Top 11 # Xem Nhiều Nhất Vi Luật Là Gì Mới Nhất 3/2023 # Top Like | Athena4me.com

Vi Phạm Pháp Luật Là Gì?

Vi phạm pháp luật là hành vi trái luật mang tính có lỗi của chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lý xâm hại tới quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ, căn cứ vào lĩnh vực điều chỉnh của pháp luật thì vi phạm pháp luật sẽ được phân loại thành:

– Vi phạm pháp luật hình sự;

– Vi phạm pháp luật hành chính;

– Vi phạm pháp luật dân sự;

Khi tìm hiểu vấn đề này các chủ thể thường thắc mắc các chế tài xử lý các hành vi vi phạm pháp luật là gì. Trong mỗi lĩnh vực pháp luật khác nhau, các hành vi vi phạm sẽ có chế tài xử lý khác nhau.

Các dấu hiệu của vi phạm pháp luật

Vậy dấu hiệu xác định vi phạm pháp luật là gì? Các hành vi được coi là vi phạm pháp luật dựa trên các dấu hiệu sau:

– Là hành vi nguy hiểm cho xã hội. Các hành vi của cá nhân hay tổ chức được thực hiện dưới dạng hành động hoặc không hành động gây nguy hiểm cho xã hội.

– Là hành vi trái pháp luật, xâm phạm tới các quan hệ pháp luật xác lập và bảo vệ. Mỗi lĩnh vực trong đời sống pháp luật xây dựng và bảo vệ trên sự thừa nhận của nhà nước. Chính vì thế các hành vi này xâm hại tới các quan hệ đã được thừa nhận và bảo vệ thì được coi là vi phạm pháp luật.

– Có lỗi chủ thể. Yếu tố này xác định thái độ của chủ thể đối với hành vi của mình khi thực hiện. Những hành vi trái pháp luật nhưng không có lỗi của chủ thể thì cũng không bị coi là vi phạm pháp luật.

– Chủ thể phải có năng lực trách nhiệm pháp lý. Năng lực trách nhiệm pháp lý là khả năng phải chịu trách nhiệm pháp lý của chủ thể trước hành vi vi phạm của mình.

Năng lực trách nhiệm pháp lý được Nhà nước quy định ở độ tuổi nhất định tùy thuộc vào từng lĩnh vực pháp luật điều chỉnh. Các hành vi trái pháp luật nhưng được thực hiện bởi chủ thể không có hoặc chưa có năng lực trách nhiệm pháp lý thì không bị coi là vi phạm pháp luật.

Về cơ bản, các hành vi vi phạm pháp luật sẽ có những dấu hiệu trên. Tuy nhiên để xác định một hành vi cụ thể có vi phạm pháp luật không cần xét trực tiếp qua các bộ phận cấu thành vi phạm pháp luật bao gồm: mặt chủ quan hành vi, mặt khách quan của hành vi, chủ thể thực hiện, khách thể bị xâm hại.

Các yếu tố cấu thành vi phạm pháp luật là gì có ý nghĩa rất lớn trong việc xác định hành vi đó có thật sự vi phạm pháp luật không. Tuy nhiên việc đánh giá này cần phải thực hiện bởi các công ty tư vấn có chuyên môn và kinh nghiệm cao

Tư vấn pháp luật bởi Luật Hoàng Phi

Công ty Luật Hoàng Phi với hơn 10 năm kinh nghiệm hoạt động tư vấn và hỗ trợ pháp lý trong nhiều lĩnh vực khác nhau trong đời sống như: dân sự, hình sự, hành chính,… Chúng tôi tự tin là đơn vị đi đầu trong dịch vụ tư vấn pháp luật hiện nay.

Chúng tôi sẽ xem xét và đánh giá trường hợp cụ thể của khách hàng xem có vi phạm pháp luật hay không. Qua đó sẽ tư vấn các phương hướng giải quyết tốt nhất nhằm tránh các rủi ro sau này.

Với dịch vụ tư vấn qua tổng đài của Luật Hoàng Phi Quý khách hàng nhận được thông tin chính xác đồng thời thuận tiện hơn khi khách hàng không phải mất công sức và chi phí để đi lại. Hi vọng những chia sẻ trên giúp Quý vị hiểu hơn về vi phạm pháp luật là gì. Chúng tôi xin tiếp nhận yêu cầu qua địa chỉ sau:

– Hotline hỗ trợ dịch vụ:19006557;

– Email: lienhe@luathoangphi.vn

Tác giả

Nguyễn Văn Phi

CHÚNG TÔI LUÔN SẴN SÀNG LẮNG NGHE – TƯ VẤN – GIẢI ĐÁP CÁC THẮC MẮC

1900 6557 – “Một cuộc gọi, mọi vấn đề”

Năng Lực Hành Vi Pháp Luật Là Gì ? Quy Định Về Năng Lực Hành Vi Pháp Luật

Năng lực hành vi pháp luật là khả năng của các cá nhân hay tổ chức do pháp luật quy định, bằng các hành vi của chính mình thực hiện quyền và nghĩa vụ pháp lí và tự chịu trách nhiệm về những hành vi ấy.

Năng lực hành vi của các tổ chức xuất hiện cùng lúc với năng lực pháp luật vào thời điểm có quyết định thành lập hoặc thừa nhận tổ chức đó của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Năng lực hành vi của các cá nhân xuất hiện muộn hơn so với năng lực pháp luật. Nếu năng lực pháp luật nói chung xuất hiện từ khi con người mới sinh ra, thì năng lực hành vi xuất hiện khi con người đạt tới độ tuổi nhất định.

Năng lực hành vi chia làm hai loại: năng lực hành vi đầy đủ và năng lực hành vi hạn chế. Năng lực hành vi đầy đủ xuất hiện khi con người đủ 18 tuổi. Tuy nhiên, khái niệm đầy đủ ở đây được hiểu theo nghĩa tương đối. Nghĩa là vào lứa tuổi 18 con người có thể tham gia vào hầu hết các loại quan hệ pháp luật, trừ một số quan hệ pháp luật đặc biệt. Ví dụ: 20 tuổi nam giới mới có quyền đăng kí kết hôn, 21 tuổi công dân mới có quyền ứng cử vào cơ quan quyền lực nhà nước. Nhiều nước quy định 35 tuổi công dân mới có quyền ứng cử tổng thống.

Theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2005, người chưa thành niên từ đủ 06 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi có năng lực hành vi dân sự hạn chế: khi xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch nhằm – phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi. Trong trường hợp người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi mà có tài sản riêng đủ để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ, thì có thể tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự mà không đòi hỏi có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác (đó là những trường hợp được quy định tại Điều 22 Bộ luật dân sự năm 2005).

Ngoài lí do chưa đạt độ tuổi mà pháp luật quy định, công dân từ 18 tuổi trở lên cũng có thể bị hạn chế năng lực hành vi pháp luật hoặc mất năng lực hành vi dân sự như trường hợp một người do bị bệnh tâm thần hoặc người mắc những bệnh khác

Vi Phạm Pháp Luật Dân Sự Là Gì, Lấy Ví Dụ Về Vi Phạm Dân Sự?

Vi phạm pháp luật dân sự là gì? Khái niệm vi phạm pháp luật dân sự? Lấy một vài ví dụ minh họa cụ thể về vi phạm pháp luật dân sự?

Khái niệm vi phạm pháp luật dân sự là tất cả những việc làm trái qui định của bộ luật dân sự có các loại vi phạm pháp luật dân sự chủ yếu sau: Vi phạm các nguyên tắc của bộ luật dân sự; Vi phạm các điều cấm của bộ luật dân sự; Vi phạm nghĩa vụ dân sự; Vi phạm hợp đồng dân sự; Vi phạm pháp luật dân sự ngoài hợp đồng; Các vi phạm khác đối với quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân dân sự. Luật Dương Gia xin phép, giải đáp những thắc mắc pháp lý qua tư vấn bài viết sau:

Vi phạm dân sự là sự xâm phạm đến các quan hệ nhân thân và tài sản được quy định chung trong bộ luật Dân sự và quan hệ pháp luật dân sự khác được pháp luật bảo vệ, như quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp. Chế tài dân sự là hậu quả pháp lý bất lợi ngoài mong muốn được áp dụng đối với người có hành vi vi phạm trong quan hệ dân sự khi họ thực hiện, thực hiện không đúng các nghĩa vụ dân sự. Đối với chế tài dân sự, nó được đặt ra để bảo vệ quyền và lợi ích mang tính tư giữa các chủ thể trong xã hội với nhau, là điều kiện cần thiết để bảo đảm cho cam kết giữa các bên được thực hiện.

Theo quy định của pháp luật, do đó, các chế tài dân sự thường là bồi thường thiệt hại, xin lỗi, cải chính. Trách nhiệm dân sự là trách nhiệm pháp lý mang tính tài sản được áp dụng đối với người vi phạm pháp luật dân sự nhằm bù đắp về tổn thất vật chất, tinh thần cho người bị hại. Đối tượng là cá nhân, tổ chức. Hình thức xử lý trách nhiệm dân sự là chịu mức bồi thường thiệt hại và các biện pháp khắc phục. Căn cứ phát sinh sau khi thỏa thuận thành công thì người có có lỗi phải bồi thường thiệt hại. Nếu không thỏa thuận được, thì được giải quyết tại tòa án dân sự, sau khi có quyết định của tòa án thì người có lỗi phải bồi thường thiệt hại và có biện pháp khắc phục hậu quả (nếu có). Mục đích là nhằm răn đe những đối tượng có hành vi vi phạm pháp luật phải có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại cho người bị hại do hành vi vi phạm gây ra nhằm khắc phục những tổn thất do họ gây ra.

Ví dụ 1: Thực hiện không đúng các quy định trong hợp đồng thuê nhà.

Ví dụ 2: Công ty A ký kết hợp đồng mua bán 1 tấn gạo với công ty B. Theo thỏa thuận bên A có trách nhiệm giao hàng cho bên B vào ngày 10/10/2020. Đến ngày giao hàng mà A không mang hàng đến, do điều kiện sản xuất B phải mua hàng của C. Như vậy A có trách nhiệm phải trả số tiền chênh lệch giữa giá trị hàng hóa mà B mua của C so với giá thị trường.

Ở ví dụ này trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ dân sự là bên có nghĩa vụ mà không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì phải chịu trách nhiệm dân sự đối với bên có quyền. Như vậy, trách nhiệm pháp lý dân sự phát sinh khi có nghĩa vụ dân sự mà không thực hiện hay thực hiện không đúng. Nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch dân sự (hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự). Pháp nhân phải chịu trách nhiệm dân sự do người của pháp nhân gây ra.

Ví dụ 3: Bạn ký hợp đồng với Công ty xây dựng để xây nhà trong thời hạn 6 tháng. Tuy nhiên, đội xây dựng của Công ty do thiếu trách nhiệm nên hơn 6 tháng chưa xây xong. Họ đã vi phạm nghĩa vụ về thời hạn hoàn thành công việc. Vi phạm đó gây thiệt hại là làm bạn không có nhà ở như dự định và phải tiếp tục mướn nhà ở. Công ty phải bồi thường số tiền phát sinh này cho bạn đó là trách nhiệm dân sự.

“Điều 351. Trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ

1. Bên có nghĩa vụ mà vi phạm nghĩa vụ thì phải chịu trách nhiệm dân sự đối với bên có quyền.

Vi phạm nghĩa vụ là việc bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ đúng thời hạn, thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ hoặc thực hiện không đúng nội dung của nghĩa vụ.

3. Bên có nghĩa vụ không phải chịu trách nhiệm dân sự nếu chứng minh được nghĩa vụ không thực hiện được là hoàn toàn do lỗi của bên có quyền.”

Trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ là sự quy định của pháp luật về việc người nào vi phạm nghĩa vụ dân sự hoặc có hành vi trái pháp luật khác phải gánh chịu một hậu quả pháp lý nhất định như phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ dân sự, bồi thường thiệt hại. Nghĩa vụ là một quan hệ pháp luật được hình thành trên cơ sở thỏa thuận hoặc pháp luật quy định. Khi đã xác lập quan hệ nghĩa vụ với nhau, bên có nghĩa vụ bị ràng buộc trách nhiệm bởi lợi ích của bên có quyền. Do đó, bên có nghĩa vụ không thực hiện, thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ của mình sẽ mang lại tổn thất về tài sản hoặc tinh thần cho bên có quyền. Cho nên, hành vi vi phạm nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ sẽ mang đến hậu quả bất lợi cho người này.

“Điều 352. Trách nhiệm tiếp tục thực hiện nghĩa vụ

Khi bên có nghĩa vụ thực hiện không đúng nghĩa vụ của mình thì bên có quyền được yêu cầu bên có nghĩa vụ tiếp tục thực hiện nghĩa vụ.”

Trách nhiệm dân sự phát sinh ngay từ khi bên có nghĩa vụ bị coi là vi phạm nghĩa vụ. Tùy thuộc vào hậu quả của sự vi phạm mà trách nhiệm dân sự có thể được chia thành trách nhiệm tiếp tục thực hiện nghĩa vụ và trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Trách nhiệm tiếp tục thực hiện nghĩa vụ phát sinh khi hành vi vi phạm nghĩa vụ chưa gây ra thiệt hại, nghĩa vụ có thể tiếp tục thực hiện được và việc thực hiện nghĩa vụ phải còn ý nghĩa đối với bên có quyền. Xét về hình thức thì trách nhiệm tiếp tục thực hiện nghĩa vụ giống với việc thực hiện nghĩa vụ. Nhưng xét về bản chất thì loại trách nhiệm này và nghĩa vụ khác nhau ở chỗ: trách nhiệm tiếp tục thực hiện nghĩa vụ phát sinh trên cơ sở (đối ứng với) hành vi vi phạm; việc thực hiện nghĩa vụ thông thường đối ứng với các quyền mà người có nghĩa vụ được hưởng.

2. Bên chậm thực hiện nghĩa vụ phải ngay cho bên có quyền về việc không thực hiện nghĩa vụ đúng thời hạn.”

Chậm thực hiện nghĩa vụ là việc bên có nghĩa vụ không hoàn thành nghĩa vụ đúng hạn. Đây là sự vi phạm về thời hạn thực hiện nghĩa vụ. Để xác định bên có nghĩa vụ chậm thực hiện nghĩa vụ phải căn cứ vào thời điểm kết thúc thời hạn thực hiện nghĩa vụ. Thời điểm này có thể do các bên thỏa thuận hoặc do pháp luật quy định. Việc chậm thực hiện nghĩa vụ có thể gây ra những hậu quả bất lợi cho bên bị vi phạm.

1. Khi không thể thực hiện được nghĩa vụ đúng thời hạn thì bên có nghĩa vụ phải thông báo ngay cho bên có quyền biết và đề nghị được hoãn việc thực hiện nghĩa vụ.

Trường hợp không thông báo cho bên có quyền thì bên có nghĩa vụ phải bồi thường thiệt hại phát sinh, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc do nguyên nhân khách quan không thể thông báo.

2. Bên có nghĩa vụ được hoãn việc thực hiện nghĩa vụ, nếu được bên có quyền đồng ý. Việc thực hiện nghĩa vụ khi được hoãn vẫn được coi là thực hiện đúng thời hạn.”

“Điều 355. Chậm tiếp nhận việc thực hiện nghĩa vụ

1. Chậm tiếp nhận việc thực hiện nghĩa vụ là khi đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên có nghĩa vụ đã thực hiện nhưng bên có quyền không tiếp nhận việc thực hiện nghĩa vụ đó.

2. Trường hợp chậm tiếp nhận đối tượng của nghĩa vụ là tài sản thì bên có nghĩa vụ có thể gửi tài sản tại nơi nhận gửi giữ tài sản hoặc áp dụng biện pháp cần thiết khác để bảo quản tài sản và có quyền yêu cầu thanh toán chi phí hợp lý. Trường hợp tài sản được gửi giữ thì bên có nghĩa vụ phải thông báo ngay cho bên có quyền.

3. Đối với tài sản có nguy cơ bị hư hỏng thì bên có nghĩa vụ có quyền bán tài sản đó và phải thông báo ngay cho bên có quyền, trả cho bên có quyền khoản tiền thu được từ việc bán tài sản sau khi trừ chi phí hợp lý để bảo quản và bán tài sản đó.”

Tiếp nhận việc thực hiện nghĩa vụ là nghĩa vụ của bên có quyền, khi bên có nghĩa vụ thực hiện đúng nghĩa vụ thì bên có quyền tiếp nhận việc thực hiện nghĩa vụ đó. Chậm tiếp nhận việc thực hiện nghĩa vụ là hành vi vi phạm của bên có quyền. Hành vi chậm tiếp nhận thực hiện nghĩa vụ xảy ra khi bên có nghĩa vụ đã thực hiện hành vi chuyển giao vật hoặc bàn giao kết quả công việc mà bên có quyền không tiếp nhận đúng thời hạn nghĩa vụ đó.

Lệnh Giới Nghiêm Là Gì? Thiết Quân Luật Là Gì?

Lệnh giới nghiêm là việc thi hành những phương pháp nghiêm cấm đặc biệt để duy trì an ninh trật tự tại một khu vực nào đó trong trường hợp xảy ra những tình huống khẩn cấp.

Thiết quân luật là việc áp đặt sức mạnh quân sự tại những vùng được chỉ định dựa trên tình huống khẩn cấp. Theo đó, một hệ thống các quy định sẽ có hiệu lực khi quân đội nắm quyền kiểm soát quyền quản lý tư pháp bình thường.

Lệnh giới nghiêm và Thiết quân luật theo Sắc lệnh số 77 ngày 29 tháng 5 năm 1945:Sắc lệnh số 77 ngày 29 tháng 5 năm 1945 nói về việc thiết quân luật và lệnh giới nghiêm: hai phương pháp này có nhiều tính cách khác nhau, nên cần phải giải thích cho rõ ràng để việc áp dụng đạo sắc lệnh kể trên khỏi sai lạc.– Thiết quân luật và lệnh giới nghiêm đều là những phương pháp bất thường chỉ áp dụng trong những trường hợp đặc biệt.Nhưng thiết quân luật có tính cách quan hệ hơn lệnh giới nghiêm.Phương pháp này chỉ mang dùng khi nào sự an toàn của quốc gia có thể bị đe dọa vì một cuộc ngoại xâm hay một cuộc nổi loạn to.– Lệnh giới nghiêm là một phương pháp để duy trì trật tự, ở các phố xá trong một địa phương khi nào những việc trộm cướp, thủy tặc, hỏa tai xảy ra.Vì mục đích khác nhau, nên thủ tục thi hành và hiệu lực của hai phương pháp đó khác nhau.

A) Thiết quân luậtI.– Chỉ riêng có Chủ tịch Chính phủ Dân chủ Cộng hòa mới có quyền ký sắc lệnh thiết quân luật. Sắc lệnh này phải kể rõ ràng:1. – những nơi (tỉnh, phủ, huyện, châu, thành phố, thị xã) thiết quân luật;2. – thời hạn thiết quân luật là bao nhiêu.

II.– Ở những nơi nào thiết quân luật thì cơ quan hành chánh phải lập tức giao hết quyền hành cho cơ quan quân sự. Tất cả những việc phạm pháp về khinh tội hay trọng tội sẽ giao tòa án quân sự xử. Tòa án chuyên môn có quyền xử những việc hộ và những việc phạm pháp về vi cảnh. Còn đối với việc phạm pháp về khinh tội hay trọng tội mà tòa án quân sự không đòi truy tố và xử lý thì tòa án chuyên môn cứ việc điều tra và xử như thường. Nói tóm lại, tóa án quân sự bất cứ lúc nào muốn xét xử và xử một việc phạm pháp nào thì toàn án chuyên môn phải giao hồ sơ ngay. Nếu tòa án quân sự không đòi hỏi gì thì ông Biện lý cứ theo lệ thường cho điều tra và truy tố tất cả các việc phạm pháp.

Sở dĩ có sự giao phó quyền cai trị và quyền xử án khinh tội và trọng tội cho các nhà chức trách về quân đội này là vì muốn trừ khử ngoại xâm hay tiêu diệt nội loạn cho dễ dàng. Những nhà chức trách quân sự nào có quyền điều khiển bộ máy cai trị sẽ do bộ Nội vụ và Bộ Quốc phòng ra nghị định chung để định rõ ràng sự cộng tác giữa hai cơ quan trong thời kỳ thiết quân luật.

III.– Cũng vì lẽ vừa kể trên, các nhà nhà chức trách về quân đội còn được quyền hạn chế quyền công dân như:a) Bất cứ nhật dạ khám xét nhà công chúng. Những cấp chỉ huy nào có quyền ra lệnh khám xét sẽ do ông Bộ trưởng bộ Quốc phòng quy định.b) Trục xuất những thành tích bất hảo.c) Bắt các tư gia phải nộp súng đạn tịch thu những súng đạn của tư gia không tuân lệnh nộp.d) Ngăn cấm các cuộc hội họp biểu tình, báo chí có tính cách nguy hiểm cho sự an toàn chung.

B) Lệnh giới nghiêmI.– Vì chỉ có tính cách địa phương nên Chủ tịch Ủy ban hành chánh phủ huyện, châu, thành phố, thị xã hoặc xã được quyền ra lệnh giới nghiêm. Lệnh ấy phải viết vào giấy, chỉ rõ lệnh giới nghiêm sẽ thi hành ở những nơi nào, thời hạn là bao nhiêu giờ vì thời hạn lệnh giới nghiêm dài nhất là 24 giờ. Giấy ấy phải mang yết thị ở các công sở và Ủy ban hành chánh phải dùng đủ cách để báo cáo cho dân chúng biết.II.– Lệnh giới nghiêm chỉ có hiệu lực ở ngoài đường phố thôi. Sự đi lại ở ngoài phố và ở các nơi công cộng (rạp hát, chớp bóng, cao lâu), có thể bị hạn chế, còn trong nhà các tư gia không hạn chế một tí nào cả.Hết thời hạn định trong giấy yết thị, thì lệnh giới nghiêm sẽ hết hiệu lực. Nếu Ủy ban hành chánh xét cần phải gia thêm hạn thì mỗi lần gia thêm một hạn là 24 giờ phải ký một lệnh khác và phải cho yết thị cùng loan báo cho công chúng biết lại.III.– Quyền công dân không bị hạn chế: thí dụ muốn khám nhà bắt người phải có lệnh viết của thẩm phán viên.IV.– Cơ quan hành chánh cao nhất và tòa án chuyên môn không có sự thay đổi gì.

Thông tin chi tiết:Thiết quân luậtThiết quân luật là việc áp đặt sức mạnh quân sự tại những vùng được chỉ định dựa trên tình huống khẩn cấp. Theo đó, một hệ thống các quy định sẽ có hiệu lực khi quân đội nắm quyền kiểm soát quyền quản lý tư pháp bình thường.

Thiết quân luật thường được áp dụng tạm thời khi chính quyền dân sự không hoạt động hiệu quả (ví dụ trong việc duy trì trật tự và an ninh hoặc cung cấp các dịch vụ thiết yếu). Trong trường hợp thiết quân luật ở mức độ cao nhất, sĩ quan quân đội cấp cao nhất sẽ tiếp quản hoặc nhậm chức, hoặc ở vai trò như thống đốc quân đội hoặc ở vai trò là người đứng đầu chính phủ, theo đó tước hết mọi quyền lực từ nhà điều hành, lập pháp và tư pháp của chính phủ trước đó.

Thiết quân luật có thể được chính quyền sử dụng để áp đặt người dân thực thi theo luật lệ của họ. Tình huống như vậy có thể xảy ra sau một cuộc đảo chính (như đảo chính tại Thái Lan năm 2006); hoặc xảy ra khi bị đe dọa bởi cuộc biểu tình của nhân dân (như cuộc biểu tình Thiên An Môn năm 1989 tại Trung Quốc); hoặc để đàn áp phe đối lập chính trị (như tại Ba Lan vào năm 1981); hoặc để ổn định những cuộc nổi dậy (như cuộc khủng hoảng tháng 10 năm 1970 tại Canada). Tuyên bố thiết quân luật cũng có thể được đưa ra trong trường hợp thiên tai lớn. Tuy nhiên, hầu hết các nước sử dụng một hình thức pháp lý khác gọi là “Tình trạng Khẩn cấp“.

Thiết quân luật cũng đã được áp đặt trong khi diễn ra các cuộc xung đột, chiến tranh và tại các khu vực bị chiếm đóng, nơi việc không có chính quyền dân sự là tiền đề cho tình trạng người dân bất ổn định. Điển hình của hình thức cai trị quân sự này là ở khoảng thời gian tái thiết sau Thế chiến thứ II tại Đức và Nhật Bản, cũng như việc tái thiết miền Nam sau cuộc Nội chiến Hoa Kỳ.

Thông thường, việc áp dụng thiết quân luật đi kèm với lệnh giới nghiêm, đình chỉ pháp luật dân sự, giảm các quyền dân sự thông thường của công dân, giới hạn độ dài thời gian quá trình xét xử (còn gọi là quyền bảo hộ nhân thân) và quy định nhiều hình phạt nghiêm khắc hơn luật bình thường, đồng thời áp dụng luật quân sự mở rộng hoặc tư pháp quân sự đối với dân thường. Công dân bất tuân thiết quân luật có thể bị đưa ra tòa án quân sự. Tại nhiều quốc gia, thiết quân luật quy định hình phạt tử hình đối với một số tội phạm nhất định, dù cho luật bình thường không quy định tội phạm hay hình phạt đó trong hệ thống của pháp luật.

Phân biệt giữa Thiết quân luật và Tình trạng khẩn cấp– Trong trường hợp Thiết quân luật quân đội điều hành chính quyền, trong khi trong tình trạng khẩn cấp chính quyền dân sự vẫn nắm quyền. Trình trạng khẩn cấp thường có những giới hạn được ghi trong hiến pháp, hoặc có những quy định những quyền công dân nào có thể được đình chỉ và khi nào tài sản có thể bị tịch thu. Thiết quân luật cho phép quân đội trên căn bản làm những gì họ muốn và đình chỉ hầu hết các luật dân sự và cả hiến pháp.– Tình trạng khẩn cấp thường được ban hành trong những thiên tai lớn như bão lụt, mặc dù dân chúng ổn định. Thiết quân luật, ngược lại, thường được tuyên bố khi một người trung bình có thể vi phạm luật vì thiếu một chính phủ dân sự làm chủ tình hình.– Thường thì Thiết quân luật được ban hành không giới hạn thời gian và được hủy bỏ rất chậm, những người có rất ít quyền lực chính trị, bất thình lình lên điều hành cả một vùng hay cả một nước. Tình trạng khẩn cấp thường có tính cách địa phương, và những người điều hành là những người đang nắm quyền như thống đốc hay lực lượng cảnh sát địa phương. Thêm nữa, Tình trạng khẩn cấp thường được hoạch định để chấm dứt nhanh chóng, trở về tình trạng nguyên thủy trước thảm họa.

Theo quốc giaAi CậpTại Ai Cập, Tình trạng Khẩn cấp đã có hiệu lực gần như liên tục từ năm 1967. Sau vụ ám sát Tổng thống Anwar el-Sadat vào năm 1981, Tình trạng Khẩn cấp đã được tuyên bố suốt đến nay. Kể từ khi được áp dụng, Quốc hội Ai Cập mỗi ba năm lại gia hạn thiết quân luật. Năm 2003, tình trạng này gia hạn kéo dài đến năm 2006. Nhiều kế hoạch cũng được đặt ra để thay thế Tình trạng Khẩn cấp bằng các bộ luật chống khủng bố mới. Nhưng sau các vụ đánh bom Dahab vào tháng 4 năm đó, Tình trạng Khẩn cấp lại được gia hạn thêm hai năm nữa. Năm 2008, tình trạng này được cho phép kéo dài đến năm 2010. Năm 2010, Tình trạng Khẩn cấp lại tiếp tục được gia hạn, mặc dù theo lời hứa từ chính phủ là nó chỉ được áp dụng duy nhất đối với các nghi phạm ‘khủng bố và ma túy’.

Thiết quân luật tại Ai Cập: một chốt chặn ra vào bằng xe tăng của quân đội trong cuộc Cách mạng Ai Cập 2011.

Dưới chế độ thiết quân luật, nguồn gốc của quyền lực không phải là ở người dân, không phải là ở quốc hội hay hiến pháp, mà nằm trong tay hội đồng tối cao của quân đội. Quân đội đã tuyên bố trong thông cáo thứ ba rằng sẽ “kết thúc Tình trạng Khẩn cấp ngay sau khi trật tự được khôi phục ở Ai Cập”. Trước khi áp đặt thiết quân luật, dựa trên hiến pháp, Quốc hội Ai Cập có thẩm quyền dân sự để tuyên bố Tình trạng Khẩn cấp. Khi thiết quân luật được tuyên bố, quân đội được nắm mọi quyền hạn của nhà nước, bao gồm cả giải tán quốc hội và đình chỉ hiến pháp như quân đội đã làm trong thông cáo thứ năm. Dưới chế độ thiết quân luật, khuôn khổ pháp lý duy nhất trong lãnh thổ Ai Cập là những thông cáo được đánh số mà quân đội đưa ra. Những thông cáo này có thể lập tức đưa bất kỳ luật dân sự nào trở lại có hiệu lực. Các thông cáo quân sự là hiến pháp và khuôn khổ pháp lý thực quyền hiện hành trên lãnh thổ Ai Cập. Điều này có nghĩa là mọi sự vụ của nhà nước đều bị ràng buộc bởi Công ước Geneva.

CanadaTại Canada, thiết quân luật đã được áp dụng ba lần: trong Thế chiến thứ I, Thế chiến thứ II và trong cuộc khủng hoảng tháng 10 năm 1970. Năm 1988, thiết quân luật (hay Đạo luật Biện pháp Chiến tranh) được thay thế bởi Đạo luật Tình trạng Khẩn cấp.

Trước năm 1837, thiết quân luật được công bố và áp đặt trên lãnh thổ của tỉnh Quebec trong cuộc xâm lược của quân đội của Quốc hội Lục địa Hoa Kỳ vào Canada từ 1775-1776. Nó cũng đã được áp dụng hai lần trên lãnh thổ của Hạ Canada trong cuộc nổi dậy 1837-1838.

Đài LoanSau Thế chiến thứ II, Đài Loan trở thành Trung Hoa Dân Quốc, sau đó mở đầu giai đoạn thiết quân luật dài nhất trong lịch sử hiện đại vào thời điểm đó. Nối tiếp những hậu quả của vụ thảm sát 28 tháng 2 năm 1947, thiết quân luật được ban bố vào năm 1948 bất chấp nền dân chủ đã hứa hẹn trong Hiến pháp của Trung Hoa Dân Quốc. Sau khi chính quyền theo chủ nghĩa quốc gia dân tộc của Trung Hoa Dân Quốc đánh mất quyền kiểm soát lãnh thổ của mình ở Trung Quốc đại lục vào tay Đảng Cộng sản Trung Quốc, rút về Đài Loan vào năm 1949, do nhận thức về nhu cầu cần ngăn chặn cộng sản và Phong trào độc lập Đài Loan, thiết quân luật đã không được dỡ bỏ cho đến 1987.

Ngày nay, vẫn có hai hệ thống thiết quân luật với độ dài tồn tại vượt qua Đài Loan như tại Syria (kể từ cuộc đảo chính Syria 1963) hoặc ở Bờ Tây (từ Chiến tranh Sáu ngày với Israel năm 1967).

IranMột trường hợp điển hình của hình thức thiết quân luật toàn diện trong lịch sử cận đại diễn ra tại Iran vào năm 1978. Vào ngày 7 tháng 9, vua Iran là Mohammad Reza Pahlavi bổ nhiệm tham mưu trưởng quân đội làm thống đốc quân sự của thủ đô Tehran. Các sư đoàn quân đội chiếm giữ vị trí tại các trọng điểm trong thành phố. (Thiết quân luật cũng được tuyên bố tại một số thành phố khác). Ngày 8 tháng 9, quân đội nổ súng vào người biểu tình, giết chết từ 300 đến 4000 người (số liệu ước tính theo các nguồn khác nhau). Ngày diễn ra sự kiện đó gọi là Ngày thứ Sáu Đen tối. Không thể kiểm soát tình trạng bất ổn, ngày 6 thágn 11, vua Iran giải tán chính quyền dân sự của Thủ tướng Jafar Sharif-Emami, và bổ nhiệm tướng Gholam Reza Azhari làm thủ tướng. Chính quyền quân sự của Azhari cũng thất bại trong việc mang lại trật tự cho đất nước. Trong nỗ lực cuối cùng khi chuẩn bị rời khỏi đất nước, vua Iran giải thể chính quyền quân sự và bổ nhiệm Shapour Bakhtiar, một người phê phán sự cai trị của ông, thành thủ tướng mới vào ngày 4 tháng 1 năm 1979. Chính quyền Bakhtiar bị lật đổ vào ngày 11 tháng 2, và cùng với nó, lịch sử hơn hai ngàn năm chế độ quân chủ ở Iran đã chấm dứt.Israel

Chính quyền hành chính quân đội có hiệu lực từ 1949-1966 tại một số khu vực có nhiều người Ả Rập của Israel, chủ yếu là ở Negev, Galilee và khu tam giác. Cư dân của các khu vực này là đối tượng của một số biện pháp kiểm soát đưa tới việc áp dụng thiết quân luật. Quân đội Israel thực thi các quy tắc cư trú nghiêm ngặt. Bất kỳ người Ả Rập nào không được đăng ký trong cuộc điều tra dân số tháng 11 năm 1948 đều bị trục xuất. Một người muốn di chuyển xa hơn khoảng cách cho phép từ nơi đăng kí cư trú của người đó cần có sự cho phép của thống đốc quân đội. Lệnh giới nghiêm, giam giữ hành chính và trục xuất diễn ra thường xuyên. Mặc dù chính quyền quân đội có quyền hạn lên toàn khu vực địa lý và quyền lực này không phân biệt dân tộc nào, nhưng những hạn chế rất ít khi được thực thi đối với cư dân Do Thái tại những khu vực này. Trong những năm 1950, thiết quân luật không còn có hiệu lực đối với những công dân Ả Rập sống ở các thành phố chủ yếu là người Do Thái, nhưng vẫn tồn tại hiệu lực ở tất cả địa phương Ả Rập tại Israel cho đến năm 1966.

Trong cuộc chiến Lebanon năm 2006, Bộ trưởng Quốc phòng Amir Peretz tuyên bố thiết quân luật tại phía bắc Israel. Lực lượng Quốc phòng Israel đã được cấp thẩm quyền ban hành các chỉ thị cho dân thường, đóng cửa văn phòng, trường học, trại và các nhà máy ở các thành phố được xem là có nguy cơ bị đe dọa tấn công, đồng thời áp đặt lệnh giới nghiêm vào các thành phố ở phía bắc.

Chỉ thị của Bộ Tư lệnh Hậu phương Israel là bắt buộc dưới chế độ thiết quân luật, chứ không phải chỉ đơn thuần là đề nghị.

PhilippinesTrong Thế chiến thứ II, Tổng thống Philippines Jose P. Laurel của nền Cộng hòa Philippines thứ hai (một nhà nước phục vụ cho đế quốc Nhật Bản) đặt Philippines trong tình trạng thiết quân luật thông qua Công bố số 29, có hiệu lực từ ngày 22 tháng 9 năm 1944. Công bố số 30 được ban hành ngày 23 tháng 9, tuyên bố tình trạng chiến tranh giữa Philippines với Hoa Kỳ và Vương quốc Anh.

Đất nước được đặt dưới thiết quân luật một lần nữa từ 1972 đến 1981 dưới sự cai trị độc tài của Ferdinand Marcos. Công bố số 1081 (công bố tình trạng thiết quân luật tại Philippines) có hiệu lực vào ngày 21 tháng 9 năm 1972 – tròn 28 năm sau công bố tương tự của Tổng thống Laurel. Lý do chính thức đằng sau việc thiết quân luật được tuyên bố là để ngăn chặn những xung đột dân sự tăng dần và các mối đe dọa về nguy cơ cộng sản chiếm quyền sau một loạt các vụ đánh bom (bao gồm cả sự cố Plaza Miranda) và nỗ lực ám sát Bộ trưởng Quốc phòng Juan Ponce Enrile, mà sau này công khai tiết lộ là do chính phủ dàn dựng.

Đài tưởng niệm nạn nhân thiết quân luật tại thủ đô Manila.

Có lời đồn rằng Tổng thống Gloria Macapagal-Arroyo đã lên kế hoạch áp đặt thiết quân luật để chấm dứt âm mưu đảo chính quân sự, sự bất mãn dâng cao của lòng dân và những lời chỉ trích về tính hợp pháp của ông dựa trên kết quả bầu cử không rõ ràng. Thay vào đó, Tình trạng Khẩn cấp quốc gia được áp đặt vào năm 2006 từ ngày 24 tháng 2 đến ngày 3 tháng 3 để đè bẹp một âm mưu đảo chính và giải quyết những người chống đối.

Thái LanTại Thái Lan, nhiều cuộc đảo chính đã diễn ra từ những năm 1930, nhưng nhiều trong số đó đã thất bại. Trong năm 2004, Thủ tướng Chính phủ Thái Lan, Thaksin Shinawatra, tuyên bố tình trạng thiết quân luật ở các tỉnh Pattani, Yala và Narathiwat nhằm đối phó với cuộc nổi dậy đang leo thang ở miền Nam Thái Lan. Ngày 19 tháng 9 năm 2006, quân đội Thái Lan tuyên bố thiết quân luật sau một cuộc đảo chính quân sự không đổ máu ở thủ đô Bangkok, tuyên bố được đưa ra trong khi Thủ tướng Shinawatra đang tham gia cuộc họp với Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc ở New York. Tướng Sonthi Boonyaratglin tước quyền kiểm soát của chính phủ và nhanh chóng bàn giao chức Thủ tướng cho cựu tổng tư lệnh lục quân Thái Lan, Surayud, còn Sonthi giữ chức chủ tịch Hội đồng Cải cách Hành chính.Tháng 1 năm 2007, tình trạng thiết quân luật được bãi bỏ, nhưng chính quyền vẫn tiếp tục kiểm duyệt báo chí và bị cáo buộc vi phạm nhân quyền. Họ cũng cấm các hoạt động và hội họp chính trị cho tới tháng 5 năm 2007.

Thổ Nhĩ KỳTừ khi nước Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ thành lập vào năm 1923, quân đội tiến hành ba cuộc đảo chính và công bố thiết quân luật. Thiết quân luật từ năm 1978 đến năm 1983 đã được thay thế bằng Tình trạng Khẩn cấp ở một số địa phương giới hạn, kéo dài cho đến tháng 11 năm 2002.

Triều TiênTháng 10 năm 1946, Chính phủ Quân đội Hoa Kỳ tại Triều Tiên đã tuyên bố thiết quân luật đối với cuộc nổi dậy mùa thu tại Daegu. Ngày 17 tháng 11 năm 1948, chế độ Tổng thống Lý Thừa Vãn tuyên bố thiết quân luật để dập tắt cuộc khởi nghĩa Jeju. Ngày 19 tháng 4 năm 1960, chính phủ Lý Thừa Vãn tuyên bố thiết quân luật để đàn áp cuộc cách mạng tháng Tư.

Tháng 3 năm 1993, vài ngày sau khi rút khỏi Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân, Triều Tiên tuyên bố thiết quân luật và yêu cầu quân đội sẵn sàng chiến tranh. Từ ngày 29 tháng 1 năm 2013, Triều Tiên lại được đặt dưới thiết quân luật, Kim Jong-un kêu gọi “tất cả mọi đơn vị ở mặt trận và trung ương cần sẵn sàng chiến tranh”.

Cuộc nổi dậy ở Dushanbe, tháng 2 năm 1990 tại Liên bang Xô Viết. Thiết quân luật được áp dụng trong thành phố.

Quân đội Nga đóng trên đường phố Warsaw trong thời thiết quân luật năm 1861.

Thiết quân luật được áp dụng tại Tokyo sau Sự cố 26 tháng 2 năm 1936.