Top 8 # Xem Nhiều Nhất Văn Phòng Luật Sư Việt Quốc Tế Mới Nhất 6/2023 # Top Like | Athena4me.com

Văn Phòng Luật Sư Việt Quốc Tế

(1) Điểm b, Khoản 4, điều 63 Nghị định 43/2010/NĐ-CP ngày 15/4/2010 của Chính phủ quy định: Doanh nghiệp báo cáo và thực hiện việc đăng ký thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp trong thời hạn ba tháng, kể từ ngày nhận được thông báo trong trường hợp nội dung đăng ký kinh doanh và đăng ký thuế của doanh nghiệp chưa thống nhất. Trường hợp doanh nghiệp không thực hiện theo yêu cầu tại điểm này thì sẽ bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 165 Luật Doanh nghiệp.

(2) Điểm a, Khoản 2, Điều 47, Thông tư 01/2013/TT-BKHĐT ngày 21/01/2013 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư quy định: Trường hợp doanh nghiệp chỉ cập nhật, bổ sung những thông tin về số điện thoại, số fax, email, website, địa chỉ của doanh nghiệp do thay đổi về địa giới hành chính, thông tin về chứng minh nhân dân, địa chỉ của cá nhân trong Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp thì doanh nghiệp gửi Thông báo theo mẫu quy định tại Phụ lục II-5 ban hành kèm theo Thông tư này đến Phòng Đăng ký kinh doanh cấp tỉnh nơi doanh nghiệp đặt trụ sở chính. Phòng Đăng ký kinh doanh nhận thông báo và cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp cho doanh nghiệp. Trong trường hợp này, doanh nghiệp không phải trả phí.

(3) Điểm b, Khoản 2, Điều 47, Thông tư 01/2013/TT-BKHĐT ngày 21/01/2013 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư quy định: Trường hợp doanh nghiệp chỉ cập nhật, bổ sung các thông tin trong hồ sơ đăng ký doanh nghiệp mà không làm thay đổi nội dung của Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp thì doanh nghiệp gửi Thông báo theo mẫu quy định tại Phụ lục II-5 ban hành kèm theo Thông tư này đến Phòng đăng ký kinh doanh cấp tỉnh nơi doanh nghiệp đặt trụ sở chính. Phòng Đăng ký kinh doanh bổ sung thông tin vào hồ sơ của doanh nghiệp và cập nhật thông tin vào Cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp. Trong trường hợp này, doanh nghiệp không phải trả phí.

(4) Điều 23, Thông tư 01/2013/TT-BKHĐT ngày 21/01/2013 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư quy định: Trường hợp doanh nghiệp thay đổi nội dung đăng ký thuế mà không thay đổi nội dung đăng ký kinh doanh thì doanh nghiệp thông báo thay đổi nội dung đăng ký thuế theo mẫu quy định tại Phụ lục II-6 ban hành kèm theo Thông tư này.

(5) Đề nghị Quý Doanh nghiệp khi thực hiện đính hoặc bổ sung thông tin về đăng ký doanh nghiệp mang theo thông báo “V/v rà soát, cập nhật thông tin về đăng ký doanh nghiệp” trên website https://hieudinh.dangkykinhdoanh.gov.vn/ và bản sao Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc bản sao Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh,đăng ký thuế.

(6) Quý Doanh nghiệp có thể truy cập theo địa chỉ https://hieudinh.dangkykinhdoanh.gov.vn/ hoặc https://dangkykinhdoanh.gov.vn/ để biết thêm thông tin chi tiết và tải các mẫu thông báo:

Thông báo cập nhật thông tin về đăng ký doanh nghiệp;

Phụ lục II-5;

Phụ lục II-6.

Để Luật Sư Việt Xứng Tầm Quốc Tế

Vấn đề luật sư Việt Nam chưa “đủ tầm” để tranh tụng quốc tế đang được đề cập trên các diễn đàn ở Việt Nam trong thời gian gần đây. Đặc biệt, sau khi một số doanh nghiệp bị kiện và thua tại các cơ quan tài phán nước ngoài. Trong cuộc gặp giữa Thủ tướng và đại diện của giới luật sư đầu tháng 12 năm 2009, Thủ tướng thấy rằng “Việt Nam thiếu những luật sư đủ tầm cỡ cả về năng lực chuyên môn lẫn ngoại ngữ để tham gia tranh tụng quốc tế”. Bộ Tư Pháp có hẳn một đề án “Phát triển đội ngũ luật sư phục vụ yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế”, ngõ hầu tìm giải pháp cho vấn đề này.

Khoảng trống điều kiện

 Theo một khảo sát của Bộ Tư pháp năm 2008, Việt Nam có khoảng 1,2% luật sư (khoảng 60 người) có thể sử dụng tiếng Anh trong hoạt động chuyên môn, tham gia thương lượng, đàm phán và tranh tụng trực tiếp. Cũng theo khảo sát này, số luật sư hành nghề chuyên về lĩnh vực thương mại chỉ chiếm 7,9%, nhưng chủ yếu là trong lĩnh vực doanh nghiệp, chứ còn khá ít ở những lĩnh vực đặc thù như hàng hải, ngân hàng… nếu con số này là chính xác thì quả thực đó là một vấn đê lớn cho công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.

Đề án của Bộ Tư Pháp đặt ra mục tiêu “phấn đấu đến năm 2020 số luật sư chuyên về thương mại chiếm khoảng 50%-60% tổng số luật sư trong cả nước, trong đó số luật sư có trình độ ngang tầm với các luật sư trong khu vực chiếm khoảng 3% đến 5% tổng số luật sư trong cả nước“.

Thứ nhất, để đào tạo được một người luật sư giỏi thì không chỉ là thay đổi phương pháp và nội dung đào tạo tại trường luật hay trường nghề luật, hoặc hỗ trợ về tài chính để họ đi học, mà phải tạo cho người luật sư có môi trường hành nghề chuyên nghiệp. Sự chuyên nghiệp của nghề luật sư không phải là “chạy mánh”, “quan hệ” hay “tiểu xảo pháp lý”, mà phải là việc “bán” kiến thức pháp lý của mình. Khi người luật sư kiếm sống bằng chính kiến thức thì kiến thức sẽ được trau dồi, và xã hội sẽ nhìn nhận nghề luật sư là “đáng tin” để có thể đem lại sự công bằng.

Môi trường hành nghề đó là một xã hội được điều chỉnh bằng Nhà nước pháp quyền. Cần nhấn mạnh rằng nếu xã hội không được  điều chỉnh bằng một Nhà nước pháp quyền thì xã hội và bản thân người luật sư vẫn không thể tư duy một cách đúng đắn về vai trò và bản chất nghề nghiệp của luật sư. Hiện nay, dường như nhiều người vẫn hiểu chưa đầy đủ về vai trò của luật sư. Họ coi hoạt động của luật sư gắn liền với các hành vi kiện tụng. Mà tập quán của người Việt Nam coi “vô phúc đáo tụng đình” nên càng cố gắng tránh xa mối quan hệ với luật sư.

Người luật sư trong xã hội pháp quyền trước hết sẽ là người tư vấn cho những ai có nhu cầu sử dụng pháp luật, bao gồm người dân và Nhà nước. Nhu cầu sử dụng pháp luật trong một xã hội pháp quyền  không chỉ là nhu cầu dùng luật để bảo vệ mình, mà còn dùng luật để đảm bảo rằng mình đã tuân thủ đúng các quy tắc xử sự chung (đây có thể là sự khác biệ giữa pháp quyền và pháp trị).

Người luật sư hoàn toàn được bảo vệ cho tính độc lập của mình khi đưa ra những ý kiến pháp lý. Các cơ quan Nhà nước luôn tạo điều kiện để bảo vệ sự độc lập của người luật sư. Muốn đạt được như vậy trong bối cảnh Việt Nam đang trong công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, thì điều đầu tiên các cơ quan hành chính Nhà nước, các cơ quan tiến hành tố tụng cần phải làm đó là tôn trọng và tạo điều kiện cho luật sư được hành nghề theo đúng bản chất nghề nghiệp. Đây sẽ là yếu tố quan trọng để thúc đẩy sự phát triển của nghề luật sư.

Thứ hai, cũng cần nhấn mạnh rằng để “luật sư có trình độ ngang tầm khu vực” thì người luật sư đó phải được hành nghề trong môi trường pháp luật ở “tầm khu vực”. Nếu không, luật sư Việt Nam sẽ nhìn hệ thống pháp luật nước ngoài, hệ thống xét xử nước ngoài theo “lăng kính” của hệ thống nội địa. Nhiều luật sư, quan chức của Việt Nam phát biểu rằng: “chúng ta thua tại các vụ kiện pháp lý ở nước ngoài là vì thường tòa án/trọng tài nước ngoài sẽ bênh vực công dân của nước họ”, hay “chúng ta là nước nhỏ nên rất khó thắng trong các vụ kiện quốc tế vì cơ quan tài phán thường e ngại những nước lớn”, hoặc “chúng ta cần đấu tranh vận động tòa án hoặc chính phủ ngoài thông cảm”… Những ý kiến trên có thể đúng trong một số ít vụ kiện và đối với một số quan tòa nước ngoài, nhưng không phải là đa số các vụ kiện ở nước ngoài.

Có lẽ cần phải nhắc lại rằng, Nhà nước pháp quyền luôn luôn tôn trọng sự độc lập của các cơ quan tư pháp. Nhiều cơ quan tài phán ở những quốc gia có nền pháp lý  tôn trọng nguyên tắc pháp quyền sẽ luôn luôn độc lập khi đưa ra phán quyết. Việc sai hay đúng trong mỗi vụ kiện thường phải được trên luật pháp và bằng chứng mà cơ quan tài phán có được.

Hơn nữa, cũng cần nhắc lại rằng pháp luật được hình thành để điều chỉnh mối quan hệ xã hội, do đó pháp luật của mỗi quốc gia có nhiều yếu tố của nền văn hóa của quốc gia đó. Tỷ dụ như luật sư nước ngoài sẽ không thể hiểu rõ những tư tưởng lập pháp trong các quy định pháp luật Việt Nam bằng người Việt Nam. Do đó, họ thường hợp tác với luật sư Việt Nam để có thể tư vấn và bảo vệ khách hàng một cách tốt nhất thông qua việc so sánh pháp luật.

Đừng nhìn ngắn cho mục tiêu dài

Một người Việt Nam được học luật ở nước ngoài từ cử nhân lên đến tiến sĩ luật thì anh ta có thể trở thành nhà nghiên cứu luật, giáo sư dạy luật giỏi ở nước ngoài nhưng khó có thể trở thành những luật sư giỏi ở nước ngoài. Do đó, sẽ có thể trở thành viển vông nếu như Việt Nam chú trọng đào tạo trong vòng 10 năm để có những luật sư ngang tầm khu vực thông qua các chương trình đào tạo ngắn hạn ở nước ngoài. Những kinh nghiệm mà các luật sư Việt Nam có được từ các văn phòng luật sư nước ngoài mới chỉ là những kiến thức về kỹ năng hành nghề của nước ngoài chứ chưa hoàn toàn đạt được kiến thức về văn hóa, xã hội, (hoặc góc độ khác là vốn xã hội) của nước ngoài.

Như vậy, để luật sư Việt Nam có thể ngang tầm khu vực thì Việt Nam cần phải có một giải pháp có tính tổng thể và lâu dài hơn là những đề án ngắn hạn cho những mục tiêu lớn lao. Tóm lại, nghề luật sư giống như bác sỹ là đều phụ thuộc rất nhiều vào môi trường sống và các điều kiện sống. Luật sư tranh tụng cũng giống như người bác sỹ ngoại khoa phẫu thuật để chữa trị những bộ phận của cơ thể đã hỏng. Luật sư tư vấn giống như người bác sỹ tư vấn để giúp cho cơ thể luôn luôn được khỏe mạnh mà có thể không cần phẫu thuật. Hy vọng ví dụ đơn giản này sẽ giúp cho mọi người có thể hiểu rõ hơn về nghề luật sư.

Luật sư Nguyễn Hưng Quang Tham luận từ cuộc gặp giữa Thủ tướng Chính phủ và đại diện giới luật sư đầu tháng 12 năm 2009

Văn Phòng Luật Quốc Tế Seyfarth Shaw

Một trong những đối tác lớn của chúng tôi trong việc Tư vấn luật di trú Đầu Tư Định cư Mỹ diện EB-5 là Công ty luật Seyfarth Shaw, có trụ sở chính tại Chicago, Illinois.

A- GIỚI THIỆU VỀ VĂN PHÒNG LUẬT QUỐC TẾ SEYFARTH SHAW, LLP

Công ty luật Seyfarth Shaw là công ty luật quốc tế hàng đầu có trụ sở chính tại Chicago, Illinois. Khách hàng của Seyfarth Shaw gồm hơn 300 công ty trong số 500 công ty thuộc top Fortune 500, và cung cấp dịch vụ trên hầu hết các lĩnh vực của nền kinh tế, bao gồm cả EB-5.

Công ty luật Seyfarth Shaw cung cấp dịch vụ tư vấn luật thấu đáo, mang tính chiến lược và ứng dụng cho các doanh nghiệp và nhóm pháp lý lớn nhỏ. Với hơn 850 luật sư và văn phòng tại Hoa Kỳ, London, Thượng Hải, Hồng Kông, Melbourne và Sydney. Seyfarth Shaw cung cấp nền tảng chuyên môn luật tại quốc gia và quốc tế nhằm đáp ứng môi trường kinh doanh thay đổi thường xuyên và nhu cầu của khách hàng về luật tranh tụng, lao động, doanh nghiệp, bất động sản, lợi ích lao động, và luật di trú.

B- ĐÔI NÉT VỀ LUẬT SƯ DI TRÚ LEON RODRIGUEZ

Luật sư Leon Rodriguez là cựu Giám Đốc tại Sở Nhập Tịch và Di Trú Hoa Kỳ (USCIS) nhiệm kỳ 2014 – 2017. Trong nhiệm kỳ ông giữ chức giám đốc tại USCIS, ông chỉ đạo thực hiện những chính sách về di trú của chính quyền Obama và quản lý hơn 19.000 nhân viên tại khắp 250 địa điểm trên toàn cầu. Ông có hơn 25 năm kinh nghiệm luật sư tranh tụng, luật sư thành viên, và lãnh đạo cơ quan chính phủ.Ông hiện đang là luật sư thành viên tại công ty luật quốc tế Seyfarth Shaw với hơn 850 luật sư. Ông Rodriguez được mời làm diễn giả tại các diễn đàn hội thảo EB-5 tầm cỡ và là một chuyên gia hàng đầu về các chính sách định cư Mỹ bao gồm EB-5.

Luật Sư Thương Mại Quốc Tế Ở Việt Nam

Luật sư hoạt động trong lĩnh vực thương mại quốc tế đang là một câu hỏi lớn đối với giới luật sư ở Việt Nam về cả trình độ, chất lượng và khả năng bứt phá. Vậy chúng ta phải làm gì để bắt kịp với xu thế hội nhập kinh tế mà trước mắt là hội nhập thương mại đang diễn ra hết sức mãnh liệt.

Khi bước vào sân chơi chung về thương mại, chúng ta phải biết luật chơi và cả những quy tắc xử sự, luật sư thương mại quốc tế có vai trò giúp doanh nghiệp và thương nhân (1) chơi không sai luật (2) bảo toàn được quyền lợi (3) chiếm được ưu thế trong cuộc chơi.

Chỉ riêng nói về việc chơi không sai luật (mức độ đơn giản nhất) đã có cả một núi việc phải làm như thủ tục, quy tắc, quy chuẩn, tiêu chuẩn, trình tự xử lý v.v…

Muốn chiếm được ưu thế trong cuộc chơi thương mại quốc tế, các bên phải có khả năng dự đoán, dự báo, càng chính xác càng thành công. Để làm được điều này phải có thông số, khi đó, kinh nghiệm là điều quan trọng số 1 trong việc chọn lọc đâu là thông số tính toán. Sau kinh nghiệm mới là kiến thức hàn lâm (theo quan điểm của tôi, tất nhiên luật sư phải sử dụng cả hai để tổng hợp tham số).

Vậy luật sư trước hết phải nắm rõ luật chơi, tốt hơn nữa phải biết thực tế áp dụng và tuân thủ luật chơi của các bên tham gia, kinh nghiệm ứng xử và thực trạng giải quyết. Sau đó phải tính được “nước cờ” mà đối phương sẽ đi tiếp (ít nhất theo xác suất cao nhất) để có hành vi ứng xử phù hợp (kể cả chấp nhận chế tài thương mại).

Nói đến đây đã thấy luật sư bắt buộc phải có một loạt các kỹ năng, kiến thức, kinh nghiệm có sẵn mới “cân não” được với đối phương. Và tôi thấy thực sự khó khăn nếu tuyển sinh ngay từ đầu vào của các trường đại học luật của chúng ta không tốt. Tiếp đến là chế độ đào tạo và cách thức giúp sinh viên thực hành ngay từ khi còn ở giảng đường.

Khi trao đổi với một số luật sư ở Mỹ, tôi thấy họ không giỏi hơn chúng ta về tư duy và suy luận nhưng họ hơn hẳn chúng ta vì thực hành và kỹ năng vận dụng. Họ “may mắn” hơn chúng ta vì đã có một môi trường đào tạo mang đầy tính thực hành, hơn nữa sinh viên luật bên họ ý thức được ngay công việc và sự nghiệp của mình sau khi ra trưởng, ở xã hội Mỹ, sinh viên luật được coi trong không kém luật sư, nói vậy để chúng ta thấy môi trường đào tạo luật của chúng ta phải ngay lập tức xem xét lại nếu không sẽ thiếu nguồn nhân lực cho công cuộc hội nhập với thế giới. Tôi cũng không muốn doanh nghiệp Việt Nam bỏ tiền ra thuê luật sư nước ngoài giải quyết các vấn đề pháp lý ngay chính trên đất nước mình, lại càng không muốn khi luật sư của họ mang thù lao thu được đó, đổi ra ngoại tệ và chuyển về nước hoàn toàn hợp pháp, chung cuộc về kinh tế chúng ta lại thất bại.

Trí tuệ của chúng ta không thua kém bất kỳ quốc gia nào, mong rằng sự hội nhập thương mại đang diễn ra sẽ là môi trường tốt để chúng ta trước tự khẳng định chính mình trên “sân nhà” sau nữa là vững vàng trên trường quốc tế.

Quý khách hàng có nhu cầu sử dụng dịch vụ vui lòng liên hệ trực tiếp với chúng tôi: