Top 12 # Xem Nhiều Nhất Viết Văn Bản Nghị Luận Về Bảo Vệ Môi Trường Mới Nhất 6/2023 # Top Like | Athena4me.com

Nghị Luận Xã Hội Về Bảo Vệ Môi Trường

Bài làm

Ngày nay, không chỉ ở Việt Nam mà trên Thế Giới, ô nhiễm môi trường đang trở thành một vấn đề vô cùng bức thiết bởi sự tàn phá, sự hủy hoại của con người. Bởi vậy cho nên bảo vệ môi trường là một việc làm cần được tuyên truyền và thực hiện một cách nhanh chóng để đẩy lùi nạn ô nhiễm, trả lại không khí trong lành, nguồn nước sạch, khuôn viên thoáng mát và đảm bảo cho sức khỏe của cộng đồng. Bảo vệ môi trường không phải là một giải pháp hay một việc làm tức thời, nó là cả một quá trình mà toàn bộ con người cùng tham gia thì mới hiệu quả được.

Việt Nam đang trên đà phát triển, vì vậy mà việc xây dựng những công trình, cơ sở hạ tầng luôn được thực hiện và triển khai mỗi ngày. Chính vì sự xuất hiện của các công trình đó, các tòa nhà, khu đô thị, trung tâm công nghiệp… đã biến cả thành phố nói riêng và đất nước nói chung trở thành một công trường khổng lồ, ngổn ngang. Việc xây dựng cơ sở hạ tầng kéo theo đó là việc thải ra vô số các rác thải xây dựng, những rác thải không thể và có thể xử lí được nhưng chẳng ai xử lí. Những rác thải rắn được thu về chỉ chiếm hơn 60%, chưa thể đáp ứng được nhu cầu về bảo vệ môi trường. Những nhà đầu tư, những công trình thi công thường tự cho rằng việc thải lại những loại rác xây dựng tại những bãi đất trống bỏ hoang sẽ chẳng ảnh hưởng đến ai, nhưng thực chất lại gây hại cho toàn thành phố. Ai sẽ là người chịu trách nhiệm di dời và xử lí khi chẳng biết ai là người bỏ lại để xử lí họ, và ai đủ quan tâm đến những bãi đất bỏ hoang không tên đó mà dọn dẹp? Không chỉ ở các công trình mà ngay tại những nhà máy, đặc biệt là các khu công nghiệp thường xuyên đổ nước thải ra sông, ra hồ làm ô nhiễm trầm trọng nước sinh hoạt của người dân. Những người dân sống gần những khu công nghiệp đó có nguy cơ và tỉ lệ mắc bệnh ung thư và các bệnh về đường hô hấp cao hơn những nơi khác. Một cá nhân không thể huy hoại được cả xã hội nhưng cả tập thể thì có, chính vì quy mô rộng như vậy mà xã hội đang bị ô nhiễm nặng nề.

Vậy, nguyên nhân của tình trạng này là do đâu? Các nhà máy, công trình chưa thực sự có quy trình đảm bảo, những hệ thống xử lí rác thải và nguồn nước để không ảnh hưởng đến người dân. Những người dân thì cũng chưa có ý thức nghiêm ngặt để bảo vệ môi trường. Những hành động bảo vệ môi trường chưa được lan tỏa đến tất cả những người dân. Thêm vào đó là sự thờ ơ, vô trách nhiệm của các vị lãnh đạo, những người trực tiếp triển khai công trình thường xuyên rút ruột công trình, lấy ngân sách của nhà nước để vụ lợi cá nhân, gây ra hậu quả không hề nhỏ. Dù có rất nhiều nguyên nhân sâu xa về tình trạng này nhưng nguyên nhân chính vẫn là do ý thức của con người. Vì vậy khi triển khai về bảo vệ môi trường, ta cần phải nâng cao nhận thức và hành vi của họ, để họ thấy được sự cấp bách và cần thiết của vấn đề này.

Để bảo vệ môi trường thì có rất nhiều cách. Hiện tại rất nhiều người đang triển khai hành động giảm thải rác nhựa bằng cách sự dụng những chiếc túi vải khi đi chợ, mang theo hộp cá nhân khi đi mua đồ tại các cửa hàng để không mang theo túi nhựa về nhà. Nhiều siêu thị đã dùng lá chuối gói thực phẩm thay vì sử dụng túi ni lông như trước kia. Các cửa hàng đồ ăn, đồ uống cũng tích cực đưa ra khuyến mãi, quà tặng khi cá nhân đến mua hàng mang theo sẵn cốc, hộp để đựng. Đây là một việc làm tốt, tích cực và đang dần lan rộng tới cộng đồng. Bên cạnh đó, các trường học cũng cần phải chú trọng trong việc dạy các học sinh về cách phân loại rác để giúp rút quá trình phân loại rác cực khổ từ các công nhân vệ sinh môi trường. Uỷ ban nhân dân của làng, xã cũng nên có kế hoạch tổng hợp rác về chung một địa điểm tập kết để mang đi xử lí, xây dựng đường làng, ngõ xóm xanh – sạch – đẹp.

Kết lại, bảo vệ môi trường không phải là vấn đề của riêng ai mà là vấn đề chung của toàn xã hội. Cả xã hội cần chung tay bảo vệ môi trường vì một cuộc sống tươi đẹp hơn, phát triển hơn, vì tương lai của con em mỗi chúng ta được sống trong một môi trường đảm bảo nhất.

Thông qua bài văn Nghị luận về bảo vệ môi trường trong bài viết số 6 lớp 11, Cunghocvui hi vọng các em sẽ dựa vào bài viết này để có được một bài văn thật hay. Chúc các em học tập tốt!

Phí Bảo Vệ Môi Trường

Đối tượng chịu phí bảo vệ môi trường đối với hoạt động khai thác khoáng sản là: Đá, tràng thạch, sỏi, sét, thạch cao, cát, đất, than, nước khoáng thiên nhiên và sa khoáng titan (ilmenet).

Đối tượng nộp phí bảo vệ môi trường đối với khai thác khoáng sản là các tổ chức, cá nhân khai thác các loại khoáng sản nêu trên.

Tờ khai phí bảo vệ môi trường áp dụng đối với cơ sở khai thác khoáng sản theo mẫu số 01/BVMT ban hành kèm theo Thông tư 156/2013/TT-BTC của Bộ Tài chính.

Tờ khai phí bảo vệ môi trường áp dụng đối với cơ sở thu mua khoáng sản nộp phí thay người khai thác theo mẫu số 02/BVMT ban hành kèm theo Thông tư 156/2013/TT-BTC của Bộ Tài chính .

Hồ sơ kê khai phí bảo vệ môi trường là Tờ khai phí bảo vệ môi trường áp dụng đối với cơ sở khai thác khoáng sản theo mẫu số 01/BVMT và Tờ khai phí bảo vệ môi trường áp dụng đối với cơ sở thu mua khoáng sản nộp phí thay người khai thác theo mẫu số 02/BVMT.

Tờ khai gửi đến cơ quan thuế được coi là hợp lệ khi:

Tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản phải nộp hồ sơ kê khai tại cơ quan thuế quản lý trực tiếp

Tổ chức, cá nhân thu mua gom khoáng sản đăng ký nộp thay người khai thác thì nộp hồ sơ kê khai với chi cục thuế quản lý nơi có khoáng sản khai thác.

Phí bảo vệ môi trường là loại kê khai theo tháng.

Thời hạn nộp hồ sơ kê khai tháng chậm nhất là ngày thứ hai mươi của tháng tiếp theo tháng phát sinh nghĩa vụ phí bảo vệ môi trường.

Thời hạn nộp hồ sơ quyết toán năm chậm nhất là ngày thứ chín mươi, kể từ ngày kết thúc năm dương lịch hoặc năm tài chính.

Người nộp phí bảo vệ môi trường chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính trung thực, chính xác của việc lập tờ khai phí bảo vệ môi trường. Trường hợp cơ quan thuế qua công tác kiểm tra, thanh tra phát hiện các số liệu trên tờ khai là không trung thực, không chính xác, Người nộp phí bảo vệ môi trường sẽ bị xử phạt theo quy định của pháp luật.

Người nộp phí bảo vệ môi trường phải ghi đầy đủ các thông tin của kỳ kê khai phí (tháng) và các thông tin đã đăng ký thuế với cơ quan thuế theo hướng dẫn sau.

– [01] Kỳ tính thuế : kê khai cho kỳ kê khai nào (tháng)

– [02] Người nộp thuế: Người nộp phí phải ghi chính xác tên như tên đã đăng ký trong tờ khai đăng ký thuế.

– [03] Mã số thuế: Ghi mã số thuế được cơ quan thuế cấp khi đăng ký nộp thuế.

– [04],[05],[06] Địa chỉ, Quận/Huyện, Tỉnh/Thành phố: Ghi rõ số nhà, tổ, đường phố, Quận/Huyện, tỉnh/Thành phố theo địa chỉ đã đăng ký với cơ quan thuế.

– [07],[08],[09] Điện thoại, Fax, Email: Ghi số điện thoại, Fax, Email của Người nộp thuế để cơ quan thuế có thể liên lạc khi cần thiết.

Nếu có sự thay đổi các thông tin từ mã số [01] đến mã số [09], Người nộp phí phải thực hiện đăng ký bổ sung với cơ quan thuế theo quy định hiện hành và kê khai theo các thông tin đã đăng ký bổ sung với cơ quan thuế.

* (Mẫu số 01/BVMT)

Cột số (1): Số thứ tự từng loại khoáng sản

Cột số (2): Tên loại khoáng sản: Người nộp phí tính phí theo từng loại khoáng sản, với từng mức phí theo quy định hiện hành. Mỗi loại khoáng sản với mức thu phí riêng được kê khai vào một dòng của tờ khai.

Cột số (3): Đơn vị tính: Được căn cứ vào đơn vị tính của từng loại khoáng sản khai thác theo tấn, m3

Cột số (4): Số lượng khoáng sản khai thác: Số liệu ghi vào cột này là số lượng khoáng sản khai thác thực tế trong kỳ nộp phí, không phân biệt mục đích khai thác (để bán ngay, đem trao đổi, tiêu dùng nội bộ, dự trữ đưa vào sản xuất tiếp theo…) và công nghệ khai thác (thủ công, cơ giới) hoặc vùng, miền, điều kiện khai thác (vùng núi, trung du, đồng bằng, điều kiện khai thác khó khăn, phức tạp…).

Cột số (5): Mức phí : Số liệu ghi vào cột này được căn cứ vào mức thu tương ứng của từng loại khoáng sản khai thác trong kỳ theo quy định tại Nghị định số 12/2016/NĐ-CP của Chính phủ (có biểu đính kèm)

Cột số (6): Phí bảo vệ môi trường đối với khai thác khoáng sản phát sinh trong kỳ:

Số liệu ghi vào cột này được xác định đối với loại khoáng sản do nhà nước quy định như sau:

(Mẫu số 02/BVMT) cách kê khai như mẫu 01/BVM

Ví dụ: Công ty TNHH sản xuất vật liệu xây dựng Đại Minh có trụ sở chính tại Thị Trấn Văn Giang, tỉnh Hưng Yên. Theo báo cáo tháng 6 năm 2018 Công ty khai thác được 1.200 m3 đá để sản xuất xi măng, 500m3 cát vàng và 300 m3 sỏi.

Công ty kê khai Tờ khai phí bảo vệ môi trường theo mẫu tờ khai số 01/BVMT nộp cho cơ quan thuế trực tiếp quản lý.

Từ mã số [01] cho đến [09] công ty kê khai đầy đủ như hướng dẫn trên

Số tiền phí bảo vệ môi trường đối với khai thác khoáng sản phải nộp vào NSNN trong kỳ này là Bốn triệu hai trăm ngàn đồng chẵn.

Tôi cam đoan số liệu kê khai trên là đúng và chịu trách nhiệm trước pháp luật về số liệu đã kê khai./.

Người nộp thuế (ký tên, đóng dấu)

? Hoặc tổng đài giải đáp của Kế Toán Hà Nội 1900 6246

Pháp Luật Về Bảo Vệ Môi Trường Ở Singapore

Có được điều đó là do Chính phủ Singapore đã coi nhiệm vụ bảo vệ môi trường sinh thái là một nhiệm vụ chiến lược trong chính sách phát triển kinh tế – xã hội. Chính phủ Singapore đã tiến hành nhiều biện pháp kiểm soát và bảo vệ, trong đó có các biện pháp pháp lý.

Đạo luật về xuất nhập khẩu, quá cảnh chất thải nguy hiểm: Đạo luật này điều chỉnh việc xuất nhập khẩu và quá cảnh chất thải nguy hiểm và các chất khí thải khác.

2. Để đảm bảo cho các đạo luật có hiệu lực thi hành trên thực tế, thì các biện pháp cưỡng chế là không thể thiếu, do đó pháp luật về môi trường của Singapore cũng đã đặt ra các biện pháp cưỡng chế khác nhau cho các mức vi phạm pháp luật về môi trường như sau:

Biện pháp xử lý hình sự Pháp luật môi trường Singapore lấy chế tài hình sự là công cụ cơ bản để thực thi, biện pháp này được áp dụng đối với người bị kết án phạt tiền, phạt tù, bắt bồi thường và đối với những vi phạm nhỏ thì phạt cải tạo lao động bắt buộc (chỉ áp dụng với những bị cáo đủ 16 tuổi trở lên và đủ tiêu chuẩn y tế). Cụ thể là:

+ Hình phạt tiền:

Đây là hình phạt phổ biến nhất trong các đạo luật về môi trường của Singapore, phạt tiền được xem là công cụ hữu hiệu trong việc tăng cường hiệu lực pháp luật về bảo vệ môi trường của Singapore. Chánh án của Singapore trong vụ Chadrakumar – một vụ về đổ rác nơi công cộng vi phạm đạo luật về môi trường sức khoẻ cộng đồng đã tuyên bố: “… Việc áp dụng rộng rãi hình phạt tiền sẽ làm tăng hiệu quả trong việc trừng trị kẻ vi phạm và phòng ngừa các hành vi tương tự, phạt tiền có độ chính xác cao, tỉ mỉ cao, để thay đổi và vì thế càng trở nên có hiệu quả”.

Theo các đạo luật ở Singapore thì có nhiều mức độ vi phạt tiền khác nhau, tuỳ thuộc vào các đạo luật khác nhau và mức độ nguy hiểm của hành vi gây ra. Ví dụ trường hợp đổ rác nơi công cộng, nếu bị Toà án kết tội thì người vi phạm sẽ bị phạt đến 10.000$ với vi phạm lần đầu và nếu tái phạm sẽ bị phạt tới 20.000$.

Ngoài ra, các đạo luật về môi trường của Singapore cũng quy định phạt tiền một cách rất linh hoạt đối với các vi phạm ít nghiêm trọng, đó là việc cho phép người vi phạm trả một khoản tiền thích hợp cho Bộ Môi trường Singapore và vụ việc sẽ tự kết thúc mà không phải đưa ra Toà.

+ Hình phạt tù

Đây là chế tài nghiêm khắc nhất nhằm trừng trị những người vi phạm ngoan cố, khi mà các hành vi phạm tội có thể mang lại cho người phạm tội những khoản lợi nhuận lớn nếu họ không bị phát hiện và hình phạt tiền vẫn không ngăn chặn được các hành vi mà người đó gây ra. Ví dụ: theo Đạo luật về môi trường sức khoẻ cộng đồng và Đạo luật kiểm soát ô nhiễm thì những người vi phạm lần đầu bị buộc tội về hành vi đưa chất thải hoặc các chất độc hại vào nguồn nước ngầm có thể bị phạt tù đến 12 tháng. Đối với những người tái phạm thì có thể bị phạt tù với chế độ khắc nghiệt từ 1 đến 12 tháng.

+ Tạm giữ và tịch thu

Một số luật về môi trường quy định về việc tạm giữ và tịch thu các công cụ, phương tiện được sử dụng vào việc phạm tội. Ngoài ra, nếu trường hợp thực phẩm không phù hợp cho con người có thể bị tịch thu và tiêu huỷ theo Đạo luật về môi trường và sức khoẻ cộng đồng và Đạo luật về mua bán thực phẩm.

+ Lao động cải tạo bắt buộc

Bên cạnh các quy định cụ thể nêu trên, pháp luật về môi trường của Singapore cũng xác định trách nhiệm tuyệt đối với việc phạm tội mà có thể là nguyên nhân gây hại đối với môi trường hoặc sức khoẻ của cộng đồng nói chung, trong một số trường hợp toà án có thể phán quyết về hành vi phạm tội đã được thực hiện không cần công tố phải chứng minh bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi đó. Ví dụ: trường hợp Young Heng Yew (1996) bị buộc tội xả rác nơi công cộng là vi phạm phải chịu trách nhiệm tuyệt đối. Cụ thể là bị buộc tội vi phạm mục 18 (1) (a) của Đạo luật về môi trường sức khoẻ cộng đồng vì đã vứt một mẩu thuốc lá xuống sàn. Người này thừa nhận là có vứt mẩu thuốc lá xuống sàn nhưng khẳng định là anh ta có ý định nhặt mấu thuốc lá đó và cho vào nơi quy định, nhưng không kịp vì anh ta bị bắt ngay sau khi vừa vứt mẩu thuốc lá xuống sàn. Toà án cấp dưới kết luận anh ta không có tội với lập luận rằng công tố buộc tội không chứng minh được là người bị buộc tội này không có ý định nhặt mẩu thuốc lá để cho vào nơi quy định. Khi xem xét kháng nghị của công tố, Chánh án Singapore cho rằng: “Vi phạm quy định tại mục 18 (1)… là vi phạm thuộc loại “chịu trách nhiệm tuyệt đối”. Điều này không ám chỉ những vi phạm mà yếu tố chủ quan hoàn toàn không tồn tại, nó dùng để chỉ những vi phạm mà ở đó yếu tố chủ quan có lỗi không cần làm rõ ngay…, ngay hành vi vứt mẩu thuốc lá xuống sàn đã chứng tỏ đó là hành vi cố ý, việc buộc tội không cần phải làm sáng tỏ sự tồn tại của trạng thái lỗi trong ý thức”.

Biện pháp hành chính Tuy pháp luật Singapore xem chế tài hình sự là quan trọng nhất trong việc bảo vệ môi trường nhưng không vì thế mà xem nhẹ các chế tài hành chính và dân sự bởi nếu chỉ riêng chế tài hình sự thì không thể bảo vệ môi trường một cách có hiệu quả. Không giống như các chế tài hình sự và dân sự thường là các biện pháp tức thời, các chế tài hành chính thường có hiệu lực trong việc bảo đảm các biện pháp liên tục, đặc biệt là các hoạt động gây ô nhiễm. Một số chế tài hành chính đã được chấp nhận là các kế hoạch sử dụng đất, giấy phép và việc ban hành cá mệnh lệnh thông báo. Cụ thể là:

+ Kế hoạch sử dụng đất

+ Giấy phép, giấy chứng nhận

Việc cấp giấy phép và giấy chứng nhận thuộc thẩm quyền của Bộ Môi trường nhằm đảm bảo kiểm soát và quản lý chặt chẽ các hoạt động có khả năng tác động có hại tới môi trường. Cụ thể là trước khi một hoạt động được phép tiến hành, Bộ Môi trường phải đảm bảo là hoạt động đó sẽ không gây ra tác hại gì cho môi trường. Ví dụ về Đạo luật kiểm soát ô nhiễm về môi trường, các hoạt động công nghiệp có khả năng gây ô nhiễm không khí đều phải được phép của Bộ Môi trường trước khi công việc được triển khai.

+ Thông báo và lệnh

Do tính cấp thiết của pháp luật về môi trường cho nên trong các Đạo luật về môi trường cũng đã trao cho Bộ Môi trường một số quyền hạn để thực thi các công việc khẩn cấp, nhằm thi hành ngay bất kỳ nhiệm vụ nào nếu nhiệm vụ đó là cấp bách đối với sự an toàn xã hội, sức khoẻ hay dịch vụ cộng đồng. Ví dụ: trong điều 90 Luật Bảo vệ môi trường quy định: “trong trường hợp khẩn cấp, người có thẩm quyền có thể chỉ đạo thực hiện ngay lập tức bất kỳ nhiệm vụ hoặc làm bất cứ việc gì theo quy định tại Luật này, nếu người có thẩm quyền thấy công việc đó là cần thiết cho sức khoẻ cộng đồng hoặc cho sự an toàn của xã hội”.

Biện pháp dân sự Bên cạnh các chế tài về Hình sự và Hành chính, các Đạo luật môi trường Singapore cũng quy định nhiều hình thức chế tài dân sự. Cụ thể như: Yêu cầu cá nhân gây ô nhiễm phải nộp phạt, bồi thường thiệt hại, chi phí và các khoản phí tổn mà cơ quan có thẩm quyền phải chịu để làm sạch môi trường… Theo Điều 97 của Luật Bảo vệ môi trường của Singapore thì Chính phủ có thể thu giữ lại từ người sở hữu hoặc quản lý tài sản các phí tổn và chi phí đã được sử dụng trong quá trình thực hiện bất kỳ nào đã được quy định trong luật. Trong vòng 14 ngày theo quy định, nếu chi phí này chưa được thanh toán thì vụ việc sẽ được đưa ra Toà.

Nhiều Quy Định Mới Về Bảo Vệ Môi Trường

(TN&MT) – Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 40/2019/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật Bảo vệ môi trường (BVMT). Với 7 Điều, 81 trang nội dung, 121 trang phụ lục và biểu mẫu kèm theo, Nghị định số 40/2019/NĐ-CP đã giải quyết những vấn đề còn chồng chéo, lấp khoảng trống trong các văn bản luật trước đó.

Bãi bỏ, bổ sung nhiều điều, khoản trong 4 Nghị định

Nghị định 40/2019/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của 4 Nghị định gồm: Nghị định 18/2015/NĐ-CP về quy hoạch bảo vệ môi trường, đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường và kế hoạch bảo vệ môi trường; Nghị định 19/2015/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật BVMT; Nghị định 38/2015/NĐ-CP quy định về quản lý chất thải và phế liệu; Nghị định 127/2014/NĐ-CP quy định điều kiện của tổ chức hoạt động dịch vụ quan trắc môi trường.

Về việc lập báo cáo đánh giá tác động môi trường

Nghị định 40/2019/NĐ-CP bổ sung chi tiết các nội dung chính trong báo cáo ĐTM. Theo đó, đối với dự án mở rộng quy mô, nâng công suất hoặc thay đổi công nghệ của cơ sở, khu công nghiệp đang hoạt động, trong báo cáo đánh giá tác động môi trường phải có thêm một phần đánh giá về tình hình hoạt động và thực hiện công tác bảo vệ môi trường của cơ sở, khu công nghiệp hiện hữu; đánh giá tổng hợp tác động môi trường của cơ sở, khu công nghiệp hiện hữu và dự án mở rộng quy mô, nâng công suất hoặc thay đổi công nghệ của dự án mới.

Đối với các dự án đầu tư xây dựng khu công nghiệp và các dự án thuộc loại hình sản xuất công nghiệp có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường, trong báo cáo đánh giá tác động môi trường phải có phương án phòng ngừa và ứng phó sự cố môi trường đối với khí thải; phương án phòng ngừa và ứng phó sự cố môi trường đối với nước thải theo quy định tại Nghị định số 38/2015/NĐ-CP.

Đối với dự án khai thác cát, sỏi và khoáng sản khác trên sông, suối, kênh, rạch, hồ chứa và vùng cửa sông, ven biển phải có nội dung đánh giá tác động tới lòng, bờ, bãi sông theo quy định của pháp luật về tài nguyên nước…

Các biện pháp xử lý chất thải, đối với dự án đầu tư xây dựng có công trình xử lý chất thải để thẩm định về môi trường phải có phần thuyết minh và phương án thiết kế cơ sở (đối với dự án có nhiều bước thiết kế) hoặc phương án thiết kế bản vẽ thi công của công trình, hạng mục công trình xử lý chất thải theo quy định của pháp luật về xây dựng; có phương án phòng ngừa và ứng phó sự cố môi trường trong quá trình thi công xây dựng, vận hành thử nghiệm và khi dự án đi vào vận hành; chương trình quản lý và giám sát môi trường được thực hiện trong giai đoạn thi công xây dựng dự án; dự kiến chương trình quản lý và quan trắc môi trường trong quá trình vận hành thử nghiệm và khi dự án đi vào vận hành…

Đặc biệt, Nghị định bổ sung thêm nội dung quy định số lượng và thời điểm lập báo cáo đánh giá tác động môi trường vào Điều 14, Nghị định 18/2015/NĐ-CP. Cụ thể, một dự án đầu tư chỉ lập một báo cáo đánh giá tác động môi trường.Chủ dự án trình cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường trước các thời điểm sau đây: Đối với dự án khai thác khoáng sản, trình trước khi cơ quan có thẩm quyền thẩm định để cấp, điều chỉnh giấy phép khai thác khoáng sản. Đối với dự án thăm dò, khai thác dầu khí, trình trước khi cơ quan có thẩm quyền thẩm định, phê duyệt kế hoạch thăm dò, kế hoạch phát triển mỏ. Đối với dự án đầu tư xây dựng, trình trước khi cơ quan có thẩm quyền thẩm định báo cáo nghiên cứu khả thi, báo cáo kinh tế – kỹ thuật hoặc thiết kế cơ sở, thiết kế bản vẽ thi công (trường hợp dự án chỉ yêu cầu thiết kế một bước…

Nhóm I gồm: khai thác, làm giàu quặng khoáng sản độc hại; luyện kim; tinh chế, chế biến khoáng sản độc hại; phá dỡ tàu biển; sản xuất giấy, bột giấy, ván sợi (MDF, HDF); sản xuất hoá chất, phân bón hóa học (trừ loại hình phối trộn); thuốc bảo vệ thực vật hóa học; nhuộm (vải, sợi), giặt mài; thuộc da; lọc hóa dầu; nhiệt điện than, sản xuất than cốc, khí hóa than, điện hạt nhân. Nhóm II gồm: xử lý, tái chế chất thải; sử dụng phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất; có công đoạn xi mạ, làm sạch bề mặt kim loại bằng hóa chất; sản xuất pin, ắc quy; sản xuất clinker. Nhóm III gồm: chế biến mủ cao su; chế biến tinh bột sắn; bột ngọt; bia, rượu, cồn công nghiệp; chế biến mía đường; chế biến thủy sản, giết mổ gia súc, gia cầm; sản xuất linh kiện, thiết bị điện, điện tử.

Lãnh đạo Tổng cục Môi trường cho biết, Nghị định có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2019, do đó, các hồ sơ đã được tiếp nhận trước ngày Nghị định này có hiệu lực (trừ các điều, khoản chuyển tiếp quy định tại Điều 22, Nghị định số 18/2015/NĐ-CP và Điều 64, Nghị định số 38/2015/NĐ-CP) tiếp tục được giải quyết theo quy định của các Nghị định tại thời điểm tiếp nhận, trừ trường hợp tổ chức, cá nhân đã nộp hồ sơ có yêu cầu thực hiện theo quy định của Nghị định này…

BBT (Nguồn: báo TN&MT)