bài thơ hoài cổ, hoài thương rất điển hình. Đối với bà cái đẹp là dĩ vãng. Hiện tại vắng vẻ, quạnh hiu, chỉ là cái bóng mờ mờ của dĩ vãng mà thôi.

– Bà sáng tác không nhiều, hầu hết viết bằng chữ Nôm, theo thể Đường luật: Thăng Long thành hoài cổ; Qua chùa Trấn Bắc; Chiều hôm nhớ nhà; Nhớ nhà; Tức cảnh chiều thu; Cảnh đền Trấn Võ; Cảnh Hương Sơn.

Dưới thời vua Minh Mạng, bà được vời vào kinh đô Huế, giữ chức Cung Trung Giáo Tập (Nữ quan dạy nghi lễ) để dạy nghi lễ cho các công chúa và cung phi. Trên đường đi vào Huế nhận chức, khi dừng chân nghỉ tại Đèo Ngang bà đã viết nên thi phẩm tuyệt tác này.

Bài thơ được viết theo thể thất ngôn bát cú đường luật: Mỗi bài có 8 câu, mỗi câu có 7 chữ. Chỉ có một vần được gieo ở cuối câu thơ và hiệp vần với nhau với nhau ở các câu: 1,2,4,6,8

– Phần 1: 4 câu thơ đầu: Khung cảnh Đèo Ngang buổi chiều tà.

– Phần 2: 4 câu cuối: Tâm trạng của nữ sĩ khi dừng chân tại Đèo Ngang.

– Cảnh hoang vu, vắng vẻ lúc chiều tà:

– Từ láy gợi hình: lom khom, lác đác gợi tả hình dáng vất vả, nhỏ nhoi, thưa thớt của người và vật.

– Dùng lượng từ: vài, mấy chỉ sự ít ỏi.

– Đảo trật tự cú pháp: nhấn mạnh sự sống và hoạt động của con người ở đèo Ngang.

– Nữ thi sĩ đã sử dụng một thủ pháp nghệ thuật rất quen thuộc trong thơ cổ đó là biện pháp: Tả cảnh ngụ tình.

– Sự xuất hiện âm thanh của tiếng chim quốc và tiếng chim đa đa tạo nên một nét động trong bức tranh đèo Ngang.

– Nghệ thuật ẩn dụ, chơi chữ: mượn tiếng chim để bày tỏ lòng người có tác dụng:

+ Làm nổi bật hai trạng thái cảm xúc của người con xa xứ.

+ Diễn tả tâm trạng nhớ quê nhà, nhớ nước

+ Tạo nhạc điệu cân đối cho lời thơ.

– Câu thơ: “Dừng chân đứng lại, trời, non, nước gợi một không gian mênh mông, bao la, bát ngát mà xa lạ.

– Trong bối cảnh không gian đó, con người sẽ cảm thấy mình cô đơn, lẻ loi, rợn ngợp.

– Cụm từ “tình riêng ta với ta” có ý nghĩa:

+ Tình riêng: tâm sự sâu kín, chỉ một mình mình biết, mình hay.

+ Ta với ta: mình đối diện với chính mình.

– Giọng thơ với âm hưởng, nhịp điệu như một tiếng thở dài, ngậm ngùi, nuối tiếc.

– Điệp từ “ta” được sử dụng ở ngôi thứ nhất số ít. Hai từ mà lại chỉ một con người để cực tả nỗi buồn thầm lặng cô đơn đến tột cùng của người lữ thứ.

– Thể hiện tâm trạng cô đơn thầm lặng, nỗi niềm hoài cổ của nhà thơ trước cảnh vật Đèo Ngang.

– Qua Đèo Ngang là một bài thơ xuất sắc, thể hiện tài năng và tấm lòng yêu mến non sông, đất nước của nữ sĩ.

– Khung cảnh đèo Ngang trong buổi chiều tà hùng vĩ nhưng hoang sơ, buồn, tiêu điều, xơ xác. Nỗi buồn cô đơn, sâu thẳm mang nặng nỗi sầu nhân thế mà không thể chia sẻ cùng ai của nhà thơ.

– Sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình.

– Sáng tạo trong việc sử dụng các biện pháp nghệ thuật khác: phép đối xứng, đảo trật tự cú pháp, chơi chữ, tương phản, giọng hơ, từ láy, từ đồng âm khác nghĩa, gợi hình, gợi cảm.

– Sử dụng nghệ thuật đối hiệu quả.

– Thể thơ Đường luật sang trọng được sử dụng điêu luyện.