Top 8 # Xem Nhiều Nhất Vì Sao Ban Hành Nghị Quyết Số 35 Mới Nhất 3/2023 # Top Like | Athena4me.com

Vì Sao Đảng Ta Ban Hành Nghị Quyết Này?

TRIỂN KHAI THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT TRUNG ƯƠNG 4 KHÓA XII:

Trong Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, Đảng ta đánh giá: Dưới sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng, nhân dân ta đã giành được hết thắng lợi này đến thắng lợi khác, lập nên những kỳ tích trong thế kỷ XX.

Trong thời kỳ đổi mới, Đảng đã lãnh đạo đất nước vượt qua khó khăn, thách thức và đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; giữ vững ổn định chính trị; phát triển kinh tế – xã hội, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; tăng cường quốc phòng – an ninh; mở rộng quan hệ đối ngoại, nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế; củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Đảng ta xứng đáng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ và vị thế như ngày nay.

Bên cạnh đó, Nghị quyết cũng đã chỉ ra công tác xây dựng Đảng còn không ít hạn chế, khuyết điểm: Công tác giáo dục chính trị tư tưởng, nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, giảng dạy và học tập chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh chưa đáp ứng yêu cầu. Nội dung sinh hoạt đảng ở nhiều nơi còn đơn điệu, hình thức, hiệu quả chưa cao.

Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của không ít tổ chức đảng còn thấp, thậm chí có nơi mất sức chiến đấu. Công tác tổ chức, cán bộ và quản lý cán bộ, đảng viên còn yếu kém. Nhiều cán bộ, đảng viên, trong đó có người đứng đầu chưa thể hiện tính tiên phong, gương mẫu; còn biểu hiện quan liêu, cửa quyền, chưa thực sự sâu sát thực tế, cơ sở. Công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng chưa đủ sức răn đe, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái.

Thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, một số việc chưa đạt mục tiêu, yêu cầu đề ra. Tự phê bình và phê bình nhiều nơi mang tính hình thức; vẫn còn tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm; một số cán bộ, đảng viên thiếu tự giác nhận khuyết điểm và trách nhiệm của mình trong công việc được giao. Việc phân định thẩm quyền, trách nhiệm, mối quan hệ công tác của người đứng đầu với tập thể cấp ủy, thủ trưởng cơ quan, đơn vị chưa rõ ràng.

Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi, có mặt, có bộ phận còn diễn biến tinh vi, phức tạp hơn; tham nhũng, lãng phí, tiêu cực vẫn còn nghiêm trọng, tập trung vào số đảng viên có chức vụ trong bộ máy Nhà nước. Tình hình mâu thuẫn, mất đoàn kết nội bộ không chỉ ở cấp cơ sở mà ở cả một số cơ quan Trung ương, tập đoàn kinh tế, tổng công ty.

Nhiều tổ chức đảng, đảng viên còn hạn chế trong nhận thức, lơ là, mất cảnh giác, lúng túng trong nhận diện và đấu tranh, ngăn chặn “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; việc đấu tranh, phản bác những luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch, tổ chức phản động, phần tử cơ hội, bất mãn chính trị còn bị động, thiếu sắc bén và hiệu quả chưa cao. Trong khi đó, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường, có thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực xấu, thù địch, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. 

Những hạn chế, khuyết điểm nêu trên làm giảm sút vai trò lãnh đạo của Đảng; làm tổn thương tình cảm và suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng, là một nguy cơ trực tiếp đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ.

Chính vì vậy, Hội nghị Trung ương 4 khóa XII đã ban hành Nghị quyết 04-NQ/TW với mục tiêu: Nhận thức sâu sắc về nguy cơ, nhận diện đúng những biểu hiện và đề ra các giải pháp phù hợp để đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi có hiệu quả tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.

Kiên quyết khắc phục những yếu kém trong công tác cán bộ và quản lý cán bộ; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức, trách nhiệm, năng lực và động cơ đúng đắn, thực sự tiên phong, gương mẫu, luôn đặt lợi ích của tập thể, quốc gia, dân tộc lên trên lợi ích cá nhân, thực sự là cán bộ của dân, phục vụ nhân dân. Củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng.

M.T

Bộ Gtvt Ban Hành Chương Trình Hành Động Thực Hiện Nghị Quyết Số 35/Nq

Thứ nhất, thực hiện cải cách hành chính, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp thông qua thực hiện thành công các mục tiêu, chỉ tiêu đã được phê duyệt tại Kế hoạch cải cách hành chính giai đoạn 2016 – 2020 của Bộ Giao thông vận tải, Kế hoạch triển khai thực hiện Nghị quyết 36a/NQ-CP ngày 14/10/2015 của Chính phủ về Chính phủ điện tử và Kế hoạch triển khai thực hiện Nghị quyết số 19-2016/NQ-CP ngày 28/4/2016 của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia hai năm 2016 – 2017, định hướng đến năm 2020.

Thứ hai, xây dựng, hoàn thiện và tổ chức thực hiện các quy định pháp luật về điều kiện kinh doanh thuộc lĩnh vực giao thông vận tải theo định hướng bảo đảm quyền kinh doanh, quyền bình đẳng tiếp cận nguồn lực và cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp.

Thứ ba, nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, cải thiện năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong ngành thông qua việc củng cố, phát triển các doanh nghiệp nắm giữ các khâu then chốt, huyết mạch của ngành giao thông vận tải trong lĩnh vực hàng hải, hàng không, đường sắt, công nghiệp đóng tàu; tạo lập môi trường kinh doanh cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh giữa các doanh nghiệp hoạt động trong ngành.

Thứ tư, đẩy mạnh sắp xếp, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, chuyển đổi các đơn vị sự nghiệp công lập; hoàn thành bán vốn nhà nước tại các doanh nghiệp thuộc diện Nhà nước không cần nắm giữ, bao gồm cả những doanh nghiệp đang kinh doanh có hiệu quả theo cơ chế thị trường, tạo cơ hội cho doanh nghiệp khu vực tư nhân phát triển.

Thứ năm, rà soát, điều chỉnh mức phí đường bộ, phí BOT hợp lý nhằm giảm chi phí kinh doanh cho doanh nghiệp.

Các cơ quan, đơn vị căn cứ vào nhiệm vụ phân công trong Chương trình để xây dựng kế hoạch chi tiết thực hiện nhiệm vụ tại cơ quan, đơn vị mình, bảo đảm đạt được yêu cầu về chất lượng, tiến độ thực hiện Nghị quyết số 35/NQ-CP; định kỳ hàng quý và cuối năm báo cáo tình hình triển khai thực hiện (qua Vụ Quản lý doanh nghiệp) trước ngày 10 tháng cuối quý và trước ngày 10/12 năm báo cáo để tổng hợp báo cáo Chính phủ theo quy định.

Toàn văn Quyết định và Chương trình hành động xem Tại đây!

Vì Sao Cần Phải Ban Hành Nghị Định Mới Về Quản Lý, Sử Dụng Pháo?

Công tác quản lý, bảo quản pháo chưa có quy định trong Nghị định số 36/2009/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý, sử dụng pháo. Bên cạnh đó, việc giám định pháo cũng chưa quy định cụ thể, gây khó khăn cho lực lượng chức năng khi cần trưng cầu giám định để làm căn cứ xử lý vi phạm. Các trường hợp được phép bắn pháo hoa cần quy định lại cho phù hợp với tình hình thực tế hiện nay, trong khi công tác quản lý pháo hiệu trong thời gian qua cũng còn nhiều sơ hở, cần quy định chặt chẽ hơn.

Sự cần thiết phải ban hành nghị định mới

Việc đốt pháo trong những ngày Tết, lễ hội…là một phong tục, tập quán lâu đời của nhân dân ta. Theo đó, tai nạn thường xuyên xảy ra trong quá trình sản xuất, vận chuyển và đốt pháo, hàng năm đã cướp đi sinh mạng nhiều người, làm bị thương hàng nghìn người, nhiều người bị tàn tật suốt đời, gây lãng phí về tiền bạc, ô nhiễm môi trường. Trước tình hình trên, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị 406/TTg ngày 08/8/1994 về việc cấm sản xuất, buôn bán và đốt pháo, đặc biệt là sự ra đời của Nghị định số 36/2009/NĐ-CP ngày 15/4/2009 của Chính phủ về quản lý, sử dụng pháo.

Ngay sau khi Chính phủ ban hành Nghị định, Bộ Công an đã khẩn trương ban hành Thông tư số 08/2010/TT-BCA ngày 5/2/2010 hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 36/2009/NĐ-CP ngày 15/4/2009 của Chính phủ về quản lý, sử dụng pháo. Đồng thời phối hợp với các cơ quan chức năng ban hành Thông tư liên tịch số 06/2010/TTLT/BCA ngày 05/02/2010 thay thế Thông tư số 01 hướng dẫn việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các hành vi sản xuất, mua bán, vận chuyển, tàng trữ, sử dụng trái phép pháo nổ và thuốc pháo, đây là hành lang pháp lý quan trọng để kịp thời ngăn chặn việc buôn bán, tàng trữ và đốt pháo trái phép.

Bên cạnh đó, hàng năm Bộ Công an đều chủ động tham mưu cho Thủ tướng Chính phủ có Công điện chỉ đạo các bộ, ngành, UBND các tỉnh, thành phố tổ chức thực hiện. Đồng thời, chỉ đạo Công an các đơn vị, địa phương tập trung triển khai tổ chức thực hiện công tác phòng ngừa, đấu tranh với các hành vi sản xuất, mua bán, vận chuyển, tàng trữ, sử dụng pháo trái phép.

Sau hơn 10 năm tổ chức triển khai thực hiện, công tác quản lý, sử dụng pháo đã đạt được những kết quả quan trọng, cụ thể như: Các hành vi sản xuất, mua bán, vận chuyển, tàng trữ, sử dụng pháo trái phép cơ bản đã được kiểm soát, ngăn chặn, kiềm chế; nhận thức, ý thức chấp hành của nhân dân về công tác này đã được nâng lên rõ rệt; tình trạng đốt pháo tràn lan, đốt pháo trên đường giao thông, khu dân cư được ngăn chặn kịp thời, nhiều địa phương vào thời điểm giao thừa không có tiếng pháo nổ; các địa điểm được phép bắn pháo hoa được đảm bảo an toàn tuyệt đối, tạo không khí vui tươi, phấn khởi cho nhân dân trong không khí đón năm mới; hoạt động đấu tranh phòng, chống sản xuất, mua bán, vận chuyển, tàng trữ, sử dụng trái phép vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ được đẩy mạnh.

Một là, tại khoản 3 và 4 Điều 3 Nghị định số 36/2009/NĐ-CP ngày 15/4/2009 của Chính phủ về quản lý, sử dụng pháo quy định: Pháo nổ là loại sản phẩm có chứa thuốc pháo được chế tạo bằng các công nghệ khác nhau không phân biệt xuất xứ và nơi sản xuất, khi có tác động của các kích thích cơ, nhiệt, hoá, điện gây nên tiếng nổ; pháo hoa là sản phẩm có chứa thuốc pháo hoa, khi có các tác động của các kích thích cơ, nhiệt, hoá, điện sẽ gây phản ứng hoá học tạo hiệu ứng ánh sáng có màu sắc, gây tiếng nổ hoặc không gây tiếng nổ.

Các khái niệm trên chưa rõ ràng, cụ thể, chưa tách bạch pháo hoa gây tiếng nổ và pháo hoa không gây tiếng nổ, thực chất, pháo hoa gây tiếng nổ là có sử dụng thuốc pháo nổ. Đồng thời, tại khoản 41 và 42 Điều 1 Luật Hình sự số 12/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội khóa XIV sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ Luật hình sự số 100/2015/QH13 chỉ quy định xử lý hình sự đối với các hành vi sản xuất, mua bán, vận chuyển, tàng trữ pháo nổ; đối với pháo hoa và các loại pháo khác thì không bị xử lý hình sự. Như vậy, thực tế hiện nay các lực lượng chức năng gặp nhiều khó khăn trong xử lý đối với các hành vi sản xuất, mua bán, vận chuyển, tàng trữ pháo hoa nổ.

Hai là, hàng năm, Công an các đơn vị, địa phương thu giữ số lượng pháo lớn, trong khi pháo là sản phẩm nguy hiểm, dễ gây cháy nổ, trong khi đó, Nghị định số 36/2009/NĐ-CP chưa có quy định đối với quản lý, bảo quản, tiêu hủy pháo.

Bốn là, tại Điều 5 Nghị định 36/CP của Chính phủ quy định các loại pháo, sản phẩm pháo được sử dụng, trong đó có, các sản phẩm như: pháo hoa lễ hội bằng giấy (trừ loại hoa có chứa kim loại), pháo điện, pháo trang trí bằng giấy, bằng nhựa, bằng tre, trúc, kim loại; que hương phát sáng; các sản phẩm phát tín hiệu ánh sáng, màu sắc, âm thanh được dùng trong các hoạt động văn hoá, văn nghệ không gây nên tiếng nổ.

Đồng thời, tại khoản 3 Điều Thông tư số 08/2010/TT-BCA quy định chi tiết thi hành một số điều của Nghị định số 36/2009/NĐ-CP ngày 15/4/2009 về quản lý, sử dụng pháo thì việc quản lý pháo hoa lễ hội bằng giấy, pháo điện, pháo trang trí bằng giấy, bằng nhựa, bằng tre, trúc, kim loại; que hương phát sáng; các sản phẩm phát tín hiệu ánh sáng, màu sắc, âm thanh được dùng trong các hoạt động văn hóa, văn nghệ không gây tiếng nổ quy định tại khoản 4 Điều 5 Nghị định số 36/CP của Chính phủ được thực hiện theo quy định của pháp luật về thương mại. Tuy nhiên, hiện nay chưa có cơ chế, quy định quản lý cụ thể đối với loại sản phẩm này.

Năm là, theo quy định tại Điều 7 Nghị định 36/CP của Chính phủ thì các trường hợp được phép sử dụng pháo hoa gồm: Tết Nguyên đán; Giỗ Tổ Hùng Vương; Kỷ niệm ngày Quốc khánh, ngày Chiến thắng Điện Biên Phủ, ngày Chiến thắng Giải phóng hoàn toàn miền Nam; Ngày hội văn hoá, du lịch, thể thao mang tính quốc gia, quốc tế; Nhân dịp kỷ niệm ngày giải phóng, thành lập các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Trường hợp khác do Thủ tướng Chính phủ quyết định. Ngoài các trường hợp được phép sử dụng pháo hoa theo quy định tại Nghị định số 36/2009/NĐ-CP của Chính phủ. Tuy nhiên, qua 10 năm triển khai thực hiện, nhiều trường hợp cần thiết sử dụng pháo hoa nhưng không được quy định tại Nghị định số 36/2009/NĐ-CP của Chính phủ, điều này gây khó khăn cho các cơ quan, tổ chức trong quá trình sử dụng.

Nhằm hoàn thiện cơ sở pháp lý, bảo đảm quyền con người, quyền công dân được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013. Đồng thời, khắc phục những hạn chế, bất cập nêu trên và để tăng cường công tác quản lý, phòng ngừa, đấu tranh với các hành vi vi phạm về pháo, góp phần bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội trong tình hình mới thì việc xây dựng Nghị định thay thế Nghị định số 36/2009/NĐ-CP ngày 15/4/2009 của Chính phủ về quản lý, sử dụng pháo là cần thiết.

Mục tiêu và quan điểm xây dựng dự thảo Nghị định mới

Bên cạnh mục tiêu bảo đảm quản lý chặt chẽ các loại pháo, Nghị định mới huy động tổng hợp được sức mạnh của cả hệ thống chính trị vào phòng ngừa, đấu tranh với các hành vi vi phạm về pháo. Đồng thời, Nghị định mới nhằm vào mục tiêu không để tái diễn tình trạng sản xuất, mua bán, vận chuyển, tàng trữ, sử dụng pháo trái phép. Văn bản mới này chắc chắn sẽ tạo hành lang pháp lý cho lực lượng chức năng trong việc quản lý, sử dụng pháo, đặc biệt là xử lý hình sự đối với hành vi sản xuất, mua bán, vận chuyển, tàng trữ, sử dụng trái phép pháo nổ.

Về quan điểm xây dựng văn bản dự thảo này, Nghị định mới thay thế Nghị định số 36/2009/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý, sử dụng pháo sẽ thể chế hoá đầy đủ, kịp thời chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước ta về tăng cường công tác quản lý, phòng ngừa, đấu tranh với các hành vi vi phạm về pháo nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về pháo, tạo nhận thức thống nhất và đầy đủ về công tác này, bảo đảm tính hợp hiến và tương thích của Nghị định với các quy định của pháp luật hiện hành.

Nếu được ban hành, Nghị định mới thay thế Nghị định số 36/2009/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý, sử dụng pháo sẽ là văn bản pháp luật điều chỉnh thống nhất về lĩnh vực này. Dự thảo này bảo đảm tính kế thừa và phát huy tác dụng tốt của Nghị định 36/CP của Chính phủ về quản lý, sử dụng pháo được ban hành cách đây 11 năm; đồng thời sẽ khắc phục được những bất cập trong công tác quản lý, sử dụng pháo, góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước về lĩnh vực này trong tình hình hiện nay.

Và cuối cùng, dự thảo nghị định mới kể trên đáp ứng yêu cầu thực tiễn công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự an toàn xã hội, phục vụ phát triển kinh tế – xã hội.

– Chính sách 2: Hoàn thiện quy định về công tác quản lý, bảo quản và tiêu hủy pháo.

– Chính sách 3: Hoàn thiện quy định về điều kiện và trình tự, thủ tục nghiên cứu, sản xuất, xuất khẩu, nhập khẩu, mang, mua bán pháo hoa, pháo hiệu.

– Chính sách 5: Hoàn thiện các hành vi bị nghiêm cấm trong quản lý, sử dụng pháo.

– Chính sách 6: Hoàn thiện các trường hợp được phép bắn pháo hoa và thẩm quyền cho phép bắn pháo hoa.

– Chính sách 7: Bổ sung quy định về trang bị, xuất khẩu, nhập khẩu pháo hiệu dùng trong an toàn hàng hải.

Ban Hành Nghị Quyết Số 04

Thay mặt Ban Chấp hành TW Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XII, ngày 30/10, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Nghị quyết số 04-NQ/TW về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến,” “tự chuyển hóa” trong nội bộ.

Tuy nhiên, Nghị quyết cũng chỉ rõ, công tác xây dựng Đảng còn không ít hạn chế, khuyết điểm. Công tác giáo dục chính trị tư tưởng, nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, giảng dạy và học tập chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh chưa đáp ứng yêu cầu. Nội dung sinh hoạt đảng ở nhiều nơi còn đơn điệu, hình thức, hiệu quả chưa cao. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của không ít tổ chức đảng còn thấp, thậm chí có nơi mất sức chiến đấu. Công tác tổ chức, cán bộ và quản lý cán bộ, đảng viên còn yếu kém. Nhiều tổ chức đảng, đảng viên còn hạn chế trong nhận thức, lơ là, mất cảnh giác, lúng túng trong nhận diện và đấu tranh, ngăn chặn “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; việc đấu tranh, phản bác những luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch, tổ chức phản động, phần tử cơ hội, bất mãn chính trị còn bị động, thiếu sắc bén và hiệu quả chưa cao.

Nghị quyết cũng nêu rõ, Đại hội XII đã đề ra yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng với 10 giải pháp cơ bản, trong đó nhấn mạnh phải kiên quyết, kiên trì tiếp tục thực hiện Nghị quyết TW 4 khóa XI, với trọng tâm là đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Vì vậy, các cấp ủy, tổ chức đảng cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện đồng bộ, toàn diện, có hiệu quả các nhóm nhiệm vụ, giải pháp về: công tác chính trị tư tưởng, tự phê bình và phê bình; cơ chế, chính sách; kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng; phát huy vai trò của nhân dân và Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị – xã hội.

TS-CT