Top 9 # Xem Nhiều Nhất Văn Bản Word Bị Thu Nhỏ Mới Nhất 3/2023 # Top Like | Athena4me.com

Cách Thu Nhỏ Văn Bản Trong Word

1. Lề giấy

Một văn bản Word tiêu chuẩn thường để khoảng cách lề từ 2 đến 3 cm. Nhưng nếu văn bản của bạn điều chỉnh độ rộng lề trên lề dưới lề trái lề phải quá lớn sẽ khiến khoảng trống lề rộng ra quá nhiều, không chỉ đánh mất thẩm mỹ trình bày mà còn khiến văn bản của bạn bị dài ra không cần thiết.

Để điều chỉnh lề của một văn bản các bạn có thể chỉnh trực tiếp trên thành ruler.

Trong Margins cũng có các kiểu lề thường thấy để bạn có thể lựa chọn sử dụng nó cho tệp tài liệu của mình. Bên cạnh sẽ có chú thích rõ ràng các khoảng cách lề trên (Top), lề dưới (Bottom), lề trái (Left) và lề phải (Right).

Nhưng nếu muốn lựa chọn khoảng cách lề một cách tự do hơn thì bạn có thể vào Custom Margins ở cuối cùng.

Với Top là lề trên tính bằng khoảng cách từ dòng đầu tiên tới cạnh trên của tờ giấy.

Bottom là lề dưới tính bằng khoảng cách từ dòng cuối cùng tới cạnh dưới của tờ giấy.

Left là lề trái tính bằng khoảng cách từ cạnh trái của tờ giấy cho tới ký tự văn bản.

Right là lề trên tính bằng khoảng cách từ cạnh phải của tờ giấy cho tới ký tự văn bản.

Riêng với Gutter thì là khoảng cách để bạn đóng quyển (hay hiểu là gáy sách) cho nên bạn có thể tùy chỉnh cả 4 vị trí ở 4 cạnh, nó sẽ chừa ra không khoảng trống nhỏ nữa để khi in ra bạn có thể đem đi đóng quyển mà không ảnh hưởng tới khoảng cách các lề đã điều chỉnh từ trước.

Sau khi điều chỉnh xong, bạn bấm OK để xác nhận toàn bộ cài đặt.

Độ dài giữa hai đoạn và dòng với nhau cũng là vấn đề cần để ý trong bài viết thu nhỏ văn bản này:

Khoảng cách giữa hai đoạn văn với nhau không cần thiết quá lớn, chỉ cần bằng khoảng một dòng chữ là đủ. Bình thường khoảng cách giữa các đoạn cùng chương mục chỉ cần rộng bằng một dòng chữ là đủ nhưng nếu nó bị cách quá nhiều thì bạn nên điều chỉnh lại.

Tương tự như vậy khoảng cách giữa hai dòng chữ trong cùng một đoạn cũng không cần phải để quá lớn.

Với Before chúng ta điều chỉnh khoảng cách của đoạn văn bản đã chọn với đoạn văn bản phía trên và ngược lại với After, chúng ta điều chỉnh khoảng cách của đoạn văn bản đã chọn với đoạn văn bản phía dưới.

Bình thường nếu bạn không sử dụng Enter làm phương pháp cách đoạn thì có thể để mỗi cái là 6 pt, cộng vào tổng cộng khoảng cách giữa các đoạn sẽ là 12 pt.

Khoảng cách này xấp xỉ bằng một dòng đoạn văn nếu các bạn sử dụng font chữ 12 cho toàn bộ văn bản của mình.

3. Định dạng ký tự

Điều chỉnh lại size chữ và font chữ cũng giúp bạn thu hẹp lại đáng kể văn bản soạn thảo của mình.

3.1 Chỉnh size hàng loạt

Với các văn bản hành chính bình thường, size chữ chỉ ở tầm từ 12 pt cho tới 14 pt. Một số văn bản dùng size nhỏ hơn tùy chỉnh.

Khi điều chỉnh Size, bạn cần phải bôi đen tất cả những đoạn văn bản cần chỉnh và vào Home, thay đổi Size tại mục Font.

Với phương pháp điều chỉnh trên bạn có thể chỉnh size đồng loạt các ký tự bạn đã bôi đen về với cỡ size mà bạn chọn. Nhưng có một vấn đề được đặt ra ở đây là nếu như trong văn bản có những đoạn phải có cỡ chữ to hơn hoặc nhỏ hơn, vậy thì việc điều chỉnh size hàng loạt sẽ gây sai lệch định dạng cho những dòng có cỡ khác biệt đấy.

Chính vì thế chúng ta có thể sử dụng chức năng chỉnh size xuống đồng loạt theo tỷ lệ để tránh né vướng mắc trên.

Sau đó chọn dòng More Commands.

File Word 17 Văn Bản Thuế Thu Nhập Doanh Nghiệp

Nhằm giúp bạn đọc thuận tiện hơn trong việc tra cứu và áp dụng các quy định pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp, LuatVietnam tổng hợp toàn văn file word văn bản thuế thu nhập doanh nghiệp đang có hiệu lực.

17 văn bản thuế thu nhập doanh nghiệp

https://cms.luatvietnam.vn/uploaded/Others/2020/03/04/file-word-van-ban-thue-thu-nhap-doanh-nghiep_0403102512.doc 1. Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp 2008.

2. Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp sửa đổi 2013.

3. Luật sửa đổi, bổ sung các Luật về thuế năm 2014.

4. Nghị định 218/2013/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp.

5. Nghị định 91/2014/NĐ-CP sửa đổi các Nghị định quy định về thuế.

6. Nghị định 12/2015/NĐ-CP hướng dẫn Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các Luật về thuế và sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định về thuế.

7. Nghị định 146/2017/NĐ-CP về sửa đổi Nghị định 100/2016/NĐ-CP và 12/2015/NĐ-CP.

8. Thông tư 78/2014/TT-BTC hướng dẫn thi hành Nghị định 218/2013/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp.

9. Thông tư 96/2015/TT-BTC hướng dẫn về thuế thu nhập doanh nghiệp tại Nghị định 12/2015/NĐ-CP.

10. Thông tư 156/2013/TT-BTC hướng dẫn Luật Quản lý thuế; Luật sửa đổi, bổ sung Luật Quản lý thuế và Nghị định 83/2013/NĐ-CP (trong đó có quy định về thời hạn quyết toán thuế thu nhập doanh nghiệp và khai thuế).

11. Thông tư 119/2014/TT-BTC sửa đổi Thông tư 156/2013/TT-BTC, 111/2013/TT-BTC, 78/2014/TT-BTC,…

12. Thông tư 151/2014/TT-BTC hướng dẫn thi hành Nghị định 91/2014/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều tại các nghị định về thuế.

13. Thông tư 150/2010/TT-BTC hướng dẫn về thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập doanh nghiệp đối với các cơ quan báo chí.

14. Thông tư 55/2010/TT-BTC hướng dẫn về thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập doanh nghiệp đối với Đài Truyền hình Việt Nam và các Đài Truyền hình, Đài Phát thanh – Truyền hình tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.

* Văn bản hợp nhất về thuế thu nhập doanh nghiệp

1. Văn bản hợp nhất 14/VBHN-VPQH năm 2014 hợp nhất Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp.

2. Văn bản hợp nhất 09/VBHN-BTC năm 2018 hợp nhất Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp.

3. Văn bản hợp nhất 66/VBHN-BTC năm 2019 hợp nhất Thông tư hướng dẫn thi hành Nghị định 218/2013/NĐ-CP quy định chi tết một số điều của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp.

Lưu ý: Khoản 1 Điều 168 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 quy định:

“Văn bản quy phạm pháp luật sửa đổi, bổ sung phải được hợp nhất với văn bản quy phạm pháp luật được sửa đổi, bổ sung nhằm góp phần bảo đảm hệ thống pháp luật đơn giản, rõ ràng, dễ sử dụng, nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật”.

Như vậy, văn bản hợp nhất chỉ có mục đích nhằm giúp người đọc dễ sử dụng mà không cần tra cứu văn bản gốc, văn bản sửa đổi, bổ sung. Văn bản hợp nhất không được sử dụng khi viện dẫn căn cứ pháp luật.

Khắc Niệm

Văn Bản Mùa Xuân Nho Nhỏ

Văn bản “Mùa xuân nho nhỏ” – Thanh Hải.

I. Tìm hiểu chung:

– Thanh Hải là một nhà thơ cách mạng.

a. Hoàn cảnh sángtác:

– Bài thơ ra đời tháng 11/1980, lúc này, đất nước đã thốngnhất, đang xây dựng cuộc sống mới với muôn ngàn khó khăn thử thách.

– Và đây cũng là một hoàn cảnh rất đặc biệt đối với nhà thơThanh Hải. Ông đang bị bệnh nặng phải điều trị ở bệnh viện trung ương thành phốHuế, và một tháng sau ông qua đời. Có hiểu cho hoàn cảnh của nhà thơ trêngiường bệnh ta mới thấy hết được tấm lòng tha thiết với cuộc sống, với quêhương đất nước của nhà thơ.

b. Bố cục: 4 đoạn:

– Khổ 1: Cảm xúc của nhà thơ trước mùa xuân thiên nhiên, đấttrời.

– Khổ 2,3: Cảm xúc của nhà thơ về mùa xuân đất nước.

– Khổ 4,5: Lời ước nguyện chân thành, tha thiết của nhà thơ.

– Khổ 6: Lời ngợi ca quê hương, đất nước qua điệu dân ca xứHuế.

c. Mạch cảm xúc:

Bài thơ bắt đầu từ những cảm xúc trực tiếp hồn nhiên, trongtrẻo trước vẻ đẹp và sức sống của mùa xuân thiên nhiên, từ đó mở rộng cảm nghĩvề mùa xuân đất nước. Từ mùa xuân lớn của thiên nhiên đất nước mà liên tưởngtới mùa xuân của mỗi cuộc đời – một mùa xuân nho nhỏ góp vào mùa xuân lớn. Bàithơ kết thúc bằng sự trở về với những cảm xúc thiết tha, tự hào về quê hương,đất nước qua điệu dân ca xứ Huế.

II. Đọc – hiểu vănbản:

1. Cảm xúc của nhàthơ trước mùa xuân thiên nhiên, đất trời.

Khác với bức tranh thiên nhiên mùa xuân rực rỡ sắc màu, rạo rực tình ái trong thiphẩm “Vội vàng” của Xuân Diệu, với:

Của ong bướm này đây tuần tháng mật

Này đây hoa của đồng nội xanh rì

Này đây lá của cành tơ phơ phất

Của yến anh này đây khúc tình si

Và này đây ánh sáng chớp hàng mi…

Không mang một sắc xanh tràn ngập không gian như trong bài thơ “Mùa xuân xanh” của Nguyễn Bính với:

Mùa xuân là cả một mùa xanh

Giời ở trên cao, lá ở cành

Lúa ở đồng anh và lúa ở

đồng nàng và lúa ở đồng quanh

Cũng không được khoác lên tấm áo mơ màng, tình tứ như trong bài thơ “Mùa xuân chín” của Hàn Mặc Tử, với:

Trong làn nắng ửng khói mơ tan

Đôi má nhà tranh lấm tấm vàng

Sột soạt gió trêu tà áo biếc

Trên giàn thiên lý. Bóng xuân sang

Bức tranh thiên nhiên mùa xuân trong “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải được vẽ bằngnhững hình ảnh, màu sắc, âm thanh hài hòa, sống động, tràn đầy sức sống:

Mọc giữa dòng sông xanh

Một bông hoa tím biếc

Ơi con chim chiền chiện

Hót chi mà vang trời

Từng giọt long lanh rơi

Tôi đưa tay tôi hứng.

– Không gian mùa xuân rộng mở tươi tắn với hình ảnh một dòng sông trong xanh chảyhiền hoà. Cái màu xanh ấy phản ánh được màu xanh của bầu trời, của cây cối haibên bờ, cái màu xanh quen thuộc mà ta có thể gặp ở bất kì một con sông nào ởdải đất miền Trung.

– Nổi bật trên nền xanh lơ của dòng sông là hình ảnh “mộtbông hoa tím biếc”, một hình ảnh thân thuộc của cánh lục bình hay bông súng,bông trang mà ta thường gặp ở các ao hồ sông nước của làng quê: ” Con sông nhỏ tuổi thơ ta tắm Vẫn còn đây nước chẳngđổi dòng Hoa lục bình tím cả bờsông…” ( Lê Anh Xuân) Màu tím biếc ấy không lẫn vào đâuđược với sắc màu tím Huế thân thương- vốn là nét đặc trưng của những cô gái đấtkinh kỳ với sông Hương núi Ngự.

– Bức tranh không chỉ có “họa” mà còn có “nhạc” bởi tiếngchim chiền chiện cất lên với muôn vàn lời ca tiếng hót, reo mừng:

Ơi con chim chiềnchiện

Hót chi mà vang trời.

+ Nhà thơ gọi “ơi” nghe sao mà tha thiết thế! Lời gọi ấykhông cất lên từ tiếng nói mà cất lên từ sâu thẳm tình yêu thiên nhiên, cất lêntừ tấm lòng của nhà thơ trước mùa xuân tươi đẹp với những âm thanh rộn rã.

+ Lời gọi ấy mới đầu nhen nhóm ở một góc trái tim, nhưng conngười nhà thơ và những cảnh sắc, âm thanh kia như đã hòa vào làm một, cảm xúctừ đó mà òa ra thành lời, thật ngỡ ngàng, thật thích thú.

+ Cảm xúc của nhà thơ đã trào dâng thực sự qua câu hỏi tutừ: “Hót chi mà vang trời”. Thứ âm thanh không thể thiếu ấy làm sống dậy cảkhông gian cao rộng, khoáng đạt, làm sống dậy, vực dậy cả một tâm hồn con ngườiđang phải đối mặt với những bóng đen ú ám của bệnh tật, của cái chết rình rập.

– Thiên nhiên, nhất là mùa xuân vốn hào phóng, sẵn sàng traotặng con người mọi vẻ đẹp nếu con người biết mở rộng tấm lòng. Thanh Hải đãthực sự đón nhận mùa xuân với tất cả sự tài hoa của ngòi bút, sự thăng hoa củatâm hồn. Nhà thơ lặng ngắm, lặng nghe bằng cả trái tim xao động, bằng trí tưởngtượng, liên tưởng độc đáo:

Từng giọt long lanhrơi

Tôi đưa tay tôi hứng.

+ Cụm từ ” giọt long lanh” gợi lên những liên tưởng phongphú và đầy thi vị. Nó có thể là giọt sương lấp lánh qua kẽ lá trong buổi sớmmùa xuân tươi đẹp, có thể là giọt nắng rọi sáng bên thềm, có thể giọt mưa xuânđang rơi…Theo mạch cảm xúc của nhà thơ thì có lẽ đây là giọt âm thanh của tiếngchim ngân vang, đọng lại thành từng giọt niềm vui, rơi xuống cõi lòng rộng mởcủa thi sĩ, thấm vào tâm hồn đang rạo rực tình xuân.

+ Phép ẩn dụ chuyển đổi cảm giác được vận dụng một cách tàihoa, tinh tế qua trí tưởng tượng của nhà thơ. Thành Hải cảm nhận vẻ đẹp của mùaxuân bằng nhiều giác quan: thị giác, thính giác và cả xúc giác.

+ Cử chỉ “Tôi đưa tay tôi hứng” thể hiện sự nâng niu, trântrọng của nhà thơ trước vẻ đẹp của thiên nhiên, đất trời lúc với xuân với cảmxúc say sưa, xốn xang, rạo rực. Nhà thơ như muốn ôm trọn vào lòng tất cả sứcsống của mùa xuân, của cuộc đời.

2. Cảm xúc của nhàthơ về mùa xuân đất nước:

Khi xưa, trong đêm đen của kiếp sống nô lệ, nhà thơ Tố Hữu -một người con xứ Huế đã từng viết:

Tôi nện gót trên đườngphố Huế

Dửng dưng không mộtcảm tình chi

Không gian sặc sụa mùiô uế

Như nước dòng Hươngmải cuốn đi

Đó là Huế trong quá khứ nô lệ đen tối, lầm than. Thời nay,trong hiện tại, Huế đã đổi khác, đang hối hả nhịp chiến đấu, xây dựng cùng đấtnước:

Mùa xuân người cầmsúng

Lộc giắt đầy trên lưng

Mùa xuân người ra đồng

Lộc trải dài nương mạ

Tất cả như hối hả

Tất cả như xôn xao…

– Không phải ngẫu nhiên trong khổ thơ lại xuất hiện hình ảnh”người cầm súng” và “người ra đồng”. Họ là những con người cụ thể, những conngười làm nên lịch sử với hai nhiệm vụ cơ bản của đất nước ta trong suốt quátrình phát triển lâu dài: chiến đấu và sản xuất, bảo vệ và xây dựng Tổ quốc.

– Mùa xuân đến mang đến tiếng gọi của những cố gắng mới vàhi vọng mới, mang đến tiếng gọi của đất nước, của quê hương đang trên đà đổithay, phát triển. Những tiếng gọi lặng lẽ tới từ mùa xuân làm thức dậy conngười, làm trái tim con người như bừng lên rạng rỡ trong không khí sôi nổi củađất nước, của muôn cây cỏ đã đi theo người lính vào chiến trường, sát kề vai,đã cùng người lao động hăng say ngoài đồng ruộng.

– Mùa xuân không những chắp thêm đôi cánh sức mạnh cho conngười mà còn chuẩn bị cho con người những “lộc” non tươi mới, căng tràn nhựasống:

+ “Lộc” không chỉ là hình ảnh tả thực mà con mang ý nghĩa ẩndụ, tượng trưng .

+ “Lộc” là nhành non chồi biếc của cỏ cây trong mùa xuân.

+ Đối với người chiến sĩ, “lộc” là cành lá ngụy trang chemắt quân thù trong cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc đầy cam go và ác liệt.

+ Đối với người nông dân “một nắng hai sương”, “lộc” lànhững mầm xuân tươi non trải dài trên ruộng đồng bát ngát, báo hiệu một mùa bộithu.

+ Nhưng đặc biệt hơn cả, “lộc” là sức sống, là tuổi trẻ, sứcthanh xuân tươi mới đầy mơ ước, lí tưởng, đầy những hoài bão và khát vọng cốnghiến của tuổi trẻ, sôi nổi trong mỗi tâm hồn con người – tâm hồn của người línhdũng cảm, kiên cường nơi lửa đạn bom rơi – tâm hồn của người nông dân cần cù,hăng say tăng gia sản xuất. “Lộc” chính là thành quả hôm nay và niềm tin, hivọng ngày mai.

– Từ những suy nghĩ rất thực về đất nước, nhà thơ khái quát:

Tất cả như hồi hả

Tất cả như xôn xao

+ Còn “xôn xao” lại bộc lộ tâm trạng náo nức rộn ràng.

– Xúc cảm trước vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước khi bước vàomùa xuân, nhà thơ Thanh Hải đã có cái nhìn sâu sắc và tự hào về lịch sử bốnnghìn năm dân tộc:

+ Đặc biệt, phép tu từ so sánh được nhà thơ sử dụng vô cùngđặc sắc, làm ý thơ hàm súc -“Đất nước như vì sao/Cứ đi lên phía trước”. Sao lànguồn sáng bất diệt của thiên hà, là vẻ đẹp lung linh của bầu trời đêm, là hiệnthân của sự vĩnh hằng trong vũ trụ. So sánh như thế, là tác giả đã ngợi ca đấtnước trường tồn, tráng lệ, đất nước đang hướng về một tương lai tươi sáng. Điệpngữ “đất nước” được nhắc lại hai lần thể hiện sâu sắc ý thơ: trải qua nhữnggian truân, vất vả, đất nước vẫn toả sáng đi lên không gì có thể ngăn cản được.

3. Lời ước nguyệnchân thành, tha thiết của nhà thơ.

– Từ những cảm xúc về mùa xuân, tác giả đã chuyển mạch thơmột cách tự nhiên sang bày tỏ những suy ngẫm và tâm niệm của mình về lẽ sống,về ý nghĩa giá trị của cuộc đời mỗi con người:

+ Để bày tỏ lẽ sống của mình, ngay từ những câu thơ mở đầuđoạn, Thanh Hải đã đem đến cho người đọc cái giai điệu ngọt ngào, êm ái củanhững thanh bằng liên tiếp “ta”-“hoa”-“ca”.

+ Điệp từ “ta” được lặp đi lặp lại thể hiện một ước nguyệnchân thành, thiết tha.

+ Động từ “làm”-“nhập” ở vai trò vị ngữ biểu lộ sự hoá thânđến diệu kỳ – hoá thân để sống đẹp, sống có ích.

+ Nhà thơ đã lựa chọn những hình ảnh đẹp của thiên nhiên,của cuộc sống để bày tỏ ước nguyện: conchim, một cành hoa, một nốt trầm . Còn gì đẹp hơn khi làm một cành hoa đemsắc hương tô điểm cho mùa xuân đất mẹ!Còn gì vui hơn khi được làm con chim nhỏcất tiếng hót rộn rã làm vui cho đời!

+ Các hình ảnh bông hoa, tiếng chim đã xuất hiện trong cảmxúc của thi nhân về mùa xuân thiên nhiên tươi đẹp, giờ lại được sử dụng để thểhiện lẽ sống của mình. Một ý nghĩa mới đã mở ra, đó là mong muốn được sống cóích, sống làm đẹp cho đời là lẽ thường tình.

+ Cái “tôi”của thi nhân trong phần đầu bài thơ giờ chuyểnhoá thành cái “ta”. Có cả cái riêng và chung trong cái “ta” ấy. Với cách sửdụng đại từ này, nhà thơ đã khẳng định giữa cá nhân và cộng đồng, giữa cáiriêng và cái chung.

+ Hình ảnh “nốt trầm”và lặp lại số từ “một” tác giả cho thấyước muốn tha thiết, chân thành của mình. Không ồn ào, cao giọng, nhà thơ chỉmuốn làm “một nốt trầm” nhưng phải là”một nốt trầm xao xuyến” để góp vào bảnhoà ca chung. Nghĩa là nhà thơ muốn đem phần nhỏ bé của riêng mình để góp vàocông cuộc đổi mới và đi lên của đất nước.

– Lẽ sống của Thanh Hải còn được thể hiện trong những vầnthơ sâu lắng:

+ Cách sử dụng ngôn từ của nhà thơ Thanh Hải rất chínhxác,tinh tế và gợi cảm. Làm cành hoa,làm con chim,làm nốt trầm và làm một mùaxuân nho nhỏ để lặng lẽ dâng hiến cho cuộc đời.

+ “Mùa xuân nho nhỏ” là một ẩn dụ đầy sáng tạo, biểu lộ mộtcuộc đời đáng yêu, một khát vọng sống cao đẹp.Mỗi người hãy làm một mùa xuân,hãy đem tất cả những gì tốt đẹp, tinh tuý của mình, dẫu có nhỏ bé để góp vàolàm đẹp cho mùa xuân đất nước.

+ Cặp từ láy “nho nhỏ”, “lặng lẽ” cho thấy một thái độ chânthành, khiêm nhường, lấy tình thương làm chuẩn mực cho lẽ sống đẹp, sống đểcống hiến đem tài năng phục vụ đất nước, phục vụ nhân dân.

Nhớ khi xưa, Ức Trai tiên sinh đã từng tâm niệm:

4. Lời ngợi ca quêhương, đất nước qua điệu dân ca xứ Huế.

– Bài thơ kết thúc bằng sự trở về với những cảm xúc thiếttha, tự hào về quê hương, đất nước qua điệu dân ca xứ Huế.

Mùa xuân – ta xin hát

Nước non ngàn dặm mình

Nước non ngàn dặm tình

Nhịp phách tiền đấtHuế.

+ Tác giả có nhắc đến những khúc dân ca xứ Huế ” Nam ai”, ” Nam bình”, có giai điệu buồn thươngnhưng vô cùng tha thiết.

+ Và qua những khúc “Nam ai”, “nam bình” này thì nhà thơđã bộc lộ tình yêu tha thiết của mình đối với quê hương, đất nước; thể hiệnniềm tin yêu vào cuộc đời, vào đất nước với những giá trị truyền thống vữngbền.

III. Tổng kết:

Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” là tiếng lòng tha thiếtyêu mến và gắn bó với đất nước, với cuộc đời; thể hiện ước nguyện chân thànhcủa nhà thơ được cống hiến cho đất nước; góp một “mùa xuân nhonhỏ” của mình vào mùa xuân lớn của dân tộc.

2. Nghệ thuật:

– Thể thơ năm chữ, gần với các làn điệu dân ca.

– Bài thơ giàu nhạc điệu, với âm hưởng nhẹ nhàng, tha thiết.

– Kết hợp những hình ảnh tự nhiên, giản dị, từ thiên nhiênvới những hình ảnh giàu ý nghĩa biểu tượng, khái quát.

– Cấu tứ chặt chẽ, sự phát triển tự nhiên của hình ảnh mùaxuân với các phép tu từ đặc sắc.

Văn Bản: Mùa Xuân Nho Nhỏ – Thanh Hải

Cuộc sống là món quà đẹp nhất tạo hóa dành tặng cho con người. Sống, tận hưởng nhưng còn phải tấn hiến. Thế nên, Tố Hữu trong bài “Một khúc ca xuân” đã có những lời tâm niệm:

Nếu là con chim, chiếc lá Con chim phải hót, chiếc lá phải xanh Lẽ nào vay mà không trả Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình

Đó cũng chính là nguồn cảm hứng chung, mãnh liệt thôi thúc nhà thơ Thanh Hải cầm bút viết nên thi phẩm quá đỗi nhân văn – “Mùa xuân nho nhỏ”. Chúng ta cùng đi tìm hiểu bài thơ:

I. Những nét chính về tác giả – tác phẩm

1. Tác giả

– Thanh Hải (1930 – 1980), tên khai sinh là Phạm Bá Ngoãn, quê huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế. Đây là mảnh đất cố đô, cổ kính, thâm trầm, nơi sẽ để lại dấu ấn rất sâu đậm  trong tâm hồn của nhà thơ và in bóng trong bài thơ Mùa xuân nho nhỏ.

– Ông tham gia hoạt động văn nghệ từ cuối năm kháng chiến chống Pháp. Sự nghiệp thơ văn Thanh Hải gắn liền với hai cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc.

– Mang trong mình “cái tạng” riêng, thơ của ông thường hướng tình cảm của mình về miền Bắc xa nhớ trong những năm đất nước bị chia cắt với hồn thơ giản dị, mộc mạc đậm tính Huế.

– Đọc Mùa xuân nho nhỏ, chúng ta có thể phần nào cảm nhận được phong cách sáng tác rất riêng của Thanh Hải: ngôn ngữ thơ giàu hình ảnh, nhạc điệu, cảm xúc chân thành, đằm thắm,…

2. Tác phẩm Mùa xuân nho nhỏ

a. Hoàn cảnh sáng tác

Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” được viết tháng 11 năm 1980. Đây là thời điểm Thanh Hải đang bệnh nặng và chỉ mấy tuần sau ông qua đời. Bài thơ là những dòng chữ cuối cùng mà nhà thơ để lại. Nó như một sự tổng kết về cuộc đời của ông và gửi gắm về lẽ sống cao cả, đẹp đẽ.

Điều đặc biệt  trong hoàn cảnh sáng tác của bài thơ Mùa xuân nho nhỏ đó là khoảnh khắc hấp hối của thi nhân trên giường bệnh. Dù phải chống trọi với cơn đau của bệnh tật, Thanh Hải vẫn “dành trọn từng giây, từng phút” thăng hoa với văn chương nghệ thuật, cho đời và cho người những tác phẩm nhân văn sâu sắc.

Thầy chợt nhớ đến Văn học thời Lý, có thiền sư Mãn Giác đến lúc bệnh nặng, sắp viên tịch cũng có những vần thơ tràn nhập niềm lạc quan yêu đời:

Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết Đêm qua trước sân một nhành mai.

b. Ý nghĩa nhan đề Mùa xuân nho nhỏ

Nhan đề giống như tên gọi của một con người. Thông qua nhan đề, người đọc một phần nào đoán hiểu nội dung – tưởng tưởng – tình cảm mà tác giả gửi gắm vào trong đó.

– Tác giả đã kết hợp một danh từ trừu tượng là “mùa xuân” với một tính từ cụ thể là “nho nhỏ” để biến một mùa xuân từ trừu tượng trở nên thật gần gũi, hữu hình, cụ thể và mang đến những lớp nghĩa khác nhau:

+ Lớp nghĩa thực:  Mùa xuân nho nhỏ gợi về mùa xuân của đất trời, của thiên nhiên vũ trụ, của cỏ, cây, hoa, lá và có thể cảm nhận được bằng những điểm chạm của giác quan.

+ Lớp nghĩa ẩn dụ: Mùa xuân nho nhỏ thể hiện khát vọng, lí tưởng muốn cống hiến tất cả những gì đẹp đẽ nhất, tinh túy nhất cho cuộc đời, quê hương, đất nước của nhà thơ. Qua đó, thể hiện sự thống nhất giữa cái riêng và cái chung, giữa cá nhân và tập thể.

– Thông qua nhan đề Mùa xuân nhỏ nhỏ, cũng phần nào cho thấy được sự khiêm nhường của nhà thơ. Nhà thơ ước nguyện làm một mùa xuân, nghĩa là sống đẹp, sống có ích nhưng khiêm nhường là một mùa xuân nhỏ góp phần vào mùa xuân lớn của dân tộc.

Bài tập: Nêu ý nghĩa nhan đề bài thơ, từ đó liên hệ tới mối quan hệ với tác phẩm.

c. Bố cục: Ba phần

Thầy vẫn ví, bố cục như Atlat của một tác phẩm. Việc phân chia bố cục bài thơ sẽ góp phần tìm hiểu bài thơ một cách dễ dàng và khoa học hơn:

– Phần một: 1 khổ thơ đầu: Cảm xúc của nhà thơ trước mùa xuân thiên nhiên.

– Phần hai: 2 khổ tiếp theo: Cảm xúc của nhà thơ về mùa xuân đất nước, con người

– Phần ba: 3 khổ còn lại: Khát vọng và lí tưởng sống cao đẹp của tác giả.

II. Trọng tâm kiến thức

1. Cảm xúc của nhà thơ trước mùa xuân thiên nhiên

a. Bức tranh thiên nhiên mùa xuân qua lăng kính của nhà thơ Thanh Hải

Mùa xuân ở đây, có thể hiểu là mùa xuân trong tưởng tượng của thi nhân. Bởi lẽ thời điểm tác giả viết bài thơ mới là khoảng tháng 11/1980. Bài thơ Mùa xuân nho nhỏ mở ra bằng một khung cảnh thiên nhiên trong trẻo và tràn đầy sức sống của mùa xuân:

“Mọc giữa dòng sông xanh Một bông hoa tím biếc Ơi con chim chiền chiện Hót chi mà vang trời”

– Sử dụng nghệ thuật đảo ngữ ở động từ “mọc”:

+ “Mọc” có nghĩa cây cối đâm chồi, nảy lộc. Việc đảo động từ “mọc” lên đầu câu thơ để tô đậm sức sống mạnh mẽ, sức bật đến bất ngờ của một bông hoa trên dòng sông xanh.

+ Gợi liên tưởng về một bông hoa đang từ từ vươn lên trên mặt nước tràn đầy sức xuân và sắc xuân.

– Nếu ví Mùa xuân nho nhỏ là bức tranh xuân xứ Huế, thì Thanh Hải hẳn là một nghệ sĩ rất tài hoa. Bức tranh đó được chấm phá bằng hình ảnh chọn lọc và giàu sức gợi: “Dòng sông xanh”, “hoa tím biếc”, “chim chiền chiện”.

+ Đó là những hình ảnh, tín hiệu đặc trưng của mùa xuân xứ Huế. Nói đến xuân, trường liên tưởng chung có lẽ mầm xanh, chồi biếc, nó như là những mẫu mực chung của mùa xuân rồi. Nhưng nói đến xuân xứ Huế hẳn không thể thiếu sông xanh, tím biếc của sông Hương. Bạn có thể tượng tượng được không khi mùa xuân không có chim hót, không có hoa nở.

+ Gợi lên không gian mênh mông sóng nước và một bầu trời cao rộng, trong veo. Bức tranh đó mở ra có đủ chiều rộng, chiều cao, chiều dài, chiều sâu nhưng chắc hẳn là rất yên tĩnh. Cho nên chỉ cần tiếng hót trong trẻo thanh thanh của chú chiền chiện nhỏ nhắn đã phá vỡ cả không gian mùa xuân tĩnh tại.

– Để cho bức tranh thiên nhiên mùa xuân hài hòa, tươi sáng, ông đã sử dụng những gam màu tươi tắn “xanh, tím”. Nó có sự kết hợp của gam màu lanh là màu xanh + gam màu nóng là màu tím.

– Nếu mùa xuân trong thơ Tố Hữu có “Mùa xuân mơ nở trắng rừng” thì Thanh Hải chỉ say đắm một đóa lục bình tím mà thôi. Câu thơ thứ hai đọc lên tưởng chừng vô lý, bởi lẽ giữa dòng sông dài rộng kia làm sao chỉ có “một bông hoa” cho được? Thế nhưng đằng sau cái vô lý của logic còn là cái có lý của cảm xúc. Bút pháp chấm phá cùng điểm nhìn đặt vào một bông hoa nhỏ bé giữa dòng đã phần nào tạo nên điểm nhấn cho bức tranh. Là một bông nhưng không hề gợi ra cái vẻ cô đơn lẻ loi, trái lại, đó là cảm giác say mê ngắm nhìn, tận hưởng cảnh đẹp của tạo hóa một cách trọn vẹn.

b. Xúc cảm của nhà thơ

Khi đối diện với vẻ đẹp ấy, cho dù là ai cũng phải ngỡ ngàng, xao xuyến đến say sưa:

“Từng giọt long lanh rơi Tôi đưa tay tôi hứng”

– Xuân không chỉ hiện hữu qua màu sắc, đường nét mà còn hài hòa cả âm thanh. Hình ảnh “giọt long lanh rơi” thật giàu sức gợi:

+ Đó có thể là giọt mưa mùa xuân, giọt sương buổi sớm, dưới ánh sáng của mặt trời trở nên long lanh, đẹp đẽ, nên thơ.

+ Trong mối quan hệ với câu thơ trước gợi lên một liên tưởng thú vị, tiếng hót của con chim chiền chiện vang vọng nhưng không tan biến trong không gian mà đọng lại thành từng giọt trong vắt, “long lanh”. Như một thứ quà tặng rất riêng của thiên nhiên xứ Huế, thi nhân đã vội vàng đưa đôi bàn tay để hứng lấy. Tiếng chim từ chỗ được cảm nhận bằng thính giác chuyển thành thị giác rồi xúc giác để thi nhân có thể cảm nhận được một cách rất trọn vẹn. Đó chính là nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác được Thanh Hải sử dụng một cách tài tình, tinh tế.

– Ấn tượng nhất trong bức tranh đầy xuân sắc xuân tình là chi tiết “từng giọt long lanh rơi”. Đặt vào hoàn cảnh sáng tác bài thơ, giữa tiết trời đông lạnh giá, hanh khô của xứ Huế, hóa ra giọt sương ấy không chỉ đơn thuần là hình ảnh tả thực. Nó được tạo ra dưới hình thức nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác “nghe -nhìn”. Nằm trên giường bệnh, làm sao thi nhân có thể đưa mắt ngắm nhìn giọt sương nhỏ bé ở xa? Chính tâm hồn nhạy cảm, đầy luyến ái đã gợi cho nhà thơ những vẻ đẹp chỉ có thể cảm nhận bằng toàn bộ trái tim mình. Ta hiểu “giọt long lanh” ấy chính là giọt âm thanh của tiếng chim, của sức sống mùa xuân đang phơi phới căng tràn trong lồng ngực. Thi nhân dường như đã quyện hòa hoàn toàn trong thiên nhiên tự lúc nào.

– Các từ cảm thán “ơi”, “chi” gợi lên một chất giọng ngọt ngào, thân thương, gần gũi, đặc chi chất Huế.

– Điệp từ “tôi” được điệp lại 2 lần cho thấy sự xuất hiện của nhân vật trữ tình.

– Động từ “hứng” thể hiện những gì là nâng niu, trân trọng.

– Đại từ “tôi” được điệp hai lần và đi liền với hành động “hứng” cho thấy thái độ trân trọng của thi nhân trước vẻ đẹp của thiên nhiên. Đồng thời, gợi sự tận hưởng, chiếm lĩnh và giao hòa với mùa xuân.

Bài tập: Những câu thơ sau sử dụng biện pháp nghệ thuật gì? Em hãy nêu tác dụng của biện pháp ấy.

Với những xúc cảm trước mùa xuân của thiên nhiên, đất trời Thanh Hải đã tìm thấy niềm cảm xúc ấy lan tỏa, ngân nga trong mùa xuân của đất nước, con người.

2. Cảm xúc của nhà thơ trước mùa xuân đất nước, con người

a. Mùa xuân của con người

Từ vẻ đẹp của mùa xuân quê hương, Thanh Hải đã mở rộng để khám phá, ngợi ca vẻ đẹp của mùa xuân đất nước:

“Mùa xuân người cầm súng Lộc giắt đầy trên lưng Mùa xuân người ra đồng Lộc trải dài nương mạ

– Nhà thơ cảm nhận mùa xuân đất nước qua hình ảnh sóng đôi “người cầm súng” và “người ra đồng”:

+ Biểu trưng cho hai nhiệm vụ chiến lược quan trọng của đất nước ta là cùng chiến đấu ở tiền tuyến và lao động xây dựng hậu phương vững chắc.

+ Hình ảnh “người cầm súng” đi liền với hình ảnh “lộc giắt đầy trên lưng” gợi liên tưởng đến vòng lá ngụy trang của người chiến sĩ đang nảy những chồi non, lộc biếc cùng các anh ra trận để bảo vệ tổ quốc.

+ Hình ảnh “người ra đồng” đi liền với hình ảnh “lộc trải dài nương mạ” gợi liên tưởng đến những cánh đồng màu mỡ, xanh tươi của những bàn tay khéo léo gieo trồng của người nông dân. Họ như mang cả mùa xuân cho đồng ruộng, gieo màu xanh của hạnh phúc ấm no.

– Điệp từ “mùa xuân”, “lộc”:

+ Gợi quang cảnh mùa xuân tươi đẹp đang vươn những chồi non lộc nõn.

+ Ẩn dụ tượng trưng cho tín hiệu, thành quả trong công cuộc xây dựng, sản xuất và chiến đấu. Là thành quả của cuộc cách mạng Việt Nam trên khắp các mặt trận giải phóng dân tộc.

– Điệp từ “lộc” kết hợp với từ “giắt đầy”, “trải dài” gợi màu xanh của sức xuân bất tận.

– Từ những suy nghĩ rất thực về đất nước, nhà thơ đã đi đến khái quát:

Tất cả như hối hả Tất cả như xôn xao

+ Từ “tất cả” cho thấy tinh thần dân tộc, đoạn kết của những con người trong thời đại mới.

+ “Hối hả” diễn tả nhịp điệu khẩn trương, tất bật; “xôn xao” bộc lộc tâm trạng náo nức, rộng ràng. 

–  Điệp từ “tất cả” đi liền với những từ láy biểu cảm “hối hả”, “xôn xao” làm cho nhịp thơ trở nên nhanh, gấp, gợi một nhịp sống, không khí sôi động, hối hả, khẩn trương trong nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ đất nước. Cả dân tộc bước vào mùa xuân với khí thế khẩn trương, náo nhiệt, hân hoan.

Bài tập: Từ “lộc” trong bài được sử dụng với nghĩa gốc hay nghĩa chuyển? Hãy giải thích tại sao tác giả lại miêu tả người lính là “lộc dắt đầy trên lưng”?

b. Mùa xuân của đất nước

Trước mùa xuân của con người, nhà thơ đã bày tỏ niềm tự hào và niềm tin tuyệt đối vào tương lai tươi sáng của đất nước:

“Đất nước bốn ngàn năm Vất vả và gian lao Đất nước như vì sao Cứ đi lên phía trước”

– Hệ thống tính từ “vất vả”, “gian lao” đã giúp tác giả đúc kết chặng đường 4000 năm dựng nước và giữ nước với biết bao thăng trầm, thử thách. Trong suốt chiều dài lịch sử ấy, đất nước ta đã trải qua biết bao đau thương và mất mát, song đã khẳng định được sức mạnh, ý chí và bản lĩnh của dân tộc mình. Cả ngàn năm đô hộ, nhưng chúng ta vẫn giữ được tiếng nói riêng, văn hoá riêng của dân tộc mình, không bị đồng hoá.

– Hình ảnh so sánh “đất nước như vì sao” gợi lên những liên tưởng và ý nghĩa thật sâu sắc:

+ Gợi liên tưởng đến nguồn sáng lấp lánh, tồn tại vĩnh hằng trong không gian và thời gian.

+ Gợi liên biểu tượng thiêng liêng trên lá cờ đỏ sao vàng tổ quốc với biết bao kiêu hãnh và tự hào.

+ Gợi ý nghĩa về dân tộc Việt Nam ta trong suốt chiều dài lịch sử, từ trong đêm tối nô lệ đã phá tan xiềng xích, thoát khỏi phong kiến, thực dân để tỏa sáng.

+ Gợi niềm tin của tác giả vào một tương lai tươi sáng, rộng mở với khí thế đi lên mạnh mẽ không gì cản nổi.

– Điệp từ “đất nước” cộng với cấu trúc song hành “đất nước bốn ngàn năm… đất nước như vì sao…” diễn tả sự vận động liên tục đi lên của lịch sử và khẳng định sự trường tồn vĩnh cửu của đất nước.

– Phụ từ “cứ” chỉ sự tiếp diễn của thời gian kết hợp với động từ “đi” thể hiện quyết tâm cao độ, ý chí và niềm tin sắt đá của nhà thơ và cả dân tộc về tương lai tươi sáng của đất nước. Một dân tộc sẽ luôn luôn trường tồn, mãi mãi phát triển.

3. Khát vọng và lí tưởng sống cao đẹp của nhà thơ

Từ những cảm xúc vui mừng, say xưa, ngây ngất trước vẻ đẹp của thiên nhiên đất trời xứ Huế vào xuân, vào tương lai tươi sáng của đất nước, Thanh Hải đã có những lời ước nguyện thật thiết, cảm động:

“Ta làm con chim hót Ta làm một cành hoa Ta nhập vào hòa ca Một nốt trầm xao xuyến”

– Nhà thơ đã đổi đại từ nhân xưng từ “tôi” sang “ta”. Đại từ “ta” bộc lộ một cách trực tiếp tâm niệm của thi nhân.

– Nếu như ở khổ thơ đầu, nhân vật trữ tình xưng “tôi”- tức là cái tôi riêng của thi nhân thì đến đây Thanh Hải đã chuyển thành “ta”, nghĩa là đại từ chỉ chung cho tất thảy mọi người. Nhà thơ như hòa nhập tâm hồn mình vào tâm hồn của tạo vật, con người để nói hộ chung tiếng nói của vô vàn những người khác.

– Điệp cấu trúc ngữ pháp “Ta làm… Ta nhập…” được đặt ở vị trí đầu của ba câu thơ đã khiến cho nhịp điệu thơ trở nên nhẹ nhàng, khiến cho câu thơ như một lời thủ thỉ tâm tình về ước nguyện hóa thân, hiến dâng cho quê hương, đất nước của nhà thơ.

– Hệ thống hình ảnh “con chim hót”, “cành hoa”, “nốt trầm xao xuyến” là những hình ảnh giản dị nhưng cũng thật hàm xúc:

+ Con chim cất cao tiếng hót để làm vui cho đời; cành hoa điểm sắc để tô thắm cho mùa xuân; một nốt trầm trong muôn nốt nhạc góp vào bản hòa ca muôn điệu. Đó là những hình ảnh hết sức giản dị, nhỏ bé song vô cùng tinh túy đã cho thấy ước nguyện khiêm nhường mà cao quý của thi nhân.

+ Những hình ảnh này có sự đối ứng chặt chẽ với những hình ảnh mở đầu của bài thơ để khẳng định một lẽ tự nhiên, tất yếu: con chim sinh ra là để dâng tiếng hót cho đời; bông hoa sinh ra là để tỏa hương sắc; bản hòa ca tưng bừng, rộn rã song không thể thiếu nốt trầm xao xuyến.

+ Gợi liên tưởng đến mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng, giữa con người và đất nước.

Bài tập: Trong phần đầu bài thơ, tác giả dùng đại từ “tôi”, sang phần sau lại dùng đại từ “ta”. Em hiểu như thế nào về sự chuyển đổi đại từ nhân xưng ấy của chủ thể trữ tình?

Từ cái khát vọng sống cao quý, tác giả đã nâng lên thành một lí tưởng sống cao cả:

“Một mùa xuân nho nhỏ Lặng lẽ dâng cho đời Dù là tuổi hai mươi Dù là khi tóc bạc”

– Tác giả xin được làm một “mùa xuân nho nhỏ” để góp phần làm đẹp cho mùa xuân lớn của dân tộc. Hình ảnh “một mùa xuân nho nhỏ” gợi một mùa xuân cụ thể, đẹp đẽ, xinh xắn đồng thời cũng là một ẩn dụ, biểu lộ một lẽ sống cao đẹp, sống một cuộc đời đẹp như những mùa xuân và dâng hiến cho đời những gì đẹp đẽ nhất của mình. Đây chính là một hình ảnh ẩn dụ đặc sắc của nhà thơ Thanh Hải, thể hiện một ước nguyện chân thành và khiêm tốn.

– Từ láy “ nho nhỏ”:

+ Thể hiện ước muốn, khát vọng khiêm tốn và giản dị của nhà thơ.

+ Gợi về những gì đẹp đẽ và tinh túy nhất của cuộc đời con người để góp cho mùa xuân đất nước.

– Sử dụng phép đảo ngữ, nhấn mạnh vào tính từ “lặng lẽ” đã cho thấy vẻ đẹp của một tâm hồn, lối sống và nhân cách. Mùa xuân của Thanh Hải không hề ồn ào, khoa trương, náo nhiệt mà lặng lẽ hiến dâng. Dâng cho đời là dâng một cách tự nguyện, không đòi hỏi sự đền đáp. Đó chính là lối sống, cống hiến đẹp đẽ, vô tư, trong sáng nhất mà con người cần hướng tới.

– Điệp cấu trúc ngữ pháp “Dù là… Dù là…” và hình ảnh tương phản “tuổi hai mươi” và “khi tóc bạc” khiến cho lời thơ như một lời hứa, lời tự nhủ với mình.

+ “Tuổi hai mươi” là tuổi thanh xuân đẹp nhất trong cuộc đời mỗi con người.

+ “Khi tóc bạc” là độ tuổi khi con người đã già yếu.

Bài thơ khép lại trong giai điệu ngọt ngào, êm dịu của dân ca trữ tình xứ Huế:

“Mùa xuân ta xin hát Câu Nam ai, Nam bình Nước non ngàn dặm mình Nước non ngàn dặm tình Nhịp phách tiền đất Huế”

– Mở đầu bài thơ là âm thanh tiếng hót chim chiền chiện và kết thúc bài thơ là âm thanh của tiếng hát: “Mùa xuân ta xin hát”, tạo nên âm hưởng vang mãi.

– “Khúc Nam ai” là khúc nhạc buồn thương, da diết để gợi con đường đầy hi sinh, gian khổ mà đất nước đã đi qua.

– “Khúc Nam bình” là khúc nhạc êm ái, dịu ngọt để gợi mùa xuân hiện tại với cuộc sống thanh bình, no ấm.

– Phách tiền là một loại nhạc cụ dân gian được chế tác đơn giản bằng những thanh gỗ có gắn những đồng tiền, thường tấu lên nhạc điệu nhịp nhàng, rộn rã cho những bài ca Huế tươi vui.

– “Nhịp phách tiền” là điệu nhạc rộn ràng để khép lại bài thơ, đó là giai điệu của cuộc sống mới, sức sống mới của dân tộc.

– Dường như những âm điệu buồn vui rất đặc trưng Huế ấy đã “ăn” vào máu thịt, luôn thường trực và ám ảnh nhà thơ. Mùa xuân đất Huế đã khơi dậy cảm hứng trào dâng bật lên thành tiếng hát tha thiết và sâu nặng tình yêu quê hương.

III. Tổng kết

1. Nội dung

Mùa xuân nho nhỏ, tác giả đã tái hiện thành công vẻ đẹp của mùa xuân thiên nhiên, mùa xuân đất nước. Qua đó bày tỏ lẽ sống cao đẹp, là sẵn sàng dâng hiến cuộc đời mình cho đất nước.

2. Nghệ thuật

– Bài thơ Mùa xuân nhỏ nhỏ được viết theo thể thơ năm chữ, cách gieo vần liền giữa các khổ thơ đã tạo ra sự liền mạch của cảm xúc.

– Ngôn ngữ và hình ảnh thơ giản dị, trong sáng, giàu sức gợi.

– Cảm xúc rất đỗi chân thành, tha thiết, cho nên bài thơ trở là lòng của nhà thơ Thanh Hải với đất nước, với cuộc đời.

IV. Một số dạng đề tham khảo

Câu 1. Đọc đoạn thơ sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:

Ta làm con chim hót  Ta làm một nhành hoa  Ta nhập vào hòa ca  Một nốt trầm xao xuyến.

 Một mùa xuân nho nhỏ  Lặng lẽ dâng cho đời  Dù là tuổi hai mươi  Dù là khi tóc bạc.

(SGK Ngữ văn 9 tập 2) 

a. Đoạn thơ trên được trích từ tác phẩm nào? Của tác giả nào?

b. Nêu tác dụng của phép điệp được sử dụng trong đoạn thơ.

c. Những hình ảnh: “con chim hót”, “một nhành hoa”, “một nốt trầm xao xuyến” có điểm gì chung giống nhau và ý nghĩa của chúng?

d. Từ ước nguyện được cống hiến của nhân vật trữ tình trong đoạn thơ, hãy viết đoạn văn (khoảng 200 từ) trình bày suy nghĩ về quan niệm: Sống là cống hiến.

Câu 2. 

Mọc giữa dòng sông xanh Một bông hoa tím biếc Ơi con chim chiền chiện Hót chi mà vang trời Từng giọt long lanh rơi Tôi đưa tay tôi hứng

Mùa xuân người cầm súng Lộc giắt đầy trên lưng Mùa xuân người ra đồng Lộc trải dài nương mạ Tất cả như hội hả Tất cả như xôn xao…

(Trích Mùa xuân nho nhỏ – Thanh Hải, Ngữ văn 9, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2016)

Trình bày cảm nhận của em về vẻ đẹp của mùa xuân trong đoạn thơ trên. Từ đó, nhận xét ngắn gọn về cảm xúc, suy nghĩ của tác giả trước mùa xuân.

Câu 3.

Anh/chị hãy cảm nhận đoạn thơ sau, từ đó liên hệ tới trách nhiệm của tuổi trẻ đối với đất nước trong cuộc sống hôm nay.

Ta làm con chim hót Ta làm một cành hoa Ta nhập vào hòa ca Một nốt trầm xao xuyến

Một mùa xuân nho nhỏ Lặng lẽ dâng cho đời Dù là tuổi hai mươi Dù là khi tóc bạc… 

(Trích Mùa xuân nho nhỏ – Thanh Hải, Ngữ văn 9, tập hai. NXBGD Việt Nam, 2015)

Làm chủ kiến thức ngữ văn 9 – Luyện thi vào 10

Tác giả: Phạm Trung Tình