Top 9 # Xem Nhiều Nhất Tin Pháp Luật Zing Mới Nhất 3/2023 # Top Like | Athena4me.com

Huong Dan Choi Zing Play

Cách chơi

Đặt cược

Sau khi vào phòng, người chơi có thể đặt cược hoặc không tùy thích.

Người đầu tiên vào bàn sẽ là người có quyền đặt cược số tiền cho cả bàn.

Lưu ý: Hãy nhớ đặt cược trước khi nhấn vào nút sẵn sàng, nếu không bạn sẽ không được cược ở ván đó nữa.

Nhấp vào 1 trong 4 loại tiền để đặt cược.

Sẵn sàng

Bạn có thể giữ chuột trái để kéo thả, hoán đổi vị trí những quân bài.

Bạn nhớ xếp xong bài trước khi hết giờ nếu không muốn bị Binh Lủng.

Ấn nút này khi bạn đã xếp xong bài:

Nhấn nút này nếu muốn xếp lại bài:

Cách sắp bài

Bạn sẽ xếp 13 lá bài thành 3 chi với số bài ở mỗi chi là 3 – 5 – 5

Chi trên cùng

Gồm 3 lá bài. Có 3 loại và theo thứ tự giảm dần như sau:

Xám chi: 3 lá bài cùng giá trị

Dzách: 2 lá bài có cùng giá trị, 1 lá bài rác

Rác: cả 3 lá bài đều khác nhau

Chi giữa và chi cuối

Gồm 3 lá bài. Có 3 loại và theo thứ tự giảm dần như sau:

Cù lũ: 3 trong 5 lá bài cùng giá trị, và 2 lá bài còn lại cũng cùng giá trị với nhau

Thùng: 5 lá bài đồng chất

Sảnh: 5 lá bài hình thành 1 dãy liên tiếp

Xám chi: 3 trong 5 lá bài cùng giá trị và 2 lá bài còn lại khác nhau

Thú: có 2 lá bài cùng giá trị, 2 lá bài khác cũng cùng giá trị (khác với 2 lá bài trước) và 1 lá bài rác

Dzách: 2 trong 5 lá bài cùng giá trị và 3 lá bài còn lại khác nhau từng đôi một

Rác: cả 5 lá bài khác giá trị

Chú ý:

Trong tay mỗi người chơi, 3 chi phải được sắp xếp theo thứ tự tăng dần.

Chi đầu < chi giữa < chi cuối.

Nếu bài của 1 người chơi không thỏa mãn điều kiện trên, người chơi đó coi như thua cả 3 chi khi so với 1 bài bình thường khác. Gọi là Binh lủng

Cách so bài

Khi so sánh 2 lá bài, và khi xem xét 1 tập hợp bài có phải là 1 sảnh hay không, chỉ xét đến giá trị của chúng mà thôi. Thứ tự giá trị tăng dần của các lá bài như sau (2 3 4 5 6 7 8 9 10 J Q K A). Chỉ có một ngoại lệ, tập hợp (A 2 3 4 5) được cho là một tập hợp có hiệu lực với lá bài Xì được tính là lá bài có giá trị nhỏ nhất.

Khi so sánh 2 chi, loại của chúng sẽ được xem xét trước. Chi nào có loại tốt hơn sẽ tốt hơn. Nếu cả 2 chi cùng loại, các lá bài hợp thành 2 chi đó sẽ được so sánh theo thứ tự tứ diện: thứ nhất, các lá bài hình thành nên loại của chi đó, sau đó sẽ tới những lá bài thêm.

Khi so sánh bài của 2 đấu thủ, sẽ so sánh 2 chi đầu với nhau, 2 chi giữa với nhau, và 2 chi cuối cùng với nhau. Mọi chiến thắng sẽ được tính +1 và mọi thua sẽ được tính -1, với 1 vài ngoại lệ. Kết quả của 1 đấu thủ sẽ là tổng của sự thắng thua của 3 chi.

Mậu binh

Bạn sẽ thắng điểm các đối thủ còn lại mà không cần so sánh bài.

Trong trường hợp 2 hoặc nhiều người cùng mậu binh thì tùy theo các trường hợp sau, người nào mậu binh kiểu gì thì sẽ được tính kiểu đó.

Các kiểu mậu binh

Cách tính điểm

Tin Pháp Luật Ninh Thuận, Tin Tức Hình Sự Pháp Luật Hôm Nay

Công an Tp. Phan Rang-Tháp Chàm: Bắt giữ nhóm thanh niên trộm cắp xe máy

timer21/09/2018

Ngày 20/9, Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an Tp. Phan Rang – Tháp Chàm vừa bắt giữ khẩn cấp một nhóm đối tượng, gồm: Đinh Văn Linh (SN 2001), Hứa Phạm Thuận An (SN 2003), Võ Huỳnh Hoàng Hiếu (SN 2003) cùng trú phường Tấn Tài, Tp. Phan Rang – Tháp Chàm; Nguyễn Xuân Thanh (SN 2001), trú phường Văn Hải, Tp. Phan Rang – Tháp Chàm; Nguyễn Văn Phong (SN 2003), Ngô Lê Đình Tâm (SN 2002) cùng trú thị trấn Phước Dân, huyện Ninh Phước và Lê Trung Linh (SN 1994), trú phường Mỹ Đông, Tp. Phan Rang-Tháp Chàm với tội danh trộm cắp tài sản và tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có xảy ra trên địa bàn Tp. Phan Rang – Tháp Chàm.

Thông Tin Pháp Luật Dân Sự

Đề nghị giao kết hợp đồng là một vấn đề quan trọng của hợp đồng. Vì vậy, Công ước Viên về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế của Liên hiệp quốc năm 1980 (CISG), Bộ nguyên tắc về hợp đồng thương mại quốc tế của UNIDROIT năm 2004 (PICC) và Bộ luật Dân sự năm 2005 của Việt Nam (BLDS 2005) đều có những quy định về vấn đề này. Qua những tình huống thực tiễn, chúng tôi tập trung phân tích, so sánh những quy định về đề nghị giao kết hợp đồng trong các văn bản trên để đưa ra những kiến nghị hoàn thiện các quy định của BLDS về đề nghị giao kết hợp đồng.

1. Đề nghị giao kết hợp đồng

Đề nghị giao kết hợp đồng về bản chất là một hành vi pháp lý đơn phương của một chủ thể bày tỏ ý định giao kết hợp đồng với chủ thể khác theo các điều kiện xác định.

1.1. Người nhận đề nghị

Đề nghị thường hướng tới một hoặc một số người xác định. Người nhận đề nghị có thể là một thể nhân hoặc pháp nhân: cá nhân được xác định bởi họ tên, quốc tịch, hộ khẩu thường trú (hoặc địa chỉ tạm trú); pháp nhân được xác định bởi tên gọi, trụ sở và quốc tịch. Tính xác định của người được đề nghị thường được thể hiện khi bên đề nghị gửi đề nghị giao kết hợp đồng, vì khi đó bên đề nghị đã xác định được họ muốn giao kết hợp đồng với ai.

Nếu đề nghị không được gửi tới một hoặc một số người cụ thể, nó chỉ là một phần bảng báo giá hoặc được gửi ra ngoài theo một thông báo rộng rãi, nó không tạo thành một đề nghị1, như tình huống trong vụ kiện sau2:

Nếu đặt ví dụ trên vào hoàn cảnh của Việt Nam thì rất khó giải quyết vì Điều 390 BLDS 2005 quy định: “Đề nghị giao kết hợp đồng là việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và chịu sự ràng buộc về đề nghị này của bên đề nghị đối với bên đã được xác định cụ thể”. Tính xác định của bên được đề nghị được giải thích căn cứ hoàn toàn vào ý chí của bên đưa ra đề nghị. Lefkowitz có thể coi là không được xác định cụ thể theo cách lập luận ở trên khi vận dụng CISG giải quyết tình huống này; nhưng cũng có thể là được xác định nếu dựa vào tiêu chí “người đầu tiên tới cửa hàng” như cách lập luận của Lefkowitz. Khi đó, việc lựa chọn phương án nào lại phụ thuộc vào cảm tính của thẩm phán. Đó chính là hạn chế trong kỹ thuật lập pháp của Điều 390 BLDS 2005, bởi theo lý thuyết chung thì quy phạm pháp luật phải rõ ràng và đơn nghĩa để đảm bảo cho pháp luật được hiểu và áp dụng một cách thống nhất. Vì vậy, chúng tôi cho rằng, Điều 390 BLDS 2005 cần được sửa đổi, bổ sung theo hướng quy định rõ “tính xác định cụ thể của người được đề nghị” để tránh trường hợp nó được hiểu theo nhiều nghĩa, gây khó khăn trong hoạt động áp dụng pháp luật. Theo đó, cần bổ sung quy định “một bên được coi là xác định cụ thể khi bên đề nghị gửi đề nghị của mình, bằng các tiêu chí khách quan xác định được rõ bên mà đề nghị sẽ được gửi tới” vào Điều 390 BLDS 2005 hoặc quy định giống Điều 14 của CISG.

1.2 Sự xác định của đề nghị

Một đề nghị phải xác định rõ ràng, nếu không, nó không được coi là một đề nghị giao kết hợp đồng mà chỉ là một đề nghị thương lượng hợp đồng. Tính xác định của một đề nghị thể hiện ở nội dung của nó, đề nghị phải thể hiện rõ các nội dung cơ bản của hợp đồng, để đảm bảo rằng khi bên được đề nghị trả lời chấp nhận đề nghị thì hợp đồng được giao kết với nội dung được xác định trong đề nghị. Nhưng trên thực tế, không phải đề nghị giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa nào cũng quy định rõ ràng, chi tiết về hàng hóa, chất lượng và giá cả của hàng hóa. Liệu rằng một sự áng chừng về số lượng hay chất lượng hàng hóa có được coi là rõ ràng hay không, như tình huống trong vụ kiện sau3:

Tóm tắt vụ kiện: Tháng 3/1991, tại một cuộc triển lãm ở Fuerstenstein (Đức), bị đơn – một công ty có trụ sở tại Áo – đặt hàng nguyên đơn, người nuôi chồn Chinchilla ở Đức một số lượng lớn các bộ lông chồn Chinchilla. Các bên thỏa thuận những bộ lông chồn Chinchilla có chất lượng trung bình và cao hơn mức trung bình, sẽ có mức giá trong khoảng 35 đến 65 DM mỗi bộ. Đầu tháng 4/1991, nguyên đơn đóng gói 249 bộ lông chồn Chinchilla, trong đó có 236 bộ có chất lượng trung bình và 13 bộ có chất lượng thấp hơn gửi cho bị đơn. Ngày 6/4/1991, sau khi nhận được hàng, bị đơn giao hàng cho một nhà buôn của Italia mà không mở ra kiểm tra. Nhà buôn Italia chỉ thanh toán 236 bộ lông có chất lượng trung bình và gửi trả 13 bộ lông có chất lượng kém hơn cho bị đơn. Sau đó, bị đơn than phiền về 13 bộ lông đã bị trả lại và chuyển cho nguyên đơn 2,400 DM, theo mức giá không quá 10 DM một bộ lông chồn, trong khi những bộ lông chồn có chất lượng trung bình đã được bán với mức giá 60 DM một bộ. Do đó, nguyên đơn kiện bị đơn đòi thanh toán 9,500 DM còn lại; nguyên đơn tính 50 DM trên mỗi bộ lông chồn.

Vấn đề pháp lý: Trong vụ kiện này, bị đơn cho rằng “đặt hàng với số lượng lớn” và thỏa thuận “những bộ lông chồn Chinchilla có chất lượng trung bình và cao hơn mức trung bình sẽ có mức giá trong khoảng 35 đến 65 DM trên mỗi bộ” là thiếu những sự xác định cần thiết về số lượng và giá cả của hàng hóa, cần bị từ chối.

Giải pháp của luật: khi nghiên cứu pháp luật giải quyết vụ án trên, ta thấy có sự khác biệt rất lớn giữa Điều 14 của CISG với Điều 390 BLDS 2005 và Điều 2.1.2 của PICC trong việc đưa ra tiêu chí để đánh giá mức độ xác định của một đề nghị giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa.

Khoản 1 Điều 14 của CISG quy định rất chi tiết: “Một đề nghị ký kết hợp đồng gửi cho một hay nhiều người xác định được coi là một chào hàng nếu có đủ chính xác và nếu nó chỉ rõ ý chí của người chào hàng muốn tự ràng buộc mình trong trường hợp có sự chấp nhận chào hàng đó. Một đề nghị là đủ chính xác khi nó nêu rõ hàng hóa và ấn định số lượng về giá cả một cách trực tiếp hoặc gián tiếp hoặc quy định thể thức xác định những yếu tố này”. Khoản 1 Điều 390 BLDS 2005 quy định “Đề nghị giao kết hợp đồng là việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng…”. Theo đó, tính xác định của đề nghị giao kết hợp đồng phụ thuộc vào mức độ rõ ràng trong việc diễn đạt ý định của bên đưa ra đề nghị, thông thường trong hợp đồng mua bán hàng hóa, thì bên đề nghị thường thể hiện rõ ý định của mình về số lượng, chất lượng và giá cả hàng hóa mà mình muốn mua hoặc muốn bán, nhưng BLDS 2005 không có quy định nào tạo cơ sở pháp lý cho việc giải thích ý chí của bên đưa ra đề nghị như cách giải thích nêu trên.

Còn Điều 2.1.2 của PICC quy định “Một đề nghị được gọi là đề nghị giao kết hợp đồng nếu nó đủ rõ ràng và thể hiện ý chí của bên đưa ra đề nghị bị ràng buộc khi đề nghị giao kết được chấp nhận” theo đó tính xác định của đề nghị phụ thuộc và tiêu chí “đủ rõ ràng”. Và theo khoản 2 Điều 4.1 của PICC, thì tiêu chí đủ rõ ràng có thể “được giải thích theo cách hiểu của một người bình thường có cùng phẩm chất và ở cùng hoàn cảnh với người tuyên bố và thực hiện hành vi”. Như vậy, nếu áp dụng Điều 14 của CISG và Điều 2.1.2 của PICC thì sẽ có cách giải thích thỏa đáng dựa vào hoàn cảnh trong mối quan hệ cụ thể của hai bên. Trong vụ án trên, khi bị đơn đặt mua “một số lượng lớn các bộ lông chồn” tức là bị đơn đưa ra cách xác định số lượng dựa trên khả năng cung cấp của nguyên đơn, do đó, đặt hàng của bị đơn là xác định về số lượng.

Tuy nhiên, nếu áp dụng Điều 390 BLDS 2005 để giải quyết vụ kiện trên thì sẽ rơi vào bế tắc vì chúng ta không giải quyết được liệu rằng khi bị đơn đặt “một số lượng lớn các bộ lông chồn” thì ý định của bị đơn là muốn mua bao nhiêu bộ lông chồn? Nó có được coi là một cách xác định số lượng hàng hóa trong đề nghị giao kết hợp đồng hay không? Vì vậy, theo chúng tôi, Điều 390 BLDS 2005 cần được hỗ trợ bằng một nguyên tắc nhằm giải thích ý chí của các bên tham gia hợp đồng như giải pháp của PICC, nguyên tắc đó có thể được quy định như nguyên tắc được đưa ra tại Điều 8 Khoản 2 của CISG là: “Tuyên bố cách xử sự khác của một bên được giải thích theo nghĩa mà một người có lý trí, nếu người đó được đặt vào vị trí của phía bên kia trong những hoàn cảnh tương tự cũng sẽ hiểu như thế”.

1.3. Mong muốn được ràng buộc

Nói chung, đề nghị càng chi tiết, cụ thể thì càng có nhiều cơ hội được xem như một đề nghị giao kết hợp đồng. Do mong muốn này ít khi được tuyên bố rõ ràng, nên thường phải diễn giải từ các tình huống cụ thể và dựa theo quy định của pháp luật, như tình huống trong vụ kiện giữa nguyên đơn là một công ty TNHH được thành lập và hoạt động theo luật của Đức, có trụ sở tại Solingen Đức và bị đơn – một công ty TNHH, có trụ sở tại Thụy Sĩ được giải quyết tại Tòa án thương mại Handelsgericht Aargau Thụy Sĩ vào ngày 26/9/19975.

Tóm tắt vụ kiện: Từ năm 1991, bị đơn thường xuyên mua những bộ kéo của nguyên đơn và bán lại chúng ở Thụy Sĩ theo cách bị đơn đặt hàng trước cho nguyên đơn và sau đó (thông thường là ba tuần) thông báo lại cho nguyên đơn số lượng, chất lượng hàng hóa và ngày giao hàng cụ thể. Sau khi bị đơn đặt hàng, hàng sẽ được sản xuất với những mẫu mã và dấu hiệu riêng của bị đơn và sẽ được nguyên đơn giao theo đúng số lượng, chất lượng và thời gian mà bị đơn thông báo.

Ngày 10/4/1992, bị đơn đặt nguyên đơn sản xuất kéo. Ngày 24/4/1992, đại diện hai bên gặp gỡ trao đổi. Trong cuộc họp, bị đơn đã nhấn mạnh việc cung cấp độc quyền những bộ kéo của nguyên đơn, bị đơn không muốn đối mặt với việc cạnh tranh từ việc đặt hàng các loại kéo tương tự. Ngày 24/4/1992, nguyên đơn gửi thư cho bị đơn đảm bảo cung cấp độc quyền những bộ kéo theo mẫu 580.

Trong fax trả lời ngày 12/6/1992, nguyên đơn dẫn chiếu tới đơn đặt hàng của bị đơn ngày 26/5/1992. Nguyên đơn xác nhận với bị đơn rằng, giá cả hiện tại trên mỗi món hàng sẽ áp dụng và việc giao hàng sẽ được thực hiện trong ngày theo yêu cầu của bị đơn như thông lệ mà hai bên đã thiết lập. Sau đó, bị đơn đã không thông báo lại cho nguyên đơn về việc giao hàng như thông lệ giữa hai bên. Tháng 9/1993, nguyên đơn giao hàng cho bị đơn, nhưng bị đơn từ chối nhận. Ngày 12/10/1993, nguyên đơn gửi bị đơn hóa đơn thanh toán cho chi phí của việc không giao được hàng, nhưng bị đơn từ chối. Ngày 21/2/1996, nguyên đơn kiện bị đơn ra tòa đòi bồi thường. Nguyên đơn cho rằng đơn đặt hàng ngày 10/4/1992 và 25/6/1992 của bị đơn đã thể hiện rõ mong muốn ký kết hợp đồng và chịu sự ràng buộc về mặt pháp lý đối với mặt hàng đó. Còn bị đơn lại cho rằng những bản fax hai ngày nói trên thực chất chỉ là những đề nghị thương lượng hợp đồng, thể hiện mong muốn của bị đơn sẽ đặt hàng trong tương lai, do đó, nó không có tính ràng buộc đối với bị đơn.

Giải pháp của luật: định nghĩa về đề nghị giao kết hợp đồng trong các văn bản pháp luật đều đưa ra điều kiện đối với đề nghị giao kết, đó là mong muốn được ràng buộc của bên đưa ra đề nghị, cụ thể: Điều 14 của CISG quy định: “Một đề nghị ký kết hợp đồng gửi cho một hay nhiều người xác định được coi là một chào hàng nếu có đủ chính xác và nếu nó chỉ rõ ý chí của người chào hàng muốn tự ràng buộc mình trong trường hợp có sự chấp nhận chào hàng đó…”.

Điều 2.1.2 PICC quy định: “Một đề nghị được gọi là đề nghị giao kết hợp đồng nếu nó đủ rõ ràng và thể hiện ý chí của bên đưa ra đề nghị bị ràng buộc khi đề nghị giao kết được chấp nhận”. Còn theo Khoản 1 Điều 390 BLDS 2005, thì “Đề nghị giao kết hợp đồng là việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và chịu sự ràng buộc về đề nghị này của bên đề nghị đối với bên đã được xác định cụ thể” và “trong trường hợp đề nghị giao kết hợp đồng có nêu rõ thời hạn trả lời, nếu bên đề nghị lại giao kết hợp đồng với người thứ ba trong thời hạn chờ bên được đề nghị trả lời thì phải bồi thường thiệt hại cho bên được đề nghị mà không được giao kết hợp đồng nếu có thiệt hại phát sinh”.

2. Thay đổi, rút lại và hủy bỏ đề nghị

2.1. Thay đổi, rút lại đề nghị

Thực tế cho thấy, đến khi đề nghị có hiệu lực, bên đề nghị có quyền đổi ý và quyết định không giao kết hợp đồng nữa hoặc thay thế đề nghị ban đầu bằng một đề nghị khác, mà không quan tâm xem đề nghị ban đầu có được coi là có thể hủy ngang hay không.

Ví dụ: A gửi cho B một đề nghị giao kết hợp đồng. Ngay sau đó, A thay đổi ý định và gửi B một thông báo về việc rút lại đề nghị vừa mới gửi. Trong tình huống trên, có hai vấn đề pháp lý đặt ra: trường hợp nào thì thông báo rút lại đề nghị của A có hiệu lực; hình thức của thông báo rút lại có phải tuân theo hình thức đã đưa ra đề nghị hay không.

Khi giải quyết hai vấn đề pháp lý trên thì CISG, PICC và BLDS 2005 đưa ra các giải pháp giống nhau. Khoản 2 Điều 15 của CISG quy định: “Chào hàng dù là loại chào hàng cố định, vẫn có thể bị rút lại nếu như thông báo về việc rút lại chào hàng đến người được chào hàng trước hoặc cùng lúc với chào hàng”. Còn theo Điều 2.1.3 của PICC, thì “đề nghị giao kết hợp đồng, kể cả không thể hủy ngang, có thể được rút lại nếu việc rút lại đề nghị đến người nhận trước hoặc cùng lúc với đề nghị”. Điều 392 BLDS 2005 quy định: “Bên đề nghị giao kết hợp đồng có thể thay đổi, rút lại đề nghị giao kết hợp đồng trong các trường hợp sau đây: a) Nếu bên được đề nghị nhận được thông báo về việc thay đổi hoặc rút lại đề nghị trước hoặc cùng với thời điểm nhận được đề nghị; b) Điều kiện thay đổi hoặc rút lại đề nghị phát sinh trong trường hợp bên đề nghị có nêu rõ về việc được thay đổi hoặc rút lại đề nghị khi điều kiện đó phát sinh”. Theo đó, điều kiện duy nhất là bên B phải nhận được thông báo rút lại đề nghị của bên A trước hoặc cùng thời điểm mà bên B nhận được đề nghị ban đầu. Tuy nhiên, điểm b Khoản 1 Điều 392 BLDS còn bổ sung thêm trường hợp: bên đề nghị có thể rút lại đề nghị nếu điều kiện thay đổi hoặc rút lại đề nghị phát sinh trong trường hợp bên đề nghị nói rõ về việc thay đổi hoặc rút lại đề nghị khi điều kiện đó phát sinh. Quy định này tạo ra ưu thế pháp lý tuyệt đối cho bên đề nghị, khi bên đề nghị có thể áp đặt ý chí của mình đối với bên được đề nghị bằng cách ấn định trước điều kiện thay đổi, rút lại đề nghị. Trước khi hợp đồng được ký kết, vào bất cứ thời điểm nào mà điều kiện về việc thay đổi hoặc rút lại đề nghị (do bên A đã ấn định sẵn) phát sinh thì đề nghị của bên A sẽ bị coi như là bị thay đổi hoặc rút lại. Quy định này là không cần thiết và nó đã vi phạm nguyên tắc tự do ý chí trong giao kết hợp đồng. Vì vậy, theo chúng tôi, để bảo đảm sự bình đằng giữa các bên, đảm bảo nguyên tắc tự do ý chí trong giao kết hợp đồng, nên bỏ quy định tại điểm b Khoản 1 Điều 392 BLDS 2005.

2.2. Hủy bỏ đề nghị giao kết hợp đồng

Một đề nghị giao kết hợp đồng có thể hủy ngang hay không là một trong những vấn đề gây tranh cãi nhất trong vấn đề hình thành hợp đồng. Có hai cách tiếp cận trái ngược nhau về vấn đề này, bao gồm: cách tiếp cận của CISG và PICC; cách tiếp cận của BLDS 2005.

Khoản 1 Điều 2.1.4 và Khoản 1 Điều 16 của CISG đều quy định về nguyên tắc, các đề nghị giao kết hợp đồng có thể bị hủy ngang. Tuy nhiên, các điều khoản này cũng quy định việc hủy bỏ một đề nghị giao kết hợp đồng có thể được thực hiện với điều kiện hủy bỏ này đến bên được đề nghị trước khi bên này gửi chấp nhận đề nghị. Như vậy, chỉ khi bên được đề nghị chấp nhận đề nghị bằng miệng hoặc khi bên được đề nghị chứng minh là đã chấp nhận bằng cách thực hiện một hành vi mà không thông báo tới bên đề nghị thì bên đề nghị có quyền tiếp tục hủy bỏ đề nghị cho tới khi hợp đồng được giao kết. Mặt khác, khi một đề nghị được chấp nhận bằng văn bản, thì hợp đồng được giao kết khi chấp nhận đến bên đề nghị; trong trường hợp này, bên đề nghị mất quyền hủy bỏ đề nghị ngay khi bên được đề nghị gửi chấp nhận đề nghị. Cách giải quyết như vậy có thể gây nhiều bất lợi cho bên đề nghị, vì không phải lúc nào cũng biết liệu còn có thể hủy bỏ đề nghị giao kết hợp đồng hay không. Tuy nhiên, giải pháp này cũng bảo vệ lợi ích hợp pháp của bên được đề nghị bằng việc rút ngắn khoảng thời gian mà đề nghị giao kết hợp đồng có thể hủy bỏ.

Khi đề nghị quy định rõ là không thể bị hủy ngang: đề nghị giao kết hợp đồng không thể bị hủy ngang mà có thể được thực hiện bằng nhiều cách khác nhau, cách rõ ràng và trực tiếp nhất là bên đưa ra đề nghị tuyên bố rõ điều này (ví dụ: “đây là một đề nghị cố định”; “chúng tôi sẽ duy trì đề nghị này cho đến khi có câu trả lời của quý công ty”) hoặc ấn định thời hạn cho việc trả lời chấp nhận. Tuy nhiên, quy định này có thể được suy luận một cách đơn giản từ những tuyên bố hoặc hành động của bên đề nghị. Chính việc quy định rõ một thời hạn nhất định cho việc chấp nhận, tuy không buộc phải như vậy, có thể tương đương với một quy định ngầm của một đề nghị không hủy ngang. Nói chung, nếu bên đề nghị giao kết hợp đồng hoạt động trong một hệ thống pháp luật, theo đó, việc ấn định thời hạn chấp nhận được coi là quy định tính không hủy ngang, người ta có thể cho rằng khi quy định một thời hạn, bên đề nghị dự định đưa ra một đề nghị không bị hủy ngang. Mặt khác nếu bên đề nghị hoạt động trong một hệ thống pháp luật theo đó ấn định một thời hạn chấp nhận không đủ để chỉ ra tính không hủy ngang, thì bên đề nghị không có ý định như vậy7.

Bên đề nghị có cơ sở hợp lý để tin là đề nghị không hủy ngang: sự tin tưởng của bên được đề nghị có thể xuất phát từ xử sự của bên đề nghị hoặc do tính chất của đề nghị. Hành vi mà bên được đề nghị phải thực hiện trên cơ sở đề nghị có thể là tiến hành việc sản xuất, mở LC… với điều kiện là những hành vi này được coi như thường gặp trong hoạt động mua bán hàng hóa hoặc được bên đề nghị biết trước hoặc dự liệu trước8.

Trong khi đó, Điều 393 BLDS 2005 quy định: “Trong trường hợp bên đề nghị giao kết hợp đồng thực hiện quyền huỷ bỏ đề nghị do đã nêu rõ quyền này trong đề nghị thì phải thông báo cho bên được đề nghị và thông báo này chỉ có hiệu lực khi bên được đề nghị nhận được thông báo trước khi bên được đề nghị trả lời chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng”. Quy định này ngược lại với những quy định của CISG và PICC. Theo đó, một đề nghị về nguyên tắc sẽ không bị hủy ngang, trừ khi quyền hủy ngang được bên đề nghị quy định trước trong đề nghị. Mặc dù Điều 393 BLDS 2005 đưa ra thời điểm “bên được đề nghị trả lời chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng” làm căn cứ để xác định hiệu lực của thông báo hủy bỏ đề nghị của bên đề nghị, nhưng lại không nêu rõ thời điểm nào được coi là bên được đề nghị trả lời chấp nhận đề nghị. Nếu bên được để nghị trả lời chấp nhận bằng miệng, thì thời điểm đó dễ dàng xác định là thời điểm bên đề nghị nhận được thông báo bằng miệng, nhưng nếu bên được đề nghị trả lời chấp nhận dưới dạng văn bản (bằng thư, điện tín, fax…), thì thời điểm bên được đề nghị trả lời là thời điểm người đó thể hiện xong ý chí chấp nhận của mình dưới dạng văn bản hay là thời điểm thông báo về việc chấp nhận đề nghị được gửi đi…, đó là một điểm bế tắc của BLDS. Vì vậy, Điều 393 BLDS 2005 cần được sửa đổi, bổ sung theo hướng tiếp thu các giải pháp được thừa nhận chung được quy định tại Điều 16 của CISG và Điều 2.1.4 của PICC; hoặc nếu giữ nguyên Điều 393 thì BLDS 2005 cũng nên quy định rõ thời điểm bên được đề nghị trả lời chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng. Đó là thời điểm “bên được đề nghị gửi chấp nhận đề nghị cho bên đề nghị”.

Chú thích:

(1) Steven Emanuel and Steven Knowles (1991), Contracts(Fourth Edition), Emanuel Law Outlines, Inc, New York, p10.

(2) Nguồn: http://www.law.unlv.edu/faculty/rowley/Lefkowitz.pdf.

(3) Nguồn: http://cisgw3.law.pace.edu/cases/941110a3.html

(4) Nhà pháp luật Việt Pháp,Bộ nguyên tắc của UNIDROIT về Hợp đồng thương mại Quốc tế 2004, Nxb. Tư pháp, tr. 82.

(5) Nguồn: http://cisgw3.law.pace.edu/cases/970926s1.html

(6) UNCITRAL (2008), Digest of Case Law on the United Nations Convention on the International Sale of Goods, New York, p. 58

(7) Nhà pháp luật Việt Pháp, Bộ nguyên tắc của UNIDROIT về Hợp đồng thương mại Quốc tế 2004, Nxb. Tư pháp, tr. 87.

(8) Nhà pháp luật Việt Pháp, Bộ nguyên tắc của UNIDROIT về Hợp đồng thương mại Quốc tế 2004, Nxb. Tư Pháp, tr. 88.

SOURCE: TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP ĐIỆN TỬ

Trích dẫn từ: http://www.nclp.org.vn/ban_ve_du_an_luat/kinh-te-dan-su/sua-111oi-bo-sung-cac-quy-111inh-lien-quan-111en-111e-nghi-giao-ket-hop-111ong-trong-bo-luat-dan-su

0

0

Like this:

Like

Loading…

Related

Kiểm Tra Văn Bản Pháp Luật Theo Nguồn Tin

Luật sư Nguyễn Thanh Hà, chủ tịch SBLAW đã có phần trao đổi với các cán bộ pháp chế của Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn tại Hội nghị tập huấn kiểm tra văn bản pháp luật.

Đặt vấn đề

Là các phương thức cụ thể để triển khai hoạt động kiểm tra văn bản, kiểm tra văn bản theo các nguồn thông tin, kiểm tra văn bản theo chuyên đề, địa bàn, theo ngành, lĩnh vực đóng vai trò là hoạt động hậu kiểm, nhằm đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp và tính khả thi của văn bản quy phạm pháp luật sau khi được ban hành và có hiệu lực trong thực tiễn, góp phần xây dựng hệ thống pháp luật thống nhất, đồng bộ, minh bạch, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.

Thực tế cho thấy, kiểm tra văn bản theo các nguồn thông tin có ý nghĩa quan trọng không chỉ trong công tác kiểm tra văn bản mà còn trong quản lý nhà nước. Đây được xem là một phương thức để Nhà nước, cơ quan hành chính nhà nước “lắng nghe”, tiếp nhận và giải quyết phản hồi của nhân dân về chất lượng, hiệu quả quản lý nhà nước bằng pháp luật đã được thực hiện thông qua việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Ngược lại, về phía nhân dân, nó cũng là phương thức để nhân dân thực hiện quyền “dân bàn”, “dân kiểm tra” trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.

Đối với chính công tác kiểm tra văn bản, kiểm tra văn bản theo các nguồn thông tin giúp hoạt động này gần gũi hơn với người dân và doanh nghiệp, gần gũi hơn với từng địa phương, từng ngành đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng của tổ chức và công dân.

KIỂM TRA VĂN BẢN THEO NGUỒN THÔNG TIN

Khái niệm Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật theo các nguồn thông tin

Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật theo các nguồn thông tin là cách gọi ngắn gọi của phương thức kiểm tra văn bản khi nhận được yêu cầu, kiến nghị của các cơ quan, tổ chức, cá nhân phản ánh về văn bản có dấu hiệu trái pháp luật – là một trong ba phương thức kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật – được quy định tại khoản 2 Điều 106 Nghị định số 34/2016/NĐ-CP ngày 14/5/2016 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật (có hiệu lực từ ngày 01/7/2016).

Nguồn thông tin phục vụ công tác kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật (sau đây gọi là nguồn thông tin) gồm:

(i) Các phương tiện thông tin đại chúng (bao gồm: Báo in, báo nói, báo hình, báo điện tử) và cổng thông tin điện tử của cơ quan, tổ chức Việt Nam và

(ii) Phản ánh của các cơ quan, tổ chức, cá nhân (trực tiếp phản ánh hoặc gửi văn bản yêu cầu, kiến nghị qua đường bưu điện hoặc qua thư điện tử).

Nội dung thông tin được sử dụng trong hoạt động kiểm tra văn bản theo phương thức này là phản ánh về văn bản hoặc nội dung có dấu hiệu trái pháp luật của văn bản. Cơ quan có thẩm quyền kiểm tra văn bản có trách nhiệm tiếp nhận những phản ánh này, xem xét, xác định tính chính xác của thông tin và xác định văn bản gốc, chứa đựng nội dung trái pháp luật được phản ánh để thực hiện kiểm tra văn bản theo quy trình luật định.

Từ những phân tích trên, có thể thấy kiểm tra văn bản theo các nguồn thông tin là việc cơ quan có thẩm quyền kiểm tra văn bản thực hiện xem xét, đối chiếu quy định của pháp luật hoặc văn bản có dấu hiệu trái pháp luật theo phản ánh của cơ quan, tổ chức, công dân hoặc thông tin từ các phương tiện thông tin đại chúng, cổng thông tin điện tử của cơ quan, tổ chức Việt Nam với văn bản làm căn cứ pháp lý nhằm phát hiện những nội dung trái pháp luật, kịp thời xử lý nhằm đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất của văn bản trong hệ thống pháp luật.

Đối tượng của hoạt động kiểm tra văn bản theo các nguồn thông tin

Là một phương thức của hoạt động kiểm tra văn bản, nên kiểm tra văn bản theo các nguồn thông tin cũng có đối tượng là các văn bản quy phạm pháp luật và văn bản có chứa quy phạm pháp luật. Điểm đặc biệt trong đối tượng kiểm tra theo phương thức này và cũng chỉ với phương thức này mới thực hiện được chính là việc kiểm tra đối với văn bản có chứa quy phạm pháp luật.

Căn nguyên của khác biệt này xuất phát từ chính bản chất của văn bản có chứa quy phạm pháp luật. Như chúng ta đều biết, văn bản có chứa quy phạm pháp luật thực chất là văn bản hành chính cá biệt nhưng lại chứa quy tắc xử sự chung. Vì là văn bản cá biệt, nên nó chỉ được phát hành đến những chủ thể cụ thể thuộc đối tượng điều chỉnh của văn bản, không được phổ biến, tuyên truyền rộng rãi và đặc biệt, không được gửi đến cơ quan có thẩm quyền kiểm tra như văn bản quy phạm pháp luật. Chính vì thế, chỉ những chủ thể này mới có đầy đủ điều kiện phát hiện được nội dung có thể là nội dung trái pháp luật của văn bản. Pháp luật về kiểm tra văn bản cho phép những chủ thể này phản ánh trực tiếp nội dung đã phát hiện tới cơ quan có thẩm quyền kiểm tra để văn bản này được thực hiện kiểm tra theo quy trình.

Ngoài ra, đối với văn bản quy phạm pháp luật, để huy động tối đa sự tham gia của nhân dân vào quá trình quản lý nhà nước, mặt khác, trong nhiều tình huống, việc kiểm tra loại văn bản này của cơ quan có thẩm quyền kiểm tra không theo kịp “tốc độ” ban hành văn bản nên việc tiếp nhận thông tin kiểm tra để thực hiện đối với đối tượng này vẫn được thực hiện.

Đặc trưng của hoạt động kiểm tra văn bản theo các nguồn thông tin

Hoạt động kiểm tra văn bản theo các nguồn thông tin có các đặc trưng cơ bản sau:

3.1. Có sự tham gia rộng rãi của cộng đồng dân cư, các phương tiện thông tin đại chúng, cơ quan, tổ chức vào hoạt động kiểm tra văn bản: Như trên đã phân tích, hoạt động kiểm tra văn bản theo các nguồn thông tin được thực hiện trên cơ sở thông tin phục vụ công tác kiểm tra văn bản được một hoặc nhiều đối tượng gồm: các phương tiện thông tin đại chúng, cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp cho cơ quan có thẩm quyền kiểm tra văn bản, từ đó phát sinh hoạt động kiểm tra, xử lý văn bản. Chính vì vậy, sự tham gia rộng rãi của của cộng đồng dân cư, các phương tiện thông tin đại chúng, cơ quan, tổ chức là đặc trưng cơ bản của kiểm tra văn bản theo các nguồn thông tin.

3.2. Có tính lợi ích, tính phức tạp, nhạy cảm: Qua theo dõi, tổng hợp những văn bản được kiểm tra, xử lý theo các nguồn thông tin cho thấy, phần lớn các văn bản được phản ánh để thực hiện kiểm tra, xử lý bằng phương thức này đều do nội dung của văn bản này đã ảnh hưởng trực tiếp tới quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể nên chính những chủ thể này phải phản ánh với cơ quan có thẩm quyền kiểm tra để thực hiện biện pháp “tự vệ”. Việc phản ánh này là một việc đúng đắn, được pháp luật ghi nhận.

3.3. Xử lý phải nhanh chóng, triệt để: Kiểm tra văn bản theo các nguồn thông tin mang tính đại chúng, việc kiểm tra, phát hiện và xử lý kịp thời nội dung trái pháp luật của văn bản góp phần giảm bức xúc của dư luận xã hội, tạo lòng tin của cơ quan, tổ chức, công dân vào nhà nước và pháp luật. Ngoài ra, việc xử lý nhanh chóng, triệt để cũng xuất phát từ việc tham gia đông đảo của lực lượng xã hội vào hoạt động kiểm tra này, các cơ quan/người ban hành văn bản cũng chịu sức ép nhất định từ các đối tượng trên. Vì vậy, việc xử lý nhanh chóng, triệt để cũng là một yêu cầu, đặc trưng của phương thức kiểm tra văn bản này.

3.4. Có “tâm lý đám đông”: Tâm lý đám đông ở đây muốn nói đến một hiện tượng tâm lý xã hội, xảy ra đối với các đối tượng chịu sự tác động của văn bản pháp luật, các đối tượng khác, báo chí, một số phương tiện truyền thông… trước một quy phạm phạm pháp luật hay văn bản do cơ quan nhà nước ban hành. Hầu hết những đối tượng trên cùng có một cách hiểu, một cách phản ứng giống nhau. Tuy nhiên, việc này chỉ do một số người “khêu” lên, các đối tượng khác mặc dù chưa nghiên cứu kỹ lưỡng cũng đồng loạt nhất trí và có những phản ứng, thậm chí bức xúc tương tự. Thực tế cho thấy, một số văn bản đã bị xã hội phản ứng không tốt và cho rằng sai trái, tuy nhiên, khi thực hiện kiểm tra thì văn bản không có nội dung trái pháp luật, mặc dù có thể có một vài nội dung chưa hợp lý, khả thi. Vì vậy, cơ quan, người có thẩm quyền kiểm tra văn bản cần hết sức thận trọng khi kiểm tra văn bản theo các nguồn thông tin, không nên chủ quan, tin tưởng vào các “phát hiện”, các “phản ánh”… vì có thể văn bản được phản ánh không có sai phạm mà bị trở thành “tâm điểm” do tâm lý đám đông. Chỉ có thể coi đó đơn thuần là “nguồn thông tin”, chưa thể kết luận điều gì đối với nội dung của văn bản đó.

4.MỘT SỐ ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ KIỂM TRA VĂN BẢN THEO NGUỒN THÔNG TIN Từ kết quả kiểm tra vản bản theo các nguồn thông tin, chúng tôi có một số đánh giá như sau:

Về thể chế: Thể chế hiện hành về kiểm tra, xử lý văn bản có thể được đánh giá là một hệ thống thể chế khá đầy đủ, từ quy định tại Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, đến Nghị định hướng dẫn. Hệ thống quy định này đã đặt nền móng cho việc triển khai công tác kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật trên thực tiễn. Những năm qua, để tổ chức triển khai nhiệm vụ này, hệ thống cơ quan kiểm tra văn bản đã được thành lập từ trung ương đến địa phương, đã thực hiện kiểm tra hàng vạn văn bản quy phạm pháp luật và văn bản có chứa quy phạm pháp luật, góp phần bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, công dân, góp phần xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật…

Về tổ chức, biên chế, cộng tác viên và các điều kiện bảo đảm khác: Với hệ thống tổ chức cơ quan Tư pháp từ trung ương tới địa phương và đội ngũ cộng tác viên thuộc các ngành, các lĩnh vực đã giúp triển khai hiệu quả công tác kiểm tra văn bản nói chung, kiểm tra văn bản theo các nguồn thông tin được toàn diện và hiệu quả.

Kiểm tra văn bản theo các nguồn thông tin ngày càng phát huy và khẳng định vai trò đối với công tác hoàn thiện pháp luật cũng như bảo vệ lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và công dân. Hiện nay, người dân và doanh nghiệp rất quan tâm đến hình thức kiểm tra văn bản này, coi đây như là một “cứu cánh”, là một “kênh” để phản ánh những vướng mắc, những dấu hiệu trái pháp luật của văn bản, là “kênh” để thông qua đó, yêu cầu cơ quan nhà nước hủy bỏ các quy định trái pháp luật nhằm khắc phục việc thực hiện những quy định trái gây ra những thiệt hại cho cá nhân hay doanh nghiệp.

Về thể chế: Thể chế về kiểm tra văn bản là một nhánh trong hệ thống thể chế về xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, tuy vậy, hệ thống thể chế nhánh chưa có sự gắn kết với hệ thống văn bản pháp luật về xây dựng, hoàn thiện nói chung và đặc biệt là chưa có sự gắn kết với hệ thống pháp luật về xây dựng văn bản, về kiểm soát thủ tục hành chính và theo dõi thi hành pháp luật. Đây là những hoạt động có mối quan hệ khăng khít và chịu ảnh hưởng, tác động lẫn nhau. Chính thể chế chung như vậy đã dẫn tới một thực tế là hoạt động kiểm tra văn bản theo các nguồn thông tin không “tận dụng” được thông tin từ hoạt động thẩm định, hoạt động kiểm soát thủ tục hành chính và hoạt động theo dõi thi hành pháp luật. Trong những hoạt động này, chỉ có kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật là hoạt động mà ở đó người có thẩm quyền kiểm tra có quyền ra thông báo, yêu cầu người, cơ quan đã ban hành văn bản xử lý văn bản hoặc nội dung trái pháp luật trong văn bản đã được thực hiện; trong khi kết thúc các hoạt động thẩm định, kiểm soát thủ tục hành chính và theo dõi thi hành pháp luật, cơ quan có thẩm quyền chỉ có thể đề nghị cơ quan, người có thẩm quyền xem xét nội dung chưa phù hợp đã được phát hiện. Do vậy, có thể nói, kiểm tra văn bản là “điều kiện bảo đảm” tính khả thi của các đề nghị đã được thực hiện khi tiến hành các hoạt động khác trong xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật.

Mặt khác, cũng do chưa có sự gắn kết, liên thông với các hoạt động xây dựng pháp luật, nên nội dung kiểm tra và nội dung thẩm định còn chưa phù hợp; những cách hiểu khác nhau về tính hợp pháp trong thẩm định và trong kiểm tra văn bản còn gây ra những tranh cãi không đáng có trong thực tiễn triển khai các hoạt động này.

Trong hoạt động kiểm tra văn bản theo các nguồn thông tin: Cần xác định rằng, đây là những phương thức kiểm tra văn bản đặc thù, kết quả của phương thức này tác động mạnh mẽ tới đời sống kinh tế – xã hội và hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. Do đó, cần có quy định riêng, đặc thù, đáp ứng được yêu cầu, đặc trưng của nó, tuy vậy, quy định hiện nay chưa đáp ứng được yêu cầu này. Chẳng hạn:

Đối với kiểm tra văn bản theo các nguồn thông tin, các văn bản được kiểm tra theo phương thức này và phát hiện có dấu hiệu trái pháp luật thì quy trình xử lý đối với những văn bản này đòi hỏi phải được tiến hành nhanh, gọn và triệt để, đặc biệt là đối với công văn hành chính có chứa quy phạm pháp luật. Vì thế, quy trình xử lý phải nhanh hơn và hình thức xử lý phải “mạnh” hơn đối với các văn bản khác. Điều này đòi hỏi phải quy định thẩm quyền rộng hơn cho cơ quan, người có thẩm quyền kiểm tra văn bản nhằm nâng cao hơn nữa giá trị của thông báo kiểm tra (thậm chí có thể quy định thẩm quyền đình chỉ thi hành đối với những văn bản cá biệt có chứa quy phạm pháp luật cho Trưởng đoàn kiểm tra liên ngành). Mặt khác, cần có quy định về quy trình tiếp nhận thông tin; cơ chế phối hợp giữa các cơ quan trong xử lý thông tin; trách nhiệm và hình thức công bố văn bản trái pháp luật đã được kiểm tra theo phương thức này; trách nhiệm cung cấp thông tin, kết quả kiểm tra, hình thức xử lý đối với những văn bản đã được phát hiện qua phương thức kiểm tra này; việc lưu trữ hồ sơ, kết quả kiểm tra văn bản theo các nguồn thông tin…

Ngoài ra, pháp luật hiện hành về kiểm tra, xử lý văn bản cũng chưa có quy định cụ thể vấn đề xử lý trách nhiệm của cơ quan/người ban hành văn bản trái pháp luật trong việc tự kiểm tra, xử lý văn bản do mình ban hành khi nhận được yêu cầu/phản ánh; xử lý trách nhiệm trong trường hợp không tuân thủ việc kiểm tra văn bản, gửi văn bản để kiểm tra; kiểm tra không phát hiện nội dung trái pháp luật; không kiểm tra văn bản; không xử lý văn bản trái pháp luật theo thẩm quyền; quy định cụ thể về thi đua, khen thưởng đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thành tích trong kiểm tra, xử lý văn bản, đặc biệt là thành tích trong phát hiện và kiến nghị xử lý văn bản có dấu hiệu trái pháp luật…

Về tổ chức, biên chế, đội ngũ cộng tác viên và các điều kiện bảo đảm khác: Với tổ chức chưa thống nhất giữa các Bộ (có Bộ có cán bộ chuyên trách, có Bộ có bộ phận trong tổ chức pháp chế…) hay giữa các địa phương (có nơi là phòng kiểm tra văn bản, có nơi ghép với xây dựng pháp luật, có nơi ghép với theo dõi thi hành pháp luật, có nơi ghép với tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật), số lượng biên chế còn mỏng, nhiều cán bộ trẻ, chưa có kinh nghiệm; lại thêm đội ngũ cộng tác viên hoạt động hình thức “đánh trống ghi tên”, hiệu quả hoạt động thấp; lượng kinh phí bố trí không đáp ứng yêu cầu của công tác kiểm tra văn bản nói chung chứ chưa kể đến kinh phí cho công tác kiểm tra văn bản theo các nguồn thông tin nói riêng gặp rất nhiều khó khăn. Cụ thể là:

Một số Bộ, ngành và địa phương bố trí biên chế làm công tác kiểm tra văn bản QPPL còn hạn chế, thậm chí có Sở Tư pháp mới chỉ bố trí được 01 công chức là công tác này (Sở Tư pháp Khánh Hòa). Có Sở Tư pháp chưa thành lập được phòng riêng làm công tác kiểm tra văn bản mà giao nhiệm vụ này cho Phòng xây dựng văn bản phụ trách (Thái Bình, Nam Đinh, Quảng Trị, Quảng Ngãi, Phú Yên, KonTum…). Nhiều Sở Tư pháp mới chỉ bố chí 02 biên chế cho làm công tác kiểm tra, theo dõi thi hành pháp luật (Điện Biên, Bắc Ninh, Bình Phước, Bắc Kạn, Hà Nam, Hà Giang, Tuyên Quang…) Trình độ chuyên môn chưa đồng đều, đặc biệt là ở cấp huyện, xã. Hầu hết các Sở, ngành chưa thành lập được phòng pháp chế theo quy định tại Nghị định số 55/2011/NĐ-CP của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của tổ chức pháp chế

Các Bộ, ngành và địa phương bố trí kinh phí cho công tác này còn chưa đồng đều, ở một số nơi còn thấp; một số Bộ, ngành và địa phương (đặc biệt là cấp huyện) chưa được cấp kinh phí độc lập phục vụ công tác này gây khó khăn khi triển khai công việc, chẳng hạn như: Bộ Khoa học và công nghệ năm 2012 và 2013 không được cấp kinh phí; Bắc Ninh, Hà Nam, Nam Định… không được cấp kinh phí riêng cho công tác kiểm tra văn bản.

Hầu hết các Bộ, ngành và địa phương chưa xây dựng được hệ cơ sở dữ liệu phục vụ công tác kiểm tra, xử lý văn bản; việc củng cố, phát triển đội ngũ cộng tác viên kiểm tra văn bản còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ.

Về công tác kiểm tra văn bản:

Mặc dù kiểm tra văn bản theo các nguồn thông tin có ý nghĩa hết sức quan trọng và vai trò to lớn trong việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, ổn định đời sống xã hội, song, việc chú trọng triển khai công tác này trên thực tế còn nhiều hạn chế, bất cập. Việc triển khai kiểm tra văn bản theo các phương thức này mới chủ yếu được thực hiện tại Bộ Tư pháp; quá trình triển khai thực tiễn chưa có sự gắn kết giữa kiểm tra văn bản với thẩm định, kiểm soát thủ tục hành chính, theo dõi thi hành pháp luật, rà soát văn bản quy phạm pháp luật; chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa trung ương với địa phương; việc xử lý văn bản trái pháp luật đã được phát hiện còn chưa kịp thời, chưa triệt để, nhiều trường hợp còn mang tính đối phó nên các văn bản trái pháp luật này vẫn được áp dụng, dẫn đến tác động tiêu cực, thậm chí gây bức xúc trong xã hội.

Năng lực, kỹ năng nghiệp vụ của cán bộ, công chức, cộng tác viên làm công tác kiểm tra văn bản còn hạn chế nên việc tác nghiệp kiểm tra chủ yếu tập trung vào thể thức và kỹ thuật trình bày mà chưa đi sâu vào nội dung văn bản; chưa chú trọng kiểm tra những văn bản thuộc các lĩnh vực kinh tế – xã hội có nhiều bức xúc được dư luận quan tâm.

3.1. Nguyên nhân khách quan:

Trong những năm gần đây, sự suy giảm của nền kinh tế thế giới đã tác động mạnh mẽ tới kinh tế trong nước, làm cho đời sống kinh tế, xã hội thay đổi, giá cả tăng trong khi thu nhập công chức không theo kịp, vì vậy, một làn sóng chảy máu chất xám từ môi trường “công” sang môi trường “tư” đã làm giảm một số lượng đáng kể cán bộ, công chức có chuyên môn nghiệp vụ vững vàng, có bề dày kinh nghiệm và khả năng làm việc chuyên môn cao;

Mặt khác, cũng do chịu ảnh hướng của kinh tế thế giới một số chủ trương, chính sách của nhà nước, của Chính phủ áp dụng cho cán bộ, công chức làm việc trong lĩnh vực này chưa có điều kiện để thực hiện (như chính sách đãi ngộ đối với công chức làm công tác pháp chế được quy định tại Nghị định số 55/2011/NĐ-CP ngày của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của tổ chức pháp chế). Do vậy, chưa “giữ chân” được công chức giàu kinh nghiệm, giỏi chuyên môn và chưa thu hút được lực lượng lao động được đào tạo chính thống, bài bản, có năng lực, trình độ “đầu quân” cho công tác này;

Một nguyên nhân khách quan khác, (thực chất cũng là một điều tín hiệu đáng mừng, đánh tự hào cho toàn Ngành nhưng cũng đang đặt ra cho chúng ta những thách thức rất lớn, trong đó có thách thức đối với công tác kiểm tra văn bản nói chung, kiểm tra văn bản theo các nguồn thông tin, theo chuyên đề, địa bàn, theo ngành, lĩnh vực), thời gian gần đây, “công tác Tư pháp đã có những bước chuyển mình mạnh mẽ, đánh dấu sự phát triển vượt bậc của toàn Ngành cả về vị trí và tổ chức bộ máy”, đã được Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao thêm nhiều nhiệm vụ mới, quan trọng. Mặc dù đây là một tín hiệu rất đáng tự hào, song với số biên chế gần như không thay đổi, việc được giao thêm nhiều nhiệm vụ mới đã tạo thêm “gánh nặng” công việc cho từng đơn vị, từng công chức trong toàn Ngành.

Thêm nữa, với sự tin tưởng lớn lao, Quốc hội, Chính phủ, cơ quan, tổ chức, nhân dân, xã hội lại càng đặt ra những đòi, yêu cầu ngày càng cao hơn, khắt khe hơn. Chính vì vậy, yêu cầu đối với công tác tư pháp nói chung, công tác kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật nói riêng và đặc biệt là hoạt động kiểm tra văn bản theo các nguồn thông tin là “cây cầu nối thân thiện” giữa Nhà nước và công dân lại càng đứng trước những thách thức mới, lớn lao; đòi hỏi từng cán bộ, công chức phải không ngừng sáng tạo, nỗ lực nâng cao chất lượng, hiệu quả công việc. Thời gian qua, đội ngũ cán bộ, công chức toàn ngành đã rất nỗ lực, song đây là vấn đề có tính chất lâu dài, không thể một sớm, một chiều mà thể đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi đó.

4.2. Nguyên nhân chủ quan:

Bên cạnh những nguyên nhân khách quan ảnh hưởng tới hiệu quả công tác kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật đã được phân tích ở trên, những tồn tại, hạn chế của công tác kiểm tra văn bản theo các nguồn thông tin còn xuất phát từ nguyên nhân chủ quan, nội tại của chính công tác này và đây là những nguyên nhân chính, tác động trực tiếp tới hiệu quả công tác này:

Nhận thức của một số Lãnh đạo Bộ, cơ quan ngang Bộ, Ủy ban nhân dân các cấp về vị trí, vai trò của công tác kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật nói chung và công tác kiểm tra văn bản theo các nguồn thông tin có lúc, có nơi còn chưa triệt để, chưa coi trọng đúng với giá trị của công tác này trong tiễn; thậm chí còn có thái độ né tránh, chưa quan tâm đầu tư con người, cơ sở vật chất, bộ máy cho công tác này;

Một nguyên nhân khác và là nguyên nhân chính đã được phân tích ở trên đó là những hạn chế trong hệ thống thể chế về kiểm tra văn bản nói chung và hạn chế trong thể chế kiểm tra văn bản theo các nguồn thông tin.

Mặc dù đã có hệ thống thể chế từ Luật đến hệ thống quy chế nội bộ, song hệ thống thể chế này chưa đầy đủ, như: chưa có quy định đặc thù cho phương thức kiểm tra đặc thù, chưa quy định cơ chế phối hợp, trách nhiệm phối hợp, chế tài phù hợp khi không thực hiện phối hợp trong thẩm định, kiểm tra, kiểm soát thủ tục hành chính, rà soát, theo dõi thi hành pháp luật và kiểm tra văn bản, phối hợp giữa các cơ quan trung ương, phối hợp giữa trung ương và địa phương; hoặc đã có quy định nhưng chưa đủ mạnh, như: quy định về thẩm quyền xử lý, giá trị của kết luận về văn bản trái pháp luật, chưa quy định cụ thể trách nhiệm khi không xử lý văn bản đúng thời hạn, trách nhiệm của cơ quan, người đã tham mưu ban hành văn bản trái pháp luật; chưa có cơ chế đánh giá hiệu quả hoạt động giữa các cơ quan có thẩm quyền kiểm tra để tạo môi trường học hỏi lẫn nhau, đồng thời, xem xét thi đua khen thưởng; hoặc quy định về kinh phí và các điều kiện bảo đảm chưa đáp ứng yêu cầu của công tác này…

Đây chính là nguyên nhân cơ bản, tác động tới mọi lĩnh vực. Khi khi pháp luật đã quy định rõ ràng, chế tài đủ mạnh thì mọi tồn tại, hạn chế sẽ được giải quyết, kể cả nhận thức. (Dù nhận thức chưa đạt nhưng dưới sức mạnh pháp lý, người thừa hành cũng phải làm theo và lâu dần có thể thay đổi nhận thức). Chính vì vậy, yêu cầu tiếp tục hoàn thiện thêm một bước nữa thể chế cho công tác kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật nói chung, kiểm tra văn bản theo các nguồn thông tin, theo địa bàn, theo ngành, lĩnh vực – Dù Luật và Nghị định hướng dẫn công tác này mới có hiệu lực (01/7/2016). Nó còn cấp thiết hơn khi Hiến pháp 2013 đã có hiệu lực, những quy định về quyền con người, quyền công dân được ghi nhận ngày càng mạnh mẽ và rõ ràng hơn, các thẩm quyền về xử lý văn bản được quy định trong Hiến pháp và Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, các luật về tổ chức cũng đang được sửa đổi để đảm bảo phù hợp với Hiến pháp mới. Nhiệm vụ này được đặt lên vai Bộ Tư pháp-Cơ quan giúp Chính phủ quản lý nhà nước thống nhất trên toàn quốc về công tác này. Đặc biệt, Bộ Tư pháp là cơ quan chủ trì soạn thảo Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật và các văn bản hướng dẫn thi hành, đồng thời, thẩm định các Luật, Nghị định do các Bộ khác có thẩm quyền trình, do vậy Bộ Tư pháp cần có cái nhìn tổng thể để đưa những quy định đồng bộ vào những văn bản này nhằm đảm bảo tính khả thi cao nhất trong quá trình triển khai./.