Top 3 # Xem Nhiều Nhất Xem Tin Pháp Luật Hình Sự Mới Nhất 3/2023 # Top Like | Athena4me.com

Aclr: Pháp Luật Hình Sự Người Mỹ Xem Xét

ACLR có nghĩa là gì? ACLR là viết tắt của Pháp luật hình sự người Mỹ xem xét. Nếu bạn đang truy cập phiên bản không phải tiếng Anh của chúng tôi và muốn xem phiên bản tiếng Anh của Pháp luật hình sự người Mỹ xem xét, vui lòng cuộn xuống dưới cùng và bạn sẽ thấy ý nghĩa của Pháp luật hình sự người Mỹ xem xét trong ngôn ngữ tiếng Anh. Hãy nhớ rằng chữ viết tắt của ACLR được sử dụng rộng rãi trong các ngành công nghiệp như ngân hàng, máy tính, giáo dục, tài chính, cơ quan và sức khỏe. Ngoài ACLR, Pháp luật hình sự người Mỹ xem xét có thể ngắn cho các từ viết tắt khác.

ACLR = Pháp luật hình sự người Mỹ xem xét

Tìm kiếm định nghĩa chung của ACLR? ACLR có nghĩa là Pháp luật hình sự người Mỹ xem xét. Chúng tôi tự hào để liệt kê các từ viết tắt của ACLR trong cơ sở dữ liệu lớn nhất của chữ viết tắt và tắt từ. Hình ảnh sau đây Hiển thị một trong các định nghĩa của ACLR bằng tiếng Anh: Pháp luật hình sự người Mỹ xem xét. Bạn có thể tải về các tập tin hình ảnh để in hoặc gửi cho bạn bè của bạn qua email, Facebook, Twitter, hoặc TikTok.

Như đã đề cập ở trên, ACLR được sử dụng như một từ viết tắt trong tin nhắn văn bản để đại diện cho Pháp luật hình sự người Mỹ xem xét. Trang này là tất cả về từ viết tắt của ACLR và ý nghĩa của nó là Pháp luật hình sự người Mỹ xem xét. Xin lưu ý rằng Pháp luật hình sự người Mỹ xem xét không phải là ý nghĩa duy chỉ của ACLR. Có thể có nhiều hơn một định nghĩa của ACLR, vì vậy hãy kiểm tra nó trên từ điển của chúng tôi cho tất cả các ý nghĩa của ACLR từng cái một.

Ý nghĩa khác của ACLR

Bên cạnh Pháp luật hình sự người Mỹ xem xét, ACLR có ý nghĩa khác. Chúng được liệt kê ở bên trái bên dưới. Xin vui lòng di chuyển xuống và nhấp chuột để xem mỗi người trong số họ. Đối với tất cả ý nghĩa của ACLR, vui lòng nhấp vào “thêm “. Nếu bạn đang truy cập phiên bản tiếng Anh của chúng tôi, và muốn xem định nghĩa của Pháp luật hình sự người Mỹ xem xét bằng các ngôn ngữ khác, vui lòng nhấp vào trình đơn ngôn ngữ ở phía dưới bên phải. Bạn sẽ thấy ý nghĩa của Pháp luật hình sự người Mỹ xem xét bằng nhiều ngôn ngữ khác như tiếng ả Rập, Đan Mạch, Hà Lan, Hindi, Nhật bản, Hàn Quốc, Hy Lạp, ý, Việt Nam, v.v.

Tin Pháp Luật Ninh Thuận, Tin Tức Hình Sự Pháp Luật Hôm Nay

Công an Tp. Phan Rang-Tháp Chàm: Bắt giữ nhóm thanh niên trộm cắp xe máy

timer21/09/2018

Ngày 20/9, Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an Tp. Phan Rang – Tháp Chàm vừa bắt giữ khẩn cấp một nhóm đối tượng, gồm: Đinh Văn Linh (SN 2001), Hứa Phạm Thuận An (SN 2003), Võ Huỳnh Hoàng Hiếu (SN 2003) cùng trú phường Tấn Tài, Tp. Phan Rang – Tháp Chàm; Nguyễn Xuân Thanh (SN 2001), trú phường Văn Hải, Tp. Phan Rang – Tháp Chàm; Nguyễn Văn Phong (SN 2003), Ngô Lê Đình Tâm (SN 2002) cùng trú thị trấn Phước Dân, huyện Ninh Phước và Lê Trung Linh (SN 1994), trú phường Mỹ Đông, Tp. Phan Rang-Tháp Chàm với tội danh trộm cắp tài sản và tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có xảy ra trên địa bàn Tp. Phan Rang – Tháp Chàm.

Thông Tin Pháp Luật Dân Sự

Đề nghị giao kết hợp đồng là một vấn đề quan trọng của hợp đồng. Vì vậy, Công ước Viên về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế của Liên hiệp quốc năm 1980 (CISG), Bộ nguyên tắc về hợp đồng thương mại quốc tế của UNIDROIT năm 2004 (PICC) và Bộ luật Dân sự năm 2005 của Việt Nam (BLDS 2005) đều có những quy định về vấn đề này. Qua những tình huống thực tiễn, chúng tôi tập trung phân tích, so sánh những quy định về đề nghị giao kết hợp đồng trong các văn bản trên để đưa ra những kiến nghị hoàn thiện các quy định của BLDS về đề nghị giao kết hợp đồng.

1. Đề nghị giao kết hợp đồng

Đề nghị giao kết hợp đồng về bản chất là một hành vi pháp lý đơn phương của một chủ thể bày tỏ ý định giao kết hợp đồng với chủ thể khác theo các điều kiện xác định.

1.1. Người nhận đề nghị

Đề nghị thường hướng tới một hoặc một số người xác định. Người nhận đề nghị có thể là một thể nhân hoặc pháp nhân: cá nhân được xác định bởi họ tên, quốc tịch, hộ khẩu thường trú (hoặc địa chỉ tạm trú); pháp nhân được xác định bởi tên gọi, trụ sở và quốc tịch. Tính xác định của người được đề nghị thường được thể hiện khi bên đề nghị gửi đề nghị giao kết hợp đồng, vì khi đó bên đề nghị đã xác định được họ muốn giao kết hợp đồng với ai.

Nếu đề nghị không được gửi tới một hoặc một số người cụ thể, nó chỉ là một phần bảng báo giá hoặc được gửi ra ngoài theo một thông báo rộng rãi, nó không tạo thành một đề nghị1, như tình huống trong vụ kiện sau2:

Nếu đặt ví dụ trên vào hoàn cảnh của Việt Nam thì rất khó giải quyết vì Điều 390 BLDS 2005 quy định: “Đề nghị giao kết hợp đồng là việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và chịu sự ràng buộc về đề nghị này của bên đề nghị đối với bên đã được xác định cụ thể”. Tính xác định của bên được đề nghị được giải thích căn cứ hoàn toàn vào ý chí của bên đưa ra đề nghị. Lefkowitz có thể coi là không được xác định cụ thể theo cách lập luận ở trên khi vận dụng CISG giải quyết tình huống này; nhưng cũng có thể là được xác định nếu dựa vào tiêu chí “người đầu tiên tới cửa hàng” như cách lập luận của Lefkowitz. Khi đó, việc lựa chọn phương án nào lại phụ thuộc vào cảm tính của thẩm phán. Đó chính là hạn chế trong kỹ thuật lập pháp của Điều 390 BLDS 2005, bởi theo lý thuyết chung thì quy phạm pháp luật phải rõ ràng và đơn nghĩa để đảm bảo cho pháp luật được hiểu và áp dụng một cách thống nhất. Vì vậy, chúng tôi cho rằng, Điều 390 BLDS 2005 cần được sửa đổi, bổ sung theo hướng quy định rõ “tính xác định cụ thể của người được đề nghị” để tránh trường hợp nó được hiểu theo nhiều nghĩa, gây khó khăn trong hoạt động áp dụng pháp luật. Theo đó, cần bổ sung quy định “một bên được coi là xác định cụ thể khi bên đề nghị gửi đề nghị của mình, bằng các tiêu chí khách quan xác định được rõ bên mà đề nghị sẽ được gửi tới” vào Điều 390 BLDS 2005 hoặc quy định giống Điều 14 của CISG.

1.2 Sự xác định của đề nghị

Một đề nghị phải xác định rõ ràng, nếu không, nó không được coi là một đề nghị giao kết hợp đồng mà chỉ là một đề nghị thương lượng hợp đồng. Tính xác định của một đề nghị thể hiện ở nội dung của nó, đề nghị phải thể hiện rõ các nội dung cơ bản của hợp đồng, để đảm bảo rằng khi bên được đề nghị trả lời chấp nhận đề nghị thì hợp đồng được giao kết với nội dung được xác định trong đề nghị. Nhưng trên thực tế, không phải đề nghị giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa nào cũng quy định rõ ràng, chi tiết về hàng hóa, chất lượng và giá cả của hàng hóa. Liệu rằng một sự áng chừng về số lượng hay chất lượng hàng hóa có được coi là rõ ràng hay không, như tình huống trong vụ kiện sau3:

Tóm tắt vụ kiện: Tháng 3/1991, tại một cuộc triển lãm ở Fuerstenstein (Đức), bị đơn – một công ty có trụ sở tại Áo – đặt hàng nguyên đơn, người nuôi chồn Chinchilla ở Đức một số lượng lớn các bộ lông chồn Chinchilla. Các bên thỏa thuận những bộ lông chồn Chinchilla có chất lượng trung bình và cao hơn mức trung bình, sẽ có mức giá trong khoảng 35 đến 65 DM mỗi bộ. Đầu tháng 4/1991, nguyên đơn đóng gói 249 bộ lông chồn Chinchilla, trong đó có 236 bộ có chất lượng trung bình và 13 bộ có chất lượng thấp hơn gửi cho bị đơn. Ngày 6/4/1991, sau khi nhận được hàng, bị đơn giao hàng cho một nhà buôn của Italia mà không mở ra kiểm tra. Nhà buôn Italia chỉ thanh toán 236 bộ lông có chất lượng trung bình và gửi trả 13 bộ lông có chất lượng kém hơn cho bị đơn. Sau đó, bị đơn than phiền về 13 bộ lông đã bị trả lại và chuyển cho nguyên đơn 2,400 DM, theo mức giá không quá 10 DM một bộ lông chồn, trong khi những bộ lông chồn có chất lượng trung bình đã được bán với mức giá 60 DM một bộ. Do đó, nguyên đơn kiện bị đơn đòi thanh toán 9,500 DM còn lại; nguyên đơn tính 50 DM trên mỗi bộ lông chồn.

Vấn đề pháp lý: Trong vụ kiện này, bị đơn cho rằng “đặt hàng với số lượng lớn” và thỏa thuận “những bộ lông chồn Chinchilla có chất lượng trung bình và cao hơn mức trung bình sẽ có mức giá trong khoảng 35 đến 65 DM trên mỗi bộ” là thiếu những sự xác định cần thiết về số lượng và giá cả của hàng hóa, cần bị từ chối.

Giải pháp của luật: khi nghiên cứu pháp luật giải quyết vụ án trên, ta thấy có sự khác biệt rất lớn giữa Điều 14 của CISG với Điều 390 BLDS 2005 và Điều 2.1.2 của PICC trong việc đưa ra tiêu chí để đánh giá mức độ xác định của một đề nghị giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa.

Khoản 1 Điều 14 của CISG quy định rất chi tiết: “Một đề nghị ký kết hợp đồng gửi cho một hay nhiều người xác định được coi là một chào hàng nếu có đủ chính xác và nếu nó chỉ rõ ý chí của người chào hàng muốn tự ràng buộc mình trong trường hợp có sự chấp nhận chào hàng đó. Một đề nghị là đủ chính xác khi nó nêu rõ hàng hóa và ấn định số lượng về giá cả một cách trực tiếp hoặc gián tiếp hoặc quy định thể thức xác định những yếu tố này”. Khoản 1 Điều 390 BLDS 2005 quy định “Đề nghị giao kết hợp đồng là việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng…”. Theo đó, tính xác định của đề nghị giao kết hợp đồng phụ thuộc vào mức độ rõ ràng trong việc diễn đạt ý định của bên đưa ra đề nghị, thông thường trong hợp đồng mua bán hàng hóa, thì bên đề nghị thường thể hiện rõ ý định của mình về số lượng, chất lượng và giá cả hàng hóa mà mình muốn mua hoặc muốn bán, nhưng BLDS 2005 không có quy định nào tạo cơ sở pháp lý cho việc giải thích ý chí của bên đưa ra đề nghị như cách giải thích nêu trên.

Còn Điều 2.1.2 của PICC quy định “Một đề nghị được gọi là đề nghị giao kết hợp đồng nếu nó đủ rõ ràng và thể hiện ý chí của bên đưa ra đề nghị bị ràng buộc khi đề nghị giao kết được chấp nhận” theo đó tính xác định của đề nghị phụ thuộc và tiêu chí “đủ rõ ràng”. Và theo khoản 2 Điều 4.1 của PICC, thì tiêu chí đủ rõ ràng có thể “được giải thích theo cách hiểu của một người bình thường có cùng phẩm chất và ở cùng hoàn cảnh với người tuyên bố và thực hiện hành vi”. Như vậy, nếu áp dụng Điều 14 của CISG và Điều 2.1.2 của PICC thì sẽ có cách giải thích thỏa đáng dựa vào hoàn cảnh trong mối quan hệ cụ thể của hai bên. Trong vụ án trên, khi bị đơn đặt mua “một số lượng lớn các bộ lông chồn” tức là bị đơn đưa ra cách xác định số lượng dựa trên khả năng cung cấp của nguyên đơn, do đó, đặt hàng của bị đơn là xác định về số lượng.

Tuy nhiên, nếu áp dụng Điều 390 BLDS 2005 để giải quyết vụ kiện trên thì sẽ rơi vào bế tắc vì chúng ta không giải quyết được liệu rằng khi bị đơn đặt “một số lượng lớn các bộ lông chồn” thì ý định của bị đơn là muốn mua bao nhiêu bộ lông chồn? Nó có được coi là một cách xác định số lượng hàng hóa trong đề nghị giao kết hợp đồng hay không? Vì vậy, theo chúng tôi, Điều 390 BLDS 2005 cần được hỗ trợ bằng một nguyên tắc nhằm giải thích ý chí của các bên tham gia hợp đồng như giải pháp của PICC, nguyên tắc đó có thể được quy định như nguyên tắc được đưa ra tại Điều 8 Khoản 2 của CISG là: “Tuyên bố cách xử sự khác của một bên được giải thích theo nghĩa mà một người có lý trí, nếu người đó được đặt vào vị trí của phía bên kia trong những hoàn cảnh tương tự cũng sẽ hiểu như thế”.

1.3. Mong muốn được ràng buộc

Nói chung, đề nghị càng chi tiết, cụ thể thì càng có nhiều cơ hội được xem như một đề nghị giao kết hợp đồng. Do mong muốn này ít khi được tuyên bố rõ ràng, nên thường phải diễn giải từ các tình huống cụ thể và dựa theo quy định của pháp luật, như tình huống trong vụ kiện giữa nguyên đơn là một công ty TNHH được thành lập và hoạt động theo luật của Đức, có trụ sở tại Solingen Đức và bị đơn – một công ty TNHH, có trụ sở tại Thụy Sĩ được giải quyết tại Tòa án thương mại Handelsgericht Aargau Thụy Sĩ vào ngày 26/9/19975.

Tóm tắt vụ kiện: Từ năm 1991, bị đơn thường xuyên mua những bộ kéo của nguyên đơn và bán lại chúng ở Thụy Sĩ theo cách bị đơn đặt hàng trước cho nguyên đơn và sau đó (thông thường là ba tuần) thông báo lại cho nguyên đơn số lượng, chất lượng hàng hóa và ngày giao hàng cụ thể. Sau khi bị đơn đặt hàng, hàng sẽ được sản xuất với những mẫu mã và dấu hiệu riêng của bị đơn và sẽ được nguyên đơn giao theo đúng số lượng, chất lượng và thời gian mà bị đơn thông báo.

Ngày 10/4/1992, bị đơn đặt nguyên đơn sản xuất kéo. Ngày 24/4/1992, đại diện hai bên gặp gỡ trao đổi. Trong cuộc họp, bị đơn đã nhấn mạnh việc cung cấp độc quyền những bộ kéo của nguyên đơn, bị đơn không muốn đối mặt với việc cạnh tranh từ việc đặt hàng các loại kéo tương tự. Ngày 24/4/1992, nguyên đơn gửi thư cho bị đơn đảm bảo cung cấp độc quyền những bộ kéo theo mẫu 580.

Trong fax trả lời ngày 12/6/1992, nguyên đơn dẫn chiếu tới đơn đặt hàng của bị đơn ngày 26/5/1992. Nguyên đơn xác nhận với bị đơn rằng, giá cả hiện tại trên mỗi món hàng sẽ áp dụng và việc giao hàng sẽ được thực hiện trong ngày theo yêu cầu của bị đơn như thông lệ mà hai bên đã thiết lập. Sau đó, bị đơn đã không thông báo lại cho nguyên đơn về việc giao hàng như thông lệ giữa hai bên. Tháng 9/1993, nguyên đơn giao hàng cho bị đơn, nhưng bị đơn từ chối nhận. Ngày 12/10/1993, nguyên đơn gửi bị đơn hóa đơn thanh toán cho chi phí của việc không giao được hàng, nhưng bị đơn từ chối. Ngày 21/2/1996, nguyên đơn kiện bị đơn ra tòa đòi bồi thường. Nguyên đơn cho rằng đơn đặt hàng ngày 10/4/1992 và 25/6/1992 của bị đơn đã thể hiện rõ mong muốn ký kết hợp đồng và chịu sự ràng buộc về mặt pháp lý đối với mặt hàng đó. Còn bị đơn lại cho rằng những bản fax hai ngày nói trên thực chất chỉ là những đề nghị thương lượng hợp đồng, thể hiện mong muốn của bị đơn sẽ đặt hàng trong tương lai, do đó, nó không có tính ràng buộc đối với bị đơn.

Giải pháp của luật: định nghĩa về đề nghị giao kết hợp đồng trong các văn bản pháp luật đều đưa ra điều kiện đối với đề nghị giao kết, đó là mong muốn được ràng buộc của bên đưa ra đề nghị, cụ thể: Điều 14 của CISG quy định: “Một đề nghị ký kết hợp đồng gửi cho một hay nhiều người xác định được coi là một chào hàng nếu có đủ chính xác và nếu nó chỉ rõ ý chí của người chào hàng muốn tự ràng buộc mình trong trường hợp có sự chấp nhận chào hàng đó…”.

Điều 2.1.2 PICC quy định: “Một đề nghị được gọi là đề nghị giao kết hợp đồng nếu nó đủ rõ ràng và thể hiện ý chí của bên đưa ra đề nghị bị ràng buộc khi đề nghị giao kết được chấp nhận”. Còn theo Khoản 1 Điều 390 BLDS 2005, thì “Đề nghị giao kết hợp đồng là việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và chịu sự ràng buộc về đề nghị này của bên đề nghị đối với bên đã được xác định cụ thể” và “trong trường hợp đề nghị giao kết hợp đồng có nêu rõ thời hạn trả lời, nếu bên đề nghị lại giao kết hợp đồng với người thứ ba trong thời hạn chờ bên được đề nghị trả lời thì phải bồi thường thiệt hại cho bên được đề nghị mà không được giao kết hợp đồng nếu có thiệt hại phát sinh”.

2. Thay đổi, rút lại và hủy bỏ đề nghị

2.1. Thay đổi, rút lại đề nghị

Thực tế cho thấy, đến khi đề nghị có hiệu lực, bên đề nghị có quyền đổi ý và quyết định không giao kết hợp đồng nữa hoặc thay thế đề nghị ban đầu bằng một đề nghị khác, mà không quan tâm xem đề nghị ban đầu có được coi là có thể hủy ngang hay không.

Ví dụ: A gửi cho B một đề nghị giao kết hợp đồng. Ngay sau đó, A thay đổi ý định và gửi B một thông báo về việc rút lại đề nghị vừa mới gửi. Trong tình huống trên, có hai vấn đề pháp lý đặt ra: trường hợp nào thì thông báo rút lại đề nghị của A có hiệu lực; hình thức của thông báo rút lại có phải tuân theo hình thức đã đưa ra đề nghị hay không.

Khi giải quyết hai vấn đề pháp lý trên thì CISG, PICC và BLDS 2005 đưa ra các giải pháp giống nhau. Khoản 2 Điều 15 của CISG quy định: “Chào hàng dù là loại chào hàng cố định, vẫn có thể bị rút lại nếu như thông báo về việc rút lại chào hàng đến người được chào hàng trước hoặc cùng lúc với chào hàng”. Còn theo Điều 2.1.3 của PICC, thì “đề nghị giao kết hợp đồng, kể cả không thể hủy ngang, có thể được rút lại nếu việc rút lại đề nghị đến người nhận trước hoặc cùng lúc với đề nghị”. Điều 392 BLDS 2005 quy định: “Bên đề nghị giao kết hợp đồng có thể thay đổi, rút lại đề nghị giao kết hợp đồng trong các trường hợp sau đây: a) Nếu bên được đề nghị nhận được thông báo về việc thay đổi hoặc rút lại đề nghị trước hoặc cùng với thời điểm nhận được đề nghị; b) Điều kiện thay đổi hoặc rút lại đề nghị phát sinh trong trường hợp bên đề nghị có nêu rõ về việc được thay đổi hoặc rút lại đề nghị khi điều kiện đó phát sinh”. Theo đó, điều kiện duy nhất là bên B phải nhận được thông báo rút lại đề nghị của bên A trước hoặc cùng thời điểm mà bên B nhận được đề nghị ban đầu. Tuy nhiên, điểm b Khoản 1 Điều 392 BLDS còn bổ sung thêm trường hợp: bên đề nghị có thể rút lại đề nghị nếu điều kiện thay đổi hoặc rút lại đề nghị phát sinh trong trường hợp bên đề nghị nói rõ về việc thay đổi hoặc rút lại đề nghị khi điều kiện đó phát sinh. Quy định này tạo ra ưu thế pháp lý tuyệt đối cho bên đề nghị, khi bên đề nghị có thể áp đặt ý chí của mình đối với bên được đề nghị bằng cách ấn định trước điều kiện thay đổi, rút lại đề nghị. Trước khi hợp đồng được ký kết, vào bất cứ thời điểm nào mà điều kiện về việc thay đổi hoặc rút lại đề nghị (do bên A đã ấn định sẵn) phát sinh thì đề nghị của bên A sẽ bị coi như là bị thay đổi hoặc rút lại. Quy định này là không cần thiết và nó đã vi phạm nguyên tắc tự do ý chí trong giao kết hợp đồng. Vì vậy, theo chúng tôi, để bảo đảm sự bình đằng giữa các bên, đảm bảo nguyên tắc tự do ý chí trong giao kết hợp đồng, nên bỏ quy định tại điểm b Khoản 1 Điều 392 BLDS 2005.

2.2. Hủy bỏ đề nghị giao kết hợp đồng

Một đề nghị giao kết hợp đồng có thể hủy ngang hay không là một trong những vấn đề gây tranh cãi nhất trong vấn đề hình thành hợp đồng. Có hai cách tiếp cận trái ngược nhau về vấn đề này, bao gồm: cách tiếp cận của CISG và PICC; cách tiếp cận của BLDS 2005.

Khoản 1 Điều 2.1.4 và Khoản 1 Điều 16 của CISG đều quy định về nguyên tắc, các đề nghị giao kết hợp đồng có thể bị hủy ngang. Tuy nhiên, các điều khoản này cũng quy định việc hủy bỏ một đề nghị giao kết hợp đồng có thể được thực hiện với điều kiện hủy bỏ này đến bên được đề nghị trước khi bên này gửi chấp nhận đề nghị. Như vậy, chỉ khi bên được đề nghị chấp nhận đề nghị bằng miệng hoặc khi bên được đề nghị chứng minh là đã chấp nhận bằng cách thực hiện một hành vi mà không thông báo tới bên đề nghị thì bên đề nghị có quyền tiếp tục hủy bỏ đề nghị cho tới khi hợp đồng được giao kết. Mặt khác, khi một đề nghị được chấp nhận bằng văn bản, thì hợp đồng được giao kết khi chấp nhận đến bên đề nghị; trong trường hợp này, bên đề nghị mất quyền hủy bỏ đề nghị ngay khi bên được đề nghị gửi chấp nhận đề nghị. Cách giải quyết như vậy có thể gây nhiều bất lợi cho bên đề nghị, vì không phải lúc nào cũng biết liệu còn có thể hủy bỏ đề nghị giao kết hợp đồng hay không. Tuy nhiên, giải pháp này cũng bảo vệ lợi ích hợp pháp của bên được đề nghị bằng việc rút ngắn khoảng thời gian mà đề nghị giao kết hợp đồng có thể hủy bỏ.

Khi đề nghị quy định rõ là không thể bị hủy ngang: đề nghị giao kết hợp đồng không thể bị hủy ngang mà có thể được thực hiện bằng nhiều cách khác nhau, cách rõ ràng và trực tiếp nhất là bên đưa ra đề nghị tuyên bố rõ điều này (ví dụ: “đây là một đề nghị cố định”; “chúng tôi sẽ duy trì đề nghị này cho đến khi có câu trả lời của quý công ty”) hoặc ấn định thời hạn cho việc trả lời chấp nhận. Tuy nhiên, quy định này có thể được suy luận một cách đơn giản từ những tuyên bố hoặc hành động của bên đề nghị. Chính việc quy định rõ một thời hạn nhất định cho việc chấp nhận, tuy không buộc phải như vậy, có thể tương đương với một quy định ngầm của một đề nghị không hủy ngang. Nói chung, nếu bên đề nghị giao kết hợp đồng hoạt động trong một hệ thống pháp luật, theo đó, việc ấn định thời hạn chấp nhận được coi là quy định tính không hủy ngang, người ta có thể cho rằng khi quy định một thời hạn, bên đề nghị dự định đưa ra một đề nghị không bị hủy ngang. Mặt khác nếu bên đề nghị hoạt động trong một hệ thống pháp luật theo đó ấn định một thời hạn chấp nhận không đủ để chỉ ra tính không hủy ngang, thì bên đề nghị không có ý định như vậy7.

Bên đề nghị có cơ sở hợp lý để tin là đề nghị không hủy ngang: sự tin tưởng của bên được đề nghị có thể xuất phát từ xử sự của bên đề nghị hoặc do tính chất của đề nghị. Hành vi mà bên được đề nghị phải thực hiện trên cơ sở đề nghị có thể là tiến hành việc sản xuất, mở LC… với điều kiện là những hành vi này được coi như thường gặp trong hoạt động mua bán hàng hóa hoặc được bên đề nghị biết trước hoặc dự liệu trước8.

Trong khi đó, Điều 393 BLDS 2005 quy định: “Trong trường hợp bên đề nghị giao kết hợp đồng thực hiện quyền huỷ bỏ đề nghị do đã nêu rõ quyền này trong đề nghị thì phải thông báo cho bên được đề nghị và thông báo này chỉ có hiệu lực khi bên được đề nghị nhận được thông báo trước khi bên được đề nghị trả lời chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng”. Quy định này ngược lại với những quy định của CISG và PICC. Theo đó, một đề nghị về nguyên tắc sẽ không bị hủy ngang, trừ khi quyền hủy ngang được bên đề nghị quy định trước trong đề nghị. Mặc dù Điều 393 BLDS 2005 đưa ra thời điểm “bên được đề nghị trả lời chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng” làm căn cứ để xác định hiệu lực của thông báo hủy bỏ đề nghị của bên đề nghị, nhưng lại không nêu rõ thời điểm nào được coi là bên được đề nghị trả lời chấp nhận đề nghị. Nếu bên được để nghị trả lời chấp nhận bằng miệng, thì thời điểm đó dễ dàng xác định là thời điểm bên đề nghị nhận được thông báo bằng miệng, nhưng nếu bên được đề nghị trả lời chấp nhận dưới dạng văn bản (bằng thư, điện tín, fax…), thì thời điểm bên được đề nghị trả lời là thời điểm người đó thể hiện xong ý chí chấp nhận của mình dưới dạng văn bản hay là thời điểm thông báo về việc chấp nhận đề nghị được gửi đi…, đó là một điểm bế tắc của BLDS. Vì vậy, Điều 393 BLDS 2005 cần được sửa đổi, bổ sung theo hướng tiếp thu các giải pháp được thừa nhận chung được quy định tại Điều 16 của CISG và Điều 2.1.4 của PICC; hoặc nếu giữ nguyên Điều 393 thì BLDS 2005 cũng nên quy định rõ thời điểm bên được đề nghị trả lời chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng. Đó là thời điểm “bên được đề nghị gửi chấp nhận đề nghị cho bên đề nghị”.

Chú thích:

(1) Steven Emanuel and Steven Knowles (1991), Contracts(Fourth Edition), Emanuel Law Outlines, Inc, New York, p10.

(2) Nguồn: http://www.law.unlv.edu/faculty/rowley/Lefkowitz.pdf.

(3) Nguồn: http://cisgw3.law.pace.edu/cases/941110a3.html

(4) Nhà pháp luật Việt Pháp,Bộ nguyên tắc của UNIDROIT về Hợp đồng thương mại Quốc tế 2004, Nxb. Tư pháp, tr. 82.

(5) Nguồn: http://cisgw3.law.pace.edu/cases/970926s1.html

(6) UNCITRAL (2008), Digest of Case Law on the United Nations Convention on the International Sale of Goods, New York, p. 58

(7) Nhà pháp luật Việt Pháp, Bộ nguyên tắc của UNIDROIT về Hợp đồng thương mại Quốc tế 2004, Nxb. Tư pháp, tr. 87.

(8) Nhà pháp luật Việt Pháp, Bộ nguyên tắc của UNIDROIT về Hợp đồng thương mại Quốc tế 2004, Nxb. Tư Pháp, tr. 88.

SOURCE: TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP ĐIỆN TỬ

Trích dẫn từ: http://www.nclp.org.vn/ban_ve_du_an_luat/kinh-te-dan-su/sua-111oi-bo-sung-cac-quy-111inh-lien-quan-111en-111e-nghi-giao-ket-hop-111ong-trong-bo-luat-dan-su

0

0

Like this:

Like

Loading…

Related

Văn Bản Pháp Luật Hình Sự

Bộ Luật Hình Sự Việt Nam Đang Có Hiệu Lực Pháp Luật Là, Bộ Luật Hình Sự Pháp, Văn Bản Pháp Luật Hình Sự, Bộ Luật Hình Sự Cộng Hòa Pháp, Bộ Luật Hình Sự Nhà Xuất Bản Tư Pháp, Văn Bản Pháp Luật Hình Sự Mới Nhất, ưu Điểm Của Hình Thức Văn Bản Pháp Luật, Báo Cáo Tình Hình Hợp Tác Quốc Tế Về Pháp Luật, Hình Thức Nhà Nước Và Pháp Luật, Báo Cáo Tình Hình Thi Hành Pháp Luật Năm 2019, Báo Cáo Tình Hình Hợp Tác Quốc Tế Về Pháp Luật Năm 2019, Vấn Đề Mở Rộng Nguồn Của Pháp Luật Hình Sự Việt Nam, Hiểu Biết Của Đồng Chí Về Vi Phạm Pháp Luật, Kỷ Luật Và Trách Nhiệm Pháp Lý? Các Giải Pháp Phòng, Ch, Hiểu Biết Của Đồng Chí Về Vi Phạm Pháp Luật, Kỷ Luật Và Trách Nhiệm Pháp Lý? Các Giải Pháp Phòng, Ch, Hiểu Biết Của Đồng Chí Về Vi Phạm Pháp Luật, Kỷ Luật Và Trách Nhiệm Pháp Lý? Các Giải Pháp Phòng, Ch, Tình Hình Tệ Nạn Xã Hội, Vi Phạm Kỷ Luật, Pháp Luật Có Liên Quan Đến Quân Đội, Hình Thức Tuyên Truyền Pháp Luật Trên Thế Giới, Hoạt Động Của Luật Sư, Trợ Giúp Viên Pháp Lý Trong Các Vụ Việc Hình Sự, Tiểu Luận Pháp Luật Và Hệ Thống Pháp Luật Xhcn Việt Nam, Pháp Luật Về Bảo Vệ Quyền Lợi Người Tiêu Dùng Với Pháp Luật Thương Mại, Pháp Luật Và Thực Hiện Pháp Luật Trong Nhà Nước Xhcnvn, Pháp Luật Quốc Tế, Pháp Luật Nước Ngoài Về Bảo Vệ Quyền Trẻ Em, Văn Bản Pháp Luật Môn Học Lý Luận Nhà Nước Và Pháp Luật, Báo Cáo Kết Quả Qua Giám Sát Việc Tuân Thủ Hiến Pháp Và Pháp Luật Của Hội Đồng Nhân Dân Xã, Quy Định Pháp Luật Về Khiếu Nại Là Cơ Sở Pháp Lý Để Công Dân Thực Hiện Qu, Pháp Luật Về Tuyển Dụng Viên Chức ở Vn Hiện Nay Trạg Và Giải Pháp, Giải Thích Câu Tục Ngiải Pháp Chủ Yêu Đường Lối, Chính Sách, Pháp Luật Của Đẩng, Nhà Nươc…, Sống Và Làm Việc Theo Hiến Pháp Và Pháp Luật, Một Số Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Hoạt Động Thu Thập Chứng Cứ Của Người Bào Chữa Trong Tố Tụn, Một Số Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Hoạt Động Thu Thập Chứng Cứ Của Người Bào Chữa Trong Tố Tụn, Văn Bản Pháp Luật Nào Dưới Đây Có Hiệu Lực Pháp Lý Cao Nhất, Biện Pháp Xử Lý Văn Bản Pháp Luật Khiếm Khuyết, Phương Pháp Nghiên Cứu Khoa Học Pháp Luật, Khái Niệm Chính Sách Pháp Luật Và Hệ Thống Chính Sách Pháp Luật, Văn Bản Pháp Luật Là Gì Có Mấy Loại Văn Bản Pháp Luật, Giáo Trình Luật Tố Tụng Hình Sự Đại Học Luật Hà Nội, Phạm Pháp Hình Sự Là Gì, Luật Phòng Chống Bệnh Truyền Nhiễm Thư Viện Pháp Luật, Nghị Định Kiểm Tra Xử Lý Kỷ Luật Trong Thi Hành Pháp Luật Về Xử Lý Vi Phạm , Dự Thảo Luật Sửa Đổi Bổ Sung Một Số Điều Của Luật Giám Định Tư Pháp, Giáo Trình Luật Hiến Pháp Khoa Luật Đhqghn, Phòng Chống Vi Phạm Kỷ Luật,pháp Luật Trong Quân Đội, Văn Bản Pháp Luật Dành Cho Học Phần Luật Kinh Doanh, Luật Ban Hành Văn Bản Quy Phạm Pháp Luật Số 80/2015/qh13, Quản Trị Công Ty Luật Theo Pháp Luật Việt Nam, Chương Trình Khung Pháp Luật Đại Cương Đại Học Luật Hà Nội, Văn Bản Pháp Luật Hiến Pháp, Văn Bản Pháp Luật Có Giá Trị Pháp Lý Cao Nhất, Dựa Vào Quy Luật Của Các Số Trong Hình A Và Hình B Hãy Điền Số Thích Hợp Vào ô Trống Trong Hình C, Phương Pháp Siêu Hình, Tương Trợ Tư Pháp Về Hình Sự Asean, Giáo Trình Luật Hiến Pháp Đại Học Luật Hà Nội, Điều 4 Luật Ban Hành Văn Bản Pháp Luật 2015, Dự Thảo Luật Ban Hành Văn Bản Quy Phạm Pháp Luật, Lý Luận Nhà Nước Và Pháp Luật Luật Lao Động, Điều Luật Trong Bộ Luật Hình Sự, Giáo Trình Luật Hình Sự Đại Học Luật Hà Nội Pdf, Luật 125i Điều 3 Bộ Luật Hình Sự, Bộ Luật Quốc Triều Hình Luật, Giáo Trình Luật Hình Sự Đại Học Luật Hà Nội, Mô Hình Pháp Lý Cho Doanh Nghiệp Điện Tử, Phương Pháp Luận Siêu Hình, Nội Dung Và Phương Pháp Lập Báo Cáo Tình Hình Tài Chính, Luật Ban Hành Văn Bản Pháp Luật 1996, Vai Trò Của Luật Sư:luật Sư Bảo Vệ Quyền Và Lợi ích Hợp Pháp Cho Nguyên Đơn, Luật Ban Hành Văn Bản Quy Phạm Pháp Luật, Luật Phổ Biến Giáo Dục Pháp Luật, Đề Thi Môn Xây Dựng Văn Bản Pháp Luật Trường Đại Học Luật Hà Nội, Lý Luận Nhà Nước Và Pháp Luật Đại Học Luật Hà Nội, Điều 4 Luật Ban Hành Văn Bản Pháp Luật, Tiếp Cận Sớm Trợ Giúp Pháp Lý Trong Các Quá Trình Tố Tụng Hình Sự, Phân Dạng Và Phương Pháp Giải Các Chuyên Đề Hình Học 10 , Báo Cáo Tổng Kết Tình Hình Thực Hiện 08 Năm Pháp Lệnh Xử Lý Vi Phạm, Bien Phap To Chuc Day Hoc Nhom Theo Mo Hinh Truong Hoc Moi Viet Nam, Hoạt Động Tương Trợ Tư Pháp Hình Sự Giữa Các Nước Asean, Giải Pháp Quản Lý Bảo Vệ Chủ Quyền Biển Đảo Trong Tinh Hinh Moi, Bộ Luật Hình Sự Là Văn Bản Dưới Luật, Hình Thức, Phương Pháp Bồi Dưỡng Cán Bộ Giảng Dạy Chính Trị Trong Quân Đội, Tăng Cường Quản Lý, Giáo Dục Chấp Hành Kỷ Luật; Phòng Ngừa, Ngăn Chặn Vi Phạm Pháp Luật Và Vi Phạm K, Tăng Cường Quản Lý, Giáo Dục Chấp Hành Kỷ Luật; Phòng Ngừa, Ngăn Chặn Vi Phạm Pháp Luật Và Vi Phạm K, Bài Tham Luận Về Quản Lý Rèn Luyện Kỷ Luật , Chấp Hành Pháp Luật Trong Quân Đội, Giải Pháp Cơ Bản Đam Bảo An Ninh Quốc Gia Trong Tình Hình Mới, Bộ Luật Hình Sự 175, Bộ Luật Hình Sự 015, Bộ Luật Hình Sự 199, Bộ Luật Hình Sự Qua Các Năm, Bộ Luật Hình Sự Cờ Bạc, Bộ Luật Hình Sự Có Từ Bao Giờ, Bộ Luật Hình Sự Về Trẻ Em, Luật Tố Tục Hình Sự, Luật Hình Sự, Bộ Luật Hình Sự Số 37, Bộ Luật Hình Sự Năm 99, Bộ Luật Hình Sự Mỹ, Bộ Luật Hình Sự Ra Đời Năm Nào, Báo Cáo Sơ Kết Bộ Luật Hình Sự, Bộ Luật Hình Sự Tội Lừa Đảo, Bộ Luật Hình Sự Đức, Bộ Luật Hình Sự, Bộ Luật Hình Sự Số 100,

Bộ Luật Hình Sự Việt Nam Đang Có Hiệu Lực Pháp Luật Là, Bộ Luật Hình Sự Pháp, Văn Bản Pháp Luật Hình Sự, Bộ Luật Hình Sự Cộng Hòa Pháp, Bộ Luật Hình Sự Nhà Xuất Bản Tư Pháp, Văn Bản Pháp Luật Hình Sự Mới Nhất, ưu Điểm Của Hình Thức Văn Bản Pháp Luật, Báo Cáo Tình Hình Hợp Tác Quốc Tế Về Pháp Luật, Hình Thức Nhà Nước Và Pháp Luật, Báo Cáo Tình Hình Thi Hành Pháp Luật Năm 2019, Báo Cáo Tình Hình Hợp Tác Quốc Tế Về Pháp Luật Năm 2019, Vấn Đề Mở Rộng Nguồn Của Pháp Luật Hình Sự Việt Nam, Hiểu Biết Của Đồng Chí Về Vi Phạm Pháp Luật, Kỷ Luật Và Trách Nhiệm Pháp Lý? Các Giải Pháp Phòng, Ch, Hiểu Biết Của Đồng Chí Về Vi Phạm Pháp Luật, Kỷ Luật Và Trách Nhiệm Pháp Lý? Các Giải Pháp Phòng, Ch, Hiểu Biết Của Đồng Chí Về Vi Phạm Pháp Luật, Kỷ Luật Và Trách Nhiệm Pháp Lý? Các Giải Pháp Phòng, Ch, Tình Hình Tệ Nạn Xã Hội, Vi Phạm Kỷ Luật, Pháp Luật Có Liên Quan Đến Quân Đội, Hình Thức Tuyên Truyền Pháp Luật Trên Thế Giới, Hoạt Động Của Luật Sư, Trợ Giúp Viên Pháp Lý Trong Các Vụ Việc Hình Sự, Tiểu Luận Pháp Luật Và Hệ Thống Pháp Luật Xhcn Việt Nam, Pháp Luật Về Bảo Vệ Quyền Lợi Người Tiêu Dùng Với Pháp Luật Thương Mại, Pháp Luật Và Thực Hiện Pháp Luật Trong Nhà Nước Xhcnvn, Pháp Luật Quốc Tế, Pháp Luật Nước Ngoài Về Bảo Vệ Quyền Trẻ Em, Văn Bản Pháp Luật Môn Học Lý Luận Nhà Nước Và Pháp Luật, Báo Cáo Kết Quả Qua Giám Sát Việc Tuân Thủ Hiến Pháp Và Pháp Luật Của Hội Đồng Nhân Dân Xã, Quy Định Pháp Luật Về Khiếu Nại Là Cơ Sở Pháp Lý Để Công Dân Thực Hiện Qu, Pháp Luật Về Tuyển Dụng Viên Chức ở Vn Hiện Nay Trạg Và Giải Pháp, Giải Thích Câu Tục Ngiải Pháp Chủ Yêu Đường Lối, Chính Sách, Pháp Luật Của Đẩng, Nhà Nươc…, Sống Và Làm Việc Theo Hiến Pháp Và Pháp Luật, Một Số Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Hoạt Động Thu Thập Chứng Cứ Của Người Bào Chữa Trong Tố Tụn, Một Số Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Hoạt Động Thu Thập Chứng Cứ Của Người Bào Chữa Trong Tố Tụn, Văn Bản Pháp Luật Nào Dưới Đây Có Hiệu Lực Pháp Lý Cao Nhất, Biện Pháp Xử Lý Văn Bản Pháp Luật Khiếm Khuyết, Phương Pháp Nghiên Cứu Khoa Học Pháp Luật, Khái Niệm Chính Sách Pháp Luật Và Hệ Thống Chính Sách Pháp Luật, Văn Bản Pháp Luật Là Gì Có Mấy Loại Văn Bản Pháp Luật, Giáo Trình Luật Tố Tụng Hình Sự Đại Học Luật Hà Nội, Phạm Pháp Hình Sự Là Gì, Luật Phòng Chống Bệnh Truyền Nhiễm Thư Viện Pháp Luật, Nghị Định Kiểm Tra Xử Lý Kỷ Luật Trong Thi Hành Pháp Luật Về Xử Lý Vi Phạm , Dự Thảo Luật Sửa Đổi Bổ Sung Một Số Điều Của Luật Giám Định Tư Pháp, Giáo Trình Luật Hiến Pháp Khoa Luật Đhqghn, Phòng Chống Vi Phạm Kỷ Luật,pháp Luật Trong Quân Đội, Văn Bản Pháp Luật Dành Cho Học Phần Luật Kinh Doanh, Luật Ban Hành Văn Bản Quy Phạm Pháp Luật Số 80/2015/qh13, Quản Trị Công Ty Luật Theo Pháp Luật Việt Nam, Chương Trình Khung Pháp Luật Đại Cương Đại Học Luật Hà Nội, Văn Bản Pháp Luật Hiến Pháp, Văn Bản Pháp Luật Có Giá Trị Pháp Lý Cao Nhất, Dựa Vào Quy Luật Của Các Số Trong Hình A Và Hình B Hãy Điền Số Thích Hợp Vào ô Trống Trong Hình C, Phương Pháp Siêu Hình,