Top 7 # Xem Nhiều Nhất Văn Bản Cô Bé Bán Diêm Soạn Mới Nhất 5/2023 # Top Like | Athena4me.com

Văn Bản “Cô Bé Bán Diêm”

1.Hãy xác định ba phần của văn bản này nếu lấy việc em bé quẹt những que diêm làm phần trọng tâm.Căn cứ vào đâu để có thể chia phần thứ hai ( phần trọng tâm )thành những đoạn nhỏ hơn .

Phần thứ nhất: Hòan cảnh của cô bé bán diêm. Phần thứ hai (trọng tâm): Các lần quẹt diêm và những mộng tưởng. Phần thứ ba: Cái chết thương tâm của em bé bán diêm.

Phần trọng tâm có thể chia thành 5 đoạn nhỏ căn cứ vào các lần quẹt diêm. Bốn lần đầu, mỗi lần quẹt một que diêm. Lần thứ năm quẹt tất cả những que diêm còn lại trong bao.

chúng tôi phần đầu,chúng ta biết gì về gia cảnh của nhân vật cô bé bán diêm và không gian,thời gian xảy ra câu chuyện?Liệt kê những hình ảnh tương phản (đối lập,đặt gần nhau,làm nổi bật lẫn nhau)được nhà văn sử dụng trong phần này nhằm khắc họa nỗi cực khổ của cô bé

-Gia cảnh: +Mẹ chết, sống với bố, bà nội cũng đã qua đời. +Nhà nghèo, sống chui rúc trong một xó tối tăm, trên gác sát mái nhà. +Bố khó tính, em luôn luôn nghe những lời mắng nhiếc, chửi rủa. +Phải đi bán diêm kiếm sống. -Không gian,thời gian xảy ra câu chuyện: +Đêm giao thừa: gió rét, tuyết rơi. +Đường phố vắng vẻ.

3.Chứng minh rằng những mộng tưởng của cô bé qua các lần quẹt diêm diễn ra theo trình tự hợp lí.Trong số các mộng tưởng ấy,điều nào gắn với thực tế,đièu nào thuần túy chỉ là ảo mông?

-Các mộng tưởng diễn ra theo trình tự hợp lí: vì trời rét nên trước hết em nghĩ đến lò sưởi, tiếp đó, vì đói nên em nghĩ tới bàn ăn, sau đó vì hôm nay là giao thừa nên “cây thông Nôen” hiện ra, đến đây, em nhớ đến đã có một thời em cũng được đón giao thừa như thế, khi bà còn sống, thế là hình ảnh bà em xuất hiện. Thực tế và mộng tưởng xen kẽ với nhau: khi diêm cháy là lúc mộng tưởng hiện ra trong đầu em bé, khi diêm tắt là lúc em trở về với thực tại -Con ngỗng quay nhảy ra khỏi đĩa, hai bà cháu nắm tay nhau bay lên trời chỉ là mộng tưởng Các hình ảnh: lò sưởi, bàn ăn, cây thông Nôen gắn với thực tế

4.Phát biểu cảm nghĩ của em về truyện Cô bé bán diêm nói chung và về đoạn kết của chuyện nói riêng

“Sáng hôm sau, tuyết vẫn phủ kín mặt đất, nhưng mặt trời lên, trong sáng, chói chang trên bầu trời xanh nhợt. Mọi người vui vẻ ra khỏi nhà. Trong buổi sáng lạnh lẽo ấy, ở một xó tường, người ta thấy một em gái có đôi má hồng và đôi môi đang mỉm cười. Em đã chết vì giá rét trong đêm giao thừa. Ngày mồng một đầu năm hiện lên trên thi thể em bé ngồi giữa những bao diêm, trong đó có một bao đã đốt hết nhẵn. Chẳng ai biết những cái kì diệu em đã trông thấy và nhất là cảnh huy hoàng lúc hai bà cháu bay lên để đón lấy những niềm vui đầu năm”

– Em đã đi vào bầu ánh sáng vĩ đại, vào sống trong một thế giới của ánh sáng, tình thương, nơi ấy có người bà hiền hậu thân thương, có những lò sưởi ấm, những bữa ăn thịnh soạn, những cây thông trang hoàng rực rỡ, được sống trong sự bao dung chở che và lòng độ lượng nhân từ vô hạn của Chúa. Em đã vĩnh viễn thoát khỏi những đọa đày trên mặt đất đau thương, vĩnh viễn thoát khỏi những cơn đói hành hạ, thoát khỏi cái rét cắt da cắt thịt, khỏi nỗi cô đơn, bất hạnh. Em ra đi thanh thản và mãn nguyện “đôi má hồng và đôi môi đang mỉm cười”. Chắc hẳn gương mặt ấy sẽ còn ám ảnh độc giả bao thế hệ: cô bé ra đi trong niềm vui, sự bao dung, tha thứ. Cô mỉm cười từ giã tất cả, tha thứ tất cả: những lời chửi mắng thậm tệ, những trận đòn roi, những sự lạnh lùng vô cảm của con người…. Cô bé ra đi tựa như một thiên thần, sau khi chịu đựng những đọa đày thế gian đã được trở về với Chúa, về nước thiên đàng. Ở phương diện đó, kết thúc câu chuyện là một cái kết có hậu, ấm áp và đầy tính nhân văn. Andersen đã không dùng đôi cánh tưởng tượng để thoát li mà cúi sát xuống hiện thực khốc liệt của cuộc sống, để cảm thông và yêu thương những số phận bất hạnh, để nhận ra và trân trọng những ước mơ trong sáng, thánh thiện của con người.

– Nhưng không hẳn là một cái kết hoàn toàn có hậu. Truyện của Andersen khép lại nhưng lòng người đọc vẫn không nguôi băn khoăn, trăn trở, day dứt suy nghĩ về con người, cuộc đời, về tình người, tình đời. Nhà văn không né tránh hiện thực nghiệt ngã. Cô bé có tâm hồn trong sáng, thánh thiện ấy đã chết, chết trong chính đêm giao thừa, trong cái đói, cái rét hành hạ. Một năm mới sang hứa hẹn những khởi đầu mới nhưng cô bé đã kết thúc cuộc hành trình của mình tại chính ngưỡng cửa của năm mới. Chẳng có cơ hội, chẳng có tương lai nào cho em. Trước khi chết vì đói, vì rét, em đã chết vì chính sự lạnh lùng, vô cảm, tàn nhẫn, ích kỉ của con người. Em không dám về nhà vì sợ những lời chửi mắng, đánh đập của bố, em trơ trọi, bơ vơ, tuyệt vọng chống chọi với cái giá rét trước ánh mắt vô cảm, thờ ơ của những người qua đường, em cô đơn, buồn tủi khi mọi người vui vẻ, hân hoan đón chào năm mới, em nằm đó trong những lời đàm tiếu vô tâm của mọi người. Em từ giã cõi đời, giã từ cuộc sống vì không ai thương em, không ai che chở, bảo vệ em. Cái chết của em mãi để lại nỗi xót thương, niềm day dứt như một câu hỏi ám ảnh trong lòng mỗi người: làm sao để không bao giờ trên mặt đất này còn có những trẻ em bất hạnh như cô bé bán diêm ?

Soạn Bài: Cô Bé Bán Diêm

Hướng dẫn soạn văn, soạn bài, học tốt bài

Hanx Cri-xti-an An-đéc-xen (1805-1875) là nhà văn Đan Mạch nổi tiếng chuyên viết truyện cho thiếu nhi. Ông có thể dựa theo những câu chuyện cổ tích được lưu truyền trong dân gian để viết lại, nhưng cũng nhiều truyện ông tự sáng tác mới hoàn toàn. Dù theo cách nào thì những câu chuyện của ông ( Cô bé bán diêm, Bầy chim thiên nga, Nàng tiên cá, Bộ quần áo mới của hoàng đế, Nàng công chúa và hạt đậu,… ) cũng luôn được các bạn nhỏ khắp nơi trên thế giới (trong đó có Việt Nam) hoan nghênh nhiệt liệt. Các nhân vật của ông đôi khi ở trong những hoàn cảnh rất thương tâm nhưng nhìn chung truyện của ông luôn lấp lánh thứ ánh sáng lãng mạn kì ảo, kết thúc có hậu, mang đến cho bạn đọc niềm tin và tình yêu đối với cuộc sống.

Nhà văn Nguyễn Tuân đã viết: “Một em nhỏ nào đã đọc qua truyện ngắn Ăngđớcxen() thì trọn đời không khi nào quên và dửng dưng với thơ ca, mộng ước, tình thương yêu và lòng công bằng. Còn trứng nước, người độc giả tí hon thấy ở truyện Ăngđớcxen cái thế giới tưởng tượng xa xôi có yêu tinh nhưng cũng có nàng Tiên, và sớm biết rằng kẻ ác dù oai tợn đến đâu rồi cuối cùng cũng cứ lăn chiêng đổ nhào. Lớn dần lên, tưởng tượng dồi dào hơn, người bạn đọc sẽ thấy nhân vật là những người cố gắng vượt khó để tiến gần lên công lí và nhích mãi tới chân lí. Đứng tuổi rồi thì người bạn đọc sẽ thấy ở truyện ngắn đó bừng lên những kinh nghiệm về lẽ đời và đạo người, thấy cái triết lí sinh động của sự sống, và cái lí giải chân xác về cuộc sống. ở người độc giả lớn tuổi, Ăngđớcxen đã biết tỉnh gợi được lại cái phần hồn nhiên trong trắng vẫn đọng chìm, đánh thức lại những cái bồng bột chân chất của tuổi măng trứng để mà đối soi vào thực tế phiền phức.

[ …] Ăngđớcxen là một văn hào nổi tiếng trong nước, và danh vang ra nhiều nước ngoài như Nga, Đức, Thuỵ Điển, Anh, Pháp, Mĩ,… Lúc sống đã như vậy và sau lúc nằm xuống, lại càng lừng lẫy. Sinh thời, Ăng-đớc-xen là bạn thân của Hen-ri Hai-nơ nước Đức, Vích-to Huy-gô nước Pháp, Sác-lơ nước Anh; M. Goóc-ki là người rất thích truyện ngắn Ăngđớcxen. Ăngđớcxen đã nói: “Tôi rất sung sướng thấy tác phẩm của tôi được đọc nhiều ở nước Nga vĩ đại và hùng cường mà tôi đã hiểu phần nào về văn học súc tích từ Ka-ra-ma-din, Pu-skin đến những thời cận đại”. Tự hào về cái phần của Tổ quốc Đan Mạch mình đóng góp vào văn học thế giới, Ăngđớcxen rất tha thiết với những thành quả của các nền văn học các nước. Ăngđớcxen đã được dịch ra từ lâu rồi ở trên thế giới, trong khối dân chủ và cả ở nhiều nước tư bản. Riêng ở Liên Xô, đã dịch ra 33 thứ tiếng khác nhau, xuất bản 190 lần gồm hơn 7 triệu cuốn, đã phổ nhạc cho kịch viện thiếu nhi, các hý viện soạn truyện thành kịch, và đài truyền thanh có những buổi phát thanh cho trẻ em Liên Xô và dành riêng cho các truyện Ăngđớcxen.

Đoạn trích Cô bé bán diêm tuy không đầy đủ nhưng cũng đã cho thấy một nghệ thuật kể chuyện rất hấp dẫn của An-đéc-xen. Các tình tiết được sắp xếp, miêu tả hợp lí, thủ pháp lãng mạn phát huy tối đa hiệu quả khiến cho cái chết của cô bé bán diêm tuy rất thương tâm nhưng không bi thảm, để lại nhiều dư vị, cảm xúc tốt đẹp trong lòng bạn đọc.

c) Truyện ngắn Ăngđớcxen đã cụ thể hoá những hoài bão của tác giả. Càng am tường về sự mục ruỗng và đê tiện của đám quyền tước thống trị, mà tác giả lại càng nhận thức sâu sắc được về bản chất thuần phác của những con người nghèo, đói sạch, rách thơm và tâm hồn có rất nhiều điểm rất cao quý. Truyện nào của Ăngđớcxen cũng phụng sự cho những người thường dân làm lụng, rất nhiều thiện ý nhưng cũng rất nhiều đau khổ. Cái xấu, cái ác, tủi thương khổ não vẫn bao vây con người, nhưng nhà viết đoản thiên kì tài của chúng ta vẫn là người tin chắc ở tương lai hạnh phúc, vẫn giữ độc giả mình đứng sát vào điều thiện. Cái lòng lạc quan ở em bé bán diêm ấy cũng đã bao trùm toàn bộ trước tác” (Nguyễn Tuân: Chuyện nghề, NXB Tác phẩm mới, 1986, tr. 11-13).

Khi đọc bài văn cần phát huy tối đa trí tưởng tượng, hình dung theo từng chi tiết, phân biệt giọng kể của tác giả và giọng thể hiện suy nghĩ của cô bé bán diêm. Ví dụ: “Chà! Giá quẹt một que diêm mà sưởi cho đỡ rét một chút nhỉ? Giá em có thể rút một que diêm ra quẹt vào tường mà hơ ngón tay nhỉ? Cuối cùng em đánh liều quẹt một que. Diêm bén lửa thật là nhạy”.

Đọc Hiểu Văn Bản: Cô Bé Bán Diêm

Câu chuyện kể về một cô bé bán diêm mồ côi mẹ từ nhỏ trong đêm giao thừa tuyết rơi lạnh giá cố bán những bao diêm. Cả ngày nay cô bé phải đi qua nhiều con phố nhưng không bán được bao nào, cái lạnh, cái đói làm em kiệt sức. Nhưng em lại không thể quay về nhà được vì sợ bị đòn. Ngồi nép vào góc tường em rút những que diêm trong bao ra đốt để sưởi ấm. Quẹt que diêm thứ nhất,lò sưởi hiện ra,que thứ hai vụt cháy em thấy đồ ăn thơm ngon,rồi que thứ ba em thấy cây thông noel rực rỡ đẹp đẽ , que cuối cùng em được gặp được người bà hiền hòa nhân hậu. Em đã quẹt hết chỗ diêm mà mình có để được nhìn thấy bà. Em ra đi nhưng trên môi em vẫn còn giữ lại nụ cười vì trong mơ em đã được gặp bà.

Văn bản chia làm 3 phần

– Phần 1: từ đầu đến cứng đờ ra (hoàn cảnh đáng thương của cô bé bán diêm)

– Phần 2: tiếp theo đến chầu Thượng đế ( bốn lần quẹt diêm và điều ước sâu trong lòng em)

– Phần 3: còn lại.( em bé đang thương ra đi trong sự bình thản)

Soạn bài Cô bé bán diêm 3 cách

Hãy xác định ba phần (chỗ bắt đầu, chỗ kết thúc từng phần) của bài này nếu lấy việc em bé quẹt từng que diêm làm phần trọng tâm. Căn cứ vào đâu đế có thể chia phần thứ hai (phần trọng tâm) thành những đoạn nhỏ hơn?

Chia 3 phần như phần bố cục

– Căn cứ vào những lần quẹt diêm của cô bé để xác định những đoạn nhỏ:

+ Ba lần quẹt diêm đầu tiên của cô bé thấy lò sưởi,đồ chơi,thức ăn: ước muốn bình thường giản dị của cô bé được như những đứa trẻ khác.

+ Lần thứ tư quẹt diêm có bé nhìn thấy bà: khát khao của cô bé muốn được bảo vệ

+ Cô bé đốt hết chỗ diêm mình có để níu giữ hình ảnh của bà.

– Căn cứ vào từng lần quẹt diêm của cô bé bán diêm để chia phần trọng tâm thành các đoạn nhỏ.

+ Lần thứ nhất: chiếc lò sưởi xuất hiện

+ Lần thứ hai: bàn ăn thịnh soạn hiện lên

+ Lần thứ ba: cây thông nô-el rực rỡ hiện ra

+ Lần cuối cùng: người bà yêu quý của em xuất hiện

Có thể chia thành 3 phần như sau:

– Đoạn 1: Từ đầu đến “cứng đờ ra” : Nói về hoàn cảnh của cô bé bán diêm

– Đoạn 2: Tiếp đến “Thượng đế”: Những lần quẹt diêm và mộng tưởng của cô bé

– Đoạn 3: Còn lại: Cái chết thương tâm của cô bé.

– Phần trọng tâm có thể chia thành những đoạn nhỏ dựa trên những lần quẹt diêm của em bé. Mỗi lần quẹt diêm là một đoạn nhỏ hơn.

Trong phần đầu, nhà văn đã tạo dựng hoàn cảnh (gia đình, cuộc sống) và bối cảnh (thời gian, không gian) của em bé bán diêm như thê nào? Những hình ảnh tương phản (đối lập, đặt gần nhau, làm nổi bật lẫn nhau) ở đây được thế hiện ra sao và nhằm mục đích nghệ thuật cụ thể gì?

Hoàn cảnh cô bé bán diêm rất đáng thương:nhà nghèo,mồ côi mẹ từ nhỏ,bà ngoại mất sớm,cô sống với người cha trên căn gác sát mái nhà,cha cô bé suốt ngày uống rượu đánh đập cô bé. Ngày giáng sinh cô bé vẫn phải đi bán. Cô bé có những ước mơ nhỏ nhoi nhưng ngoài hiện thực không có. Để rồi em ra đi trong cái lạnh của ngày tuyết rơi.

– Những hình ảnh đối lập được nhà văn sử dụng nhằm khắc họa nỗi khổ của cô bé:

Mất đi mẹ và bà ngoại làm những tháng ngày của cô bé trở nên đáng thương.

– Gia cảnh của nhân vật:

+ Trước kia: khá giả, sống cùng ngoại trong ngôi nhà đẹp có bức tường xuân bao quanh

+ Hiện tại: bị tiêu sản, ngoại mất, mồ côi mẹ, nhà nghèo, sống trong xó xỉnh tối tăm, ngày ngày phải đi bán diêm kiếm sống, sống cùng người cha tệ bạc, hay chửi mắng, đập đánh em.

– Thời gian xảy ra câu chuyện: Vào đêm giao thừa

– Không gian: trên con đường tối tăm, em đi trong bóng tối khi mà những ngôi nhà trong phố đều sáng rực những ánh điện, sực những mùi ngỗng quay,

– Những hình ảnh tương phản:

a. Hoàn cảnh:

– Bà nội và mẹ đã qua đời

– Sống với bố khó tính – hay chửi mắng

– Nhà nghèo, nơi tối tăm

– Phải đi bán diêm để kiếm sống

b. Bối cảnh của truyện:

– Thời gian: vào đêm giao thừa

c. Các hình ảnh tương phản:

Các mộng tưởng của em bé qua các lần quẹt diêm (lò sưởi, bàn ăn, cây thông Nô-en, người bà, hai bà cháu bay đi) diễn ra lần lượt có hợp lí không? Vì sao? Trong các mộng tưởng ấy, diều nào gắn với thực tế, điều nào thuần túy chỉ là tưởng tượng?

Mộng tưởng của cô bé bán diêm diễn ra theo trình tự hợp lý:

+ Đầu tiên trong sự lạnh lẽo của những bông tuyết cô ước có cái lò sưởi để được cảm nhận sự ấm áp.

+ Có được sự ấm áp, cô bé thấy đói, vì cô đã nhịn rất lâu rồi.

+ Bàn thức ăn biến mất làm cô nhớ đến sự đẹp đẽ đêm giáng sinh là cả nhà được quây quần bên cây thông noel.

+ Cô gặp được người bà hiền hậu, mà mỉm cười với cô.

+ Cảnh hai bà cháu nắm chặt tay nhau bay lên trời: thoát khỏi những đau buồn.

– Mộng tưởng gắn với thực tế: là sự ấm áp của lò sưởi, món ngỗng quay thơm ngon, cây thông được trang trí đẹp đẽ.

– Mộng tưởng thuần túy là gặp được người bà thân thương.

Những mộng tưởng của cô bé bán diêm là những mộng tưởng chung của tất cả những đứa trẻ đồng cảnh ngộ thời bấy giờ khao khát cuộc sống ấm no hạnh phúc bên gia đình.

Ba lần mộng tưởng đầu tiên đều gắn với thực tế

Lần cuối cùng em được gặp bà là mộng tưởng.

Các mộng tưởng của em bé diễn ra lần lượt theo thứ tự hợp lý:

– Lần 1: Vì trời rét

– Lần 2: Vì bụng đói

– Lần 3: Đó đó là đêm giao thừa

– Lần 4: Trong giờ phút hạnh phúc đó bà đã hiện về đêm đến cho em tình yêu thương thuở nào.

– Lần 5: Em muốn níu bà lại, muốn đi với bà …

– Các mộng tưởng lò sưởi, bàn ăn, cây thông noel gắn liền với thực tế em bé đang rất cần. Còn hình ảnh con ngỗng quay bay ra khỏi đĩa và hình ảnh 2 bà cháu nắm tay nhau bay lên trời thì thuần túy là mộng tưởng. Mong ước hạnh phúc chính đáng đối với thân phận bất hạnh của em.

Câu 4 (trang 68 Ngữ Văn 8 Tập 1)

Hãy phát biếu những cảm nghĩ của mình về truyện “Cô bé bán diêm” (trích), nói chung và về đoạn kết của truyện nói riêng.

Cảm nghĩ về cô bé bán diêm: một cô bé nhỏ đáng thương. Ở cái tuổi đáng ra nhận được sự yêu thương chăm sóc từ gia đình nhưng phải bươn chải kiếm tiền qua ngày cho người cha, lại còn hay bị ông ta la mắng, đánh đập. Cô bé luôn mơ ước có được cuộc sống no ấm,sum vầy bên gia đình,muốn được vui chơi đúng với lứa tuổi của em. Cô bé ra đi, để lại cho mọi người sự bàng hòng và thức tỉnh.

– Cảm nghĩ về đoạn kết: Hình ảnh cô bé bán diêm ra đi dưới cái lạnh trogn đêm tuyết rơi nhưng nụ cười vẫn đọng trên môi- đó là hình ảnh tác giả tưởng tượng đưa vào câu chuyện giúp giảm bớt sự đau thương. Cái chế có lẽ là một sự giải thoát cho em, tác giả miêu tả cảnh hai bà cháu nắm tay nhau bay về trời. Một cái kết mang màu sắc cổ tích mặc dù bi thương nhưng vẫn có gì đó thật đẹp đẽ. Hi vọng em sẽ tìm được hạnh phúc ấm áp ở nơi xa.

Em bé bán diêm đã chết, em chết vì đói rét. Cái chết của em được miêu tả nhẹ nhàng, thanh thản, đó là cái chết của một con người toại nguyện “đôi má hồng và đôi môi mỉm cười” bởi em đã được về với bà ở một thế giới khác không còn buồn đau và đói rét. Em thật tội nghiệp, người đời đối xử với em tệ quá, bà và mẹ là người thương em nhưng đều đã mất,. Người cha đối xử với em thiếu tình thương, khách qua đường chẳng đoái hoài đến em, những người nhìn thi thể em vào ngày mùng một cũng lạnh lùng như thế.

Đọc truyện Cô bé bán diêm em cảm thấy buồn và xót xa cho số phận của một cô bé đầy trái ngang. Vốn là một đứa trẻ được sống trong sự ấm êm, yêu thương nhưng rồi cuộc đời đã đưa đẩy em vào cảnh phải bán từng bao diêm kiếm sống. Không may mắn được phúc phần yêu thương từ bố mẹ, em còn chịu sự vô tâm từ những người qua đường. Họ đều thấy em, nhưng không ai động lòng mà trao cho em chiếc áo, đưa em chiếc bánh đỡ đói, mua giùm em bao diêm,….Cuối cùng, em đã chết vì lạnh, vì đói, vì rét và chết bởi cả sự ích kỷ của con người. Cái chết ấy như một sự giải thoát cho em khỏi cuộc đời vô vàn những khổ cực, đớn đau mà chính em phải gặm nhấm, gánh chịu từng ngày. Câu chuyện bồi đắp cho tâm hồn em sự yêu thương, cảm thông với những người sinh ra không may mắn, em hiểu và trân trọng hơn giá trị của tình người trong cuộc đời.

**Đoạn kết câu chuyện nói về cái chết của em bé bán diêm. Khi chết, trên khuôn mặt em đôi môi vẫn mỉm cười, đôi má em ửng hồng như một sự mãn nguyện của cô bé khi được đến bên người bà yêu quý. Qua từng lời văn, ta thấy được sự xót xa, thương cảm của nhà văn trước nỗi bất hạnh của cô bé.

Tác phẩm cho thấy sự đồng cảm của tác giả đối với những số phận đáng thương trong xã hội.

Tìm Hiểu Văn Bản: Cô Bé Bán Diêm – An

Có cảnh tượng thương tâm nào hơn cảnh một em bé mồ côi mẹ chết cóng trong đêm giao thừa. Câu chuyện về “Cô bé bán diêm” của An – Đec – Xen đã đưa người đọc đến với đất nước Đan Mạch vào những năm giữa thế kỷ XIX nghèo đói, bần hàn. Đan Mạch là một nước nhỏ thuộc khu vực Bắc Âu, diện tích chỉ bằng một phần tám diện tích nước ta, thủ đô là Cô-pen-na-ghen. An-Đec-Xen là nhà văn nổi tiếng nhất của Đan Mạch.

I. Tìm hiểu chung

1. Tác giả

An-Đec-Xen (1805-1875) là nhà văn nổi tiếng nước Đan Mạch với loại truyện kể về trẻ em. Nhiều truyện ông biên soạn lại từ truyện cổ tích, nhưng cũng có những truyện do ông hoàn toàn sáng tạo ra.

Nhiều truyện ngắn của An-Đec-Xen đã đi cùng tuổi thơ của biết bao em nhỏ khắp năm châu: Cô bé bán diêm, Nàng tiên cá, Nàng công chúa và hạt đậu…

Các truyện của ông nhẹ nhàng, tươi mát, toát lên lòng yêu thươn con người, nhất là những người nghèo khổ và niềm tin vào sự thắng lợi cuối cùng của cái tốt đẹp trên thế gian.

2. Tác phẩm

a. Hoàn cảnh sáng tác: Truyện ngắn “Cô bé bán diêm” sáng tác năm 1845, ra đời vào thời điểm Am-Đec-Xen sáng tác nhiều nhất.

b. Tóm tắt: Cô bé bán diêm

Trong đêm giao thừa, trời rét mướt, có một cô bé đầu trần, chân đi đất, bụng đói đang rầu rĩ đi bán diêm trong bóng tối. Cô bé bán diêm ấy đã mồ côi mẹ và cũng đã mất đi người thương yêu em nhất là bà nội. Em không dám về nhà vì sợ bố sẽ đánh em. Vừa lạnh vừa đói, cô bé ngồi nép vào một góc tường rồi khẽ quẹt một que diêm để sưởi ấm. Que diêm thứ nhất cho em có cảm giác ấm áp như ngồi bên lò sưởi. Em vội quẹt que diêm thứ hai, em được thấy một bàn ăn thịnh soạn hiện lên. Rồi em quẹt que diêm thứ ba và được thấy cây thông Nô-en. Quẹt que diêm thứ tư: bà nội hiền từ của em hiện lên đẹp đẽ, gần gũi và phúc hậu biết mấy. Nhưng ảo ảnh đó nhanh chóng tan đi sau sự vụt tắt của que diêm. Em vội vàng quẹt hết cả bao diêm để mong níu bà nội lại. Cô bé bán diêm đã chết trong giá rét khi mơ cùng bà bay lên cao mãi.

c. Bố cục: 3 phần

Phần 1: Từ đầu… cứng đờ ra: Hoàn cảnh của cô bé bán diêm

Phần 2: Tiếp theo… về chầu thượng đế: Những lần quẹt diêm của cô bé

Phần 3: Còn lại: Cái chết của cô bé bán diêm

II. Tìm hiểu văn bản

1. Cô bé trong đêm giao thừa

a. Gia cảnh của cô bé bán diêm

Mẹ chết, sống với người bố khó tính, bà nội – người yêu thương em cũng đã qua đời.

Nhà nghèo, sống “chui rúc trong xó tối tăm”. “trên gác sát mái nhà”, em “luôn nghe những lời mắng nhiếc chửi rủa”.

Vì gia cảnh nghèo túng mà em phải đi bán diêm để kiếm sống.

b. Hình ảnh cô bé bán diêm trong đêm giao thừa

Ở đoạn đầu của tác phẩm, tác giả đã sử dụng rất thành công nghệ thuật đối lập – tương phản.

Những hình ảnh đối lập tương phản có tác dụng rất lớn, nhằm làm nổi bật tình cảm hết sức tội nghiệp: rét, đói, khổ của em bé – đã rét lại càng rét hơn khi thấy “mọi nhà đều sáng rực ánh đèn”; đã đói lại càng đói hơn khi “trong phố sực nức mùi ngỗng quay”.

Ngoài ra, hình ảnh “cái xó tối tăm” em sống chui rúc với bố hiện nay và “ngôi nhà xinh xắn có dây trưỡng xuân bao quanh” năm xưa khi bà nội em còn sống.

Hình ảnh tương phản này không chỉ làm nổi bật nỗi khổ về vật chất mà cả sự mất mát về chỗ dựa tinh thần của em bé vì chỉ có bà nội là người thương em.

Đến tận đêm vẫn không bán được bao diêm nào, vẫn không dám về vì sợ bố đánh.

c. Cảnh thực và những ảo ảnh

Đêm giao thừa cô đơn, ngập chìm trong tuyết lạnh, cô bé: “thu đôi chân vào người, nhưng mỗi lúc em cảm thấy rét buốt hơn”, “lúc này đôi bàn tay” mỗi lúc lại “cứng đờ ra”.

Trong tình cảnh đó, cô bé đã nghĩ tới việc đánh diêm để “hơ ngón tay”, để phần nào xua đi cái cô đơn lạnh cóng.

Câu chuyện được tiếp tục nhờ chí tiết lặp lại và biến đổi rất tự nhiên, hợp lý và thú vị qua chi tiết 5 lần cô bé quẹt diêm. Trong đó, cảnh thật và cảnh ảo đan xen nhau.

Lần thứ nhất:

+ Cảnh ảo: “Hiện ra lò sưởi bằng sắt có những hình nổi bằng đồng bóng nhoáng tỏa ra hơi nóng dịu dàng”.

+ Cảnh thật: Bên tay cầm diêm, ngón cái nóng bỏng lên.

Lần thứ hai:

+ Cảnh ảo: một bàn ăn sang trọng, thức ăn ngon lành tỏa mùi thơm ngào ngạt: “Bức tường như biến thành một tấm rèm bằng vải màu. Em nhìn thấu vào tận trong nhà. Bàn ăn đã dọn, khăn trải bàn trắng tinh, trên bàn toàn bát đĩa bằng sứ quý giá và có cả một con ngỗng quay”.

+ Cảnh thực: là khi que diêm vừa tắt thì “chẳng có bàn ăn nào cả, chỉ có phố xá vắng teo, lạnh buốt…và mấy người khách qua đường quần áo ấm áp vội vã đi đến những nơi hẹn hò, hoàn toàn lãnh đạm với cảnh nghèo khổ của em bé bán diêm”

Lần thứ ba:

+ Cảnh ảo: hiện ra một cây thông noel

+ Cảnh thật: vẫn không đổi.

Lần thứ tư:

+  Cảnh ảo: Hình ảnh người bà đã mất xuất hiện, sống lại với nụ cười dịu dàng với dứa cháu mồ côi nhỏ bé, đáng thương. Em bé cất lời nói với bà để biểu hiện tình cảm nhớ thương bà, ước nguyện đi cùng bà.

+ Cảnh thật: vẫn không thay đổi.

Lần thứ năm – lần cuối cùng: Em quẹt diêm liên tục cho kỳ hết bao diêm để dẫn tới hình ảnh diêm nối nhau chiếu sáng như ban ngày:

+  Cảnh ảo: Hình ảnh bà nội hiện lên trong tưởng tượng chưa bao giờ to lớn, đẹp lão như thế. Em muốn níu giữ bà em lại với em. Em lại muốn bà em đi với em, em đi theo bà.

+ Cảnh thật: vẫn không đổi. Em đã chết vì rét trong đêm giao thừa.

Chỉ là một tưởng tượng, đây là giây phút em bé đã ra đi vĩnh viễn trong đói khát, rét mướt, trong niềm hy vọng tan biến.

5 lần quẹt diêm, 5 lần lặp lại và biến đổi, thực tại xen lẫn ảo ảnh, nối tiếp, trở đi trở lại, tất cả được sắp xếp và tưởng tượng tuyệt khéo gợi lên cho người đọc vẻ đẹp hồn nhiên, tươi tắn của em bé đáng thương như một tiểu thiên thần.

Tác giả bày tỏ niềm cảm thông sâu sắc của mình với em bé bất hạnh. Ngòi bút nhân ái và lãng mạng của nhà văn đã làm cho câu chuyện cảm động đau thương vẫn nhẹ nhàng đầy chất thơ.

Hình ảnh một em bé nghèo khổ, bất hạnh, đáng thương, đáng trọng. Một con người phải đối mặt với những khó khăn thử thách ở đời mà vẫn không nguôi mong muốn, khát vọng những điều tốt đẹp nhất.

2. Một cảnh thương tâm

Ngày mồng một, người ta nhìn thấy thi thể em bé mồ côi ngồi giữa những bao diêm một cách vô tình, lạnh lùng.

Chỉ có cái nhìn đầy cảm thông cùng tấm lòng nhân hậu và lãng mạn của An-Đec-Xen mới có thể viết lại một câu chuyện thương tâm mà vẫn làm cho người đọc bớt đi cảm giác bi thương.

Cho đến những dòng cuối cùng của tác phẩm, nhà văn vẫn dùng hình ảnh đối lập, tương phản rất đặc sắc: Giữa ngày đầu năm hứa hẹn những mầm sống mới mọc lên, có một em bé chết.

Miêu tả một cảnh thương tâm về cái chết của cô bé bán diêm, ngòi bút của tác giả vừa thực, vừa mộng. Sự thực là em bé khốn khổ kia đã chết, nhưng đây là một cái chết đẹp, hình hài thể xác chết mà linh hồn, khát vọng của em vẫn sống, sống trên đôi má hồng, đôi môi đang mỉm cười. Rõ ràng, đến với những dòng cuối của áng văn, tình thương, niềm tin con người và khát vọng những điều tốt đẹp nhất con người trong cõi lòng nhà văn Đan Mạch thấm đẫm chất nhân đạo, nhân văn.

Trong cái xã hội thiếu tình thương, nhà văn An-Đec-Xen đã viết truyện này với tất cả niềm cảm thông, yêu thương đối với em bé bất hạnh. Nhưng rõ ràng, truyện ngắn “Cô bé bán diêm” là một cảnh tượng thương tâm.

Cái chết của cô bé là tiếng nói tố cáo xã hội mạnh mẽ, phê phán lối sống ích kỷ, co cụm, chỉ biết mình của thế giới hiện đại. Đó là sự cảm thông sâu sắc của nhà văn kể chuyện thiên tài An-Đéc-Xen.

III. Tổng kết

1. Nội dung

Qua số phận bất hạnh của em bé nghèo, chúng ta thấy được xã hội mà em sống, đó là một xã hội không có tình người. Đồng thời truyện còn có sức tố cáo xã hội; phê phán lối sống ích kỷ, co cụm, chỉ biết mình của thế giới hiện đại. Câu chuyện còn toát lên niềm thương cảm của nahf văn đối với những em bé nghèo khổ. Vì thế, truyện vừa có giá trị hiện thực, vừa có giá trị nhân văn, nhân đạo.

2. Nghệ thuật

Tác giả thành công trong việc sử dụng nghệ thuật đối lập – tương phản. Những hình ảnh đối lập tương phản càng lúc càng gay gắt, thực tế và mộng tưởng, cuộc đời và ảnh ảo cứ sóng đôi hiện hiện, đan cài, tranh chấp nhau, nâng dần lên, bay cao lên.

Nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn, đan xen giữa hiện thực và mộng tưởng, với các chi tiết tương phản, diễn biến hợp lý, truyền cho chúng ta lòng thương cảm đối với em bé bất hạnh, lay động trong ta thình thương và niềm tin ở con người.