Top 11 # Xem Nhiều Nhất Ngôi Kể Trong Văn Bản Sơn Tinh Thủy Tinh Mới Nhất 4/2023 # Top Like | Athena4me.com

Kể Lại Chuyện Sơn Tinh, Thủy Tinh

Kể lại chuyện Sơn Tinh, Thủy Tinh – Bài 1

Vua Hùng Vương thứ mười tám có một người con gái tên là Mị Nương xinh đẹp tuyệt trần. Nhà vua muốn kén chồng cho con. Một hôm có hai chàng trai đều khôi ngô tuấn tú và cũng đều có tài, đến xin ra mắt nhà vua, để cầu hôn Mị Nương. Vua phân vân không biết gả cho ai, bèn phán: “Ngày mai, hễ ai đem lễ vật gồm một trăm ván cơm nếp, hai trăm nệp bánh chưng, voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao đến trước thì ta gả con gái cho”.

Hôm sau, Sơn Tinh đem đủ lễ vật đến trước và được rước Mị Nương về. Thủy Tinh đến sau không lấy được vợ, giận lắm bèn đem quân đuổi theo quyết giành lại Mị Nương. Thủy Tinh hô mưa, gọi gió dâng nước lên hòng đánh gục Sơn Tinh. Vốn là một chàng trai ở miền sơn cước tài ba, dũng lược, Sơn Tinh dùng phép dời từng quả dồi, nâng từng ngọn núi chặn đứng dòng nước đang cuồn cuộn dâng lên. Cuối cùng Thủy Tinh đuối sức phải tháo chạy. Từ đó, năm nào Thủy Tinh cũng dâng nước đánh Sơn Tinh, gây lũ lụt khắp nơi, nhưng lần nào cũng chịu thất bại.

Kể lại chuyện Sơn Tinh, Thủy Tinh – Bài 2

Đời vua Hùng Vương thứ mười tám có một cô công chúa tên là Mị Nương, nàng đẹp như tiên sa giáng trần. Nhà vua muốn kén chồng cho cô con gái yêu. Thuở ấy, có hai chàng trai đều khôi ngô tuấn tú, ngang tài ngang sức cùng đến ra mắt đức vua xin kết duyên cùng Mị Nương. Nhà vua không biết nên chấp nhận chàng trai nào, vua bèn phán rằng: “Ngày mai, ai đưa lễ vật đến trước gồm một trăm ván cơm nếp, hai trăm nệp bánh chưng, voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao, ta sẽ cho rước Mị Nương!”.

Vừa sáng tinh mơ, Sơn Tinh đã có đủ lễ vật trình nhà vua và tức thì được rước Mị Nương về. Thủy Tinh đến muộn hơn một chút để mất Mị Nương về tay Sơn Tinh, chàng nổi giận đùng đùng, huy động quân lính gióng trống phất cờ đuổi theo quyết tâm đánh gục Sơn Tinh, giành lấy người đẹp. Chàng hô mưa gọi gió, dâng nước lên cao chặn đường đoàn quân của Sơn Tinh.

Vốn là một chàng trai miền sơn cước tinh thông phép màu, võ nghệ tuyệt kế, Sơn Tinh bình tĩnh hóa phép nhiệm màu bốc từng quả đồi, dời từng ngọn núi chặn đứng dòng nước ồ ạt dâng cao của Thủy Tinh. Trận chiến kéo dài hàng tuần lễ rất khốc liệt. Song Thủy Tinh đành phải ngậm đắng nuốt cay ra lệnh cuốn cờ, lui quân chấp nhận bại trận. Tuy thế, nỗi hận thù vẫn canh cánh bên lòng, nên hàng năm Thủy Tinh cũng dâng nước lên cao, cho sấm sét giông bão ào ào đổ xuống đánh Sơn Tinh cho hả mối hận thù. Nhưng lần nào cũng vậy, Thủy Tinh đều thất bại dưới tay Sơn Tinh.

Tìm Hiểu Văn Bản: Sơn Tinh – Thủy Tinh

I. Tìm hiểu chung

1. Đọc

2. Bố cục

 – 3 phần:

+ Từ đầu đến “một đôi”: Vua Hùng kén rể

+ Tiếp theo đến “rút quân”: Chiến thắng của Sơn Tinh

+ Còn lại: Lí giải hiện tượng lũ lụt hàng năm

II. Trọng tâm kiến thức

1. Vua Hùng kén rể

– Mô tip kén rể rất quen thuộc trong văn học dân gian à thể hiện quan niệm công bằng, trọng người tài

– Hai chàng trai đến cầu hôn:

– Trước hai chàng rể xứng đáng, vua Hùng không biết lựa chọn ai, từ chối ai, nên đã đưa ra lễ vật: một trăm ván cơm nếp, một trăm tệp bánh chưng, voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao

– Rõ ràng, vua Hùng có sự thiên vị Sơn Tinh. Điều đó thể hiện cho quan niệm của cha ông ta: gần gũi, yêu mến đất, đặt niềm tin vào đất; yêu mến rừng; sợ hãi trước thế lực của nước. Đây không phải là quyết định riêng của Hùng Vương thứ 18 mà là ý kiến của cả triều đình, cả dân tộc.

2. Chiến thắng của Sơn Tinh

– Vì được sự ưu ái của Vua Hùng, Sơn Tinh đã mang được lễ vật về trước và rước Mị Nương về núi.

– Nhưng chiến thắng của Sơn Tinh cũng hoàn toàn xứng đáng vì khi bị Thủy Tinh đem quân đánh lại, Sơn Tinh vẫn chiến thắng.

– Cuộc chiến của hai vị thần được miêu tả vô cùng cam go, khốc liệt, hùng tráng

– Phần thắng của Sơn Tinh không phải vì Sơn Tinh mạnh hơn bởi lẽ hai vị thần đều ngang sức, ngang tài. Sơn Tinh chiến thắng vì:

3. Lí giải hiện tượng lũ lụt hàng năm

– Nhưng năm nào Thủy Tinh cũng thua à ca ngợi công cuộc chống lũ lụt của vua Hùng, của nhân dân ta: luôn luôn chế ngự được lũ lụt.

III. Tổng kết

1. Nội dung

– Lí giải hiện tượng lũ lụt hàng năm

– Ước mong muốn chế ngự thiên tai

– Ca ngợi công lao dựng nước và giữ nước của vua Hùng

2. Nghệ thuật

– Miêu tả nhân vật

 – Sử dụng các chi tiết kì ảo, các mô típ quen thuộc

Phân Tích Văn Bản Sơn Tinh, Thủy Tinh

Phân tích văn bản Sơn Tinh, Thủy Tinh

Truyện Sơn Tinh, Thủy Tinh bắt nguồn từ kho tàng thần thoại cổ, mà trực tếp là từ thần thoại về núi Tản Viên (và kèm theo đó là ca từ thần thoại về con sông Đà, đoạn sông chảy qua vùng Việt Trì, Phú Thọ để nhập vào sông Hồng), nhưng đã được lịch sử hóa để thành một truyền thuyết.

2. Hình tượng nhân vật (chính) và ý nghĩa tượng trưng

Trong truyện Sơn Tinh, Thủy Tinh có bốn nhân vật: Sơn Tinh – núi Tản Viên, Thủy Tinh – vị chúa vùng nước thẳm vốn từ ngoài biển xa hằng năm mượn sông Đà làm địa bàn “gây chiến” với Sơn Tinh, Hùng Vương thứ mười tám và công chúa Mị Nương.

Nhân vật Hùng Vương được xây dựng nhằm đem lại màu sắc lịch sử cho truyện kể muôn đời về Núi và Nước. Nhân vật công chúa Mị Nương xuất hiện trong truyện thực hiện vai trò làm đầu mối cho sự xung đột giữa hai vị thần, khiến truyện Sơn Tinh, Thủy Tinh không còn là một thần thoại giải thích các hiện tượng tự nhiên thuần túy nữa, mà đã là một truyện kể (truyền thuyết) về việc con người chinh phục thiên nhiên để xây dựng và bảo vệ cuộc sống hạnh phúc của mình. Tựu trung, mọi điều xảy ra chỉ xoay quanh mâu thuẫn giữa thần Núi với thần Nước.

Điều đó có nghĩa rằng chỉ có Sơn Tinh và Thủy Tinh là nhân vật chính, Hùng Vương và Mị Nương là nhân vật phụ góp phần tạo nên bối cảnh xảy ra cuộc xung đột giữa hai nhân vật chính.

Vì thế để có thể hiểu được ý nghĩa của truyện, ta cần tập trung phân tích ý nghĩa của hình tượng nhân vật chính. Cụ thể là phân tích các chi tiết nghệ thuật có giá trị được truyện dùng đế xây dựng hình tượng nhân vật chính. Gồm có:

– Những chi tiết về cuộc thi tài và cầu hôn;

– Những chi tiết về cuộc giao tranh;

– Những chi tiết về cách kết thúc cuộc giao tranh.

a) Những chỉ tiết về cuộc thi tài và cầu hôn

Những chi tiết này vừa là sản phẩm của trí tưởng tượng mang đậm tính chất thần kì (Sơn Tinh chỉ cần vẫy tay một cái là núi đồi, cồn bãi mọc lên khắp phía đông, phía tây; Thủy Tinh chỉ cần đứng một chỗ mà hô được mưa đến, gọi được gió về), vừa không thoát li thực tế (là thần Núi, Sơn Tinh chỉ có thể điều khiển được đồi núi, cồn bãi; còn Thủy Tinh là thần Nước nên chỉ có thể gọi được gió bão, hô được mưa lũ).

Hai vị thần không thể đổi được tài nghệ cho nhau, cũng chẳng ai có thế kiếm được cả hai loại phép lạ đó. Mặc dù cả hai vị thần đều tài giỏi ngang nhau.

Những lễ vật mà Hùng Vương thách cưới thảy đều kì lạ và khó kiếm (nhất là lại chĩ được kiếm trong thời gian một đêm – thời hạn quá ngắn đến mức hoang đường, kì ảo đối với những người phải đáp ứng).

Nhưng đó cũng lại là những thứ hoặc là sản phẩm của nghề trồng lúa nước (vốn là biệt tài của người Việt ngay từ thời Văn Lang), hoặc là dựa trên cơ sở thành tựu thuần hóa những động vật hoang dã thành vật nuôi trong nhà (những voi, gà, ngựa là những loài gia súc mà người Việt thời cổ đã nuôi để làm thực phẩm hoặc đế giúp vào việc làm ăn, vận chuyển).

Sở dĩ chỉ riêng Sơn Tinh kiếm đủ lễ vật là vì đó chí gồm những thứ ở trên cạn. Thế là dân gian đã mượn lời thách của Hùng Vương để bộc lộ cảm tình, sự thiên vị đối vói Sơn Tinh. Điều này cũng lại có cơ sở thực tế: để chạy khỏi vùng bị lụt, con người phải lên núi cao và chưa bao giờ nước lũ lại dâng đến ngọn núi – huống chi là núi Tản Viên cao nhất vùng Phong Châu.

Rõ ràng ở đây có sự kết hợp của trí tưởng tượng kì diệu với hoàn cảnh thực tế. Thần thoại trở thành truyền thuyết gắn bó với cuộc đời là như thế.

b) Những chi tiết về cuộc giao tranh

Cuộc đánh ghen của Thủy Tinh và cuộc chống trả của Sơn Tinh cũng có tính chất hai mặt như những chi tiết về cuộc thi tài và cầu hôn. Thủy Tinh là thần nên có sức mạnh ghê gớm tới mức chỉ có được trong trí tưởng tượng mang ảnh hưởng của thần thoại: hô mưa, gọi gió thì tạo nên bão dông, lũ lụt “rung chuyền đất trời… nước ngập nhà cửa, nước dâng lên lưng đồi, sườn núi, thành Phong Châu như nổi lềnh bềnh trên một biển nước”. Nhưng những hình ảnh tưởng tượng dữ dội, kì vĩ ấy vẫn dựa trên những kinh nghiệm, quan sát thực lô về những trận lũ lụt khủng khiếp trên dọc hai bờ sông Hồng, sông Đà trong mùa mưa bão hằng năm. Sơn Tinh cũng là thần nên năng lực cũng đạt tới mức khác thường, thần kì: “Thần dùng phép lạ bốc từng quả dồi, dời từng dãy núi, dựng thành lũy đất, ngăn chặn dòng nước”] đặc biệt là hỗ nước sông do Thủy Tinh dâng lên cao bao nhiêu thì đồi núi do Sơn Tinh đắp cao lên bấy nhiêu, lúc nào cũng cao hơn mực nước. Tài năng đắp cao đất để ngăn nước đó là một phần có cơ sở ở quá trình trị thủy của tổ tiên người Việt, nhưng một phần (và là phần chủ yếu ở một tác phẩm văn học) bắt nguồn từ ước mơ của họ muốn có sức mạnh phi thường, khả năng to lớn đế chiến thắng nạn lụi. Ước mơ ấy, suy cho cùng cũng nảy sinh từ thực tế lao động sản xuất và đấu tranh với thiên nhiên. Những điều này nói lên giá trị phản ánh hiện thực của những chi tiết nghệ thuật tưởng như hoang đường và cũng thế hiện mối quan hộ mật thiết giữa sáng tác văn học dân gian với đời sống của nhân dân.

c) Những chi tiết về cách kết thúc cuộc giao tranh

Kết thúc truyện là sự chiến thắng của Sơn Tinh đốì với Thủy Tinh – không thể không như vậy vì thực tế là nước lũ dâng cao đên đâu rồi cũng đến lúc phải rút. Nhưng Sơn Tinh đã thắng mà chưa thắng hẳn, Thủy Tinh dẫu thua mà chưa chịu thua hẳn, hằng năm vẫn “làm mưa gió, bão lụt, dâng nước đánh Sơn Tinh”. Và rồi lần nào cũng vậy, Thủy Tinh “đánh mệt mỏi, chán chê… đành rút quân về”. Tuy nhiên, cách kết thúc ấy còn tổng kết một bài học kinh nghiệm lớn: con người không bao giờ chịu ngồi yên khoanh tay nhìn và chờ đợi bị động trước thiên nhiên; sức người hoàn toàn có thể, năm nào cũng vậy, chiến thắng được thiên tai lũ lụt.

Không chỉ mang những ý nghĩa như vậy, với cách kết thúc đã phân tích ở trên, truyện còn là lời thế hệ trước nhắn nhủ, gửi gắm cho thê hệ sau nhiệm vụ tiếp tục vươn lên chinh phục tự nhiên, làm chủ đất nước. Công trình thủy điện sông Đà với nhà máy thủy điện Hòa Bình và sắp tới đây, với nhà máy thủy điện Tạ Bú, Sơn La (cùng các công trình thủy điện, đê điều khác), sự nghiệp trồng rừng và giữ gìn, bảo vệ rừng chính là việc làm thực tế để tiếp tục sự nghiệp trị thủy, xây dựng đời sống no ấm, phồn vinh của cha ông ta.

Kể Lại Truyền Thuyết Sơn Tinh, Thủy Tinh Bằng Lời Văn Của Em

Kể lại truyền thuyết Sơn Tinh, Thủy Tinh bằng lời văn của em – Hướng dẫn lập dàn ý

A. Mở bài

Giới thiệu truyền thuyết “Sơn Tinh, Thủy Tinh”.

B. Thân bài (diễn biến sự việc)

+ Mở đầu:

– Vua Hùng Vương có con gái tên Mị Nương.

+ Thắt nút

– Vua tìm gả chồng cho con.

+ Phát triển

– Sơn Tinh, Thủy Tinh đến tranh tài.

+ Mở nút

– Sơn Tinh đến trước lấy được Mị Nương.

+ Kết thúc

– Thủy Tinh đánh Sơn Tinh.

C. Kết bài.

– Ý nghĩa câu chuyện: hiện tượng lũ lụt.

Kể lại truyền thuyết Sơn Tinh, Thủy Tinh bằng lời văn của em – Bài làm

“Âm… ầm…ầm”. Từng đợt sóng biển đập vào vách đá gợi cho em nhớ đến cuộc giao tranh ác liệt giữa Sơn Tinh và Thủy Tinh. Đây là một truyện rất hay mà em luôn nhớ từ thuở ấu thơ. Câu chuyện này đã được bà ngoại em kể vào những đêm trăng sáng khi mọi người ngồi xúm xít trước sân nhà.

Bà ke rằng vào thuở xa xưa, thời vua Hùng Vương thứ mười tám, vua có một người con gái tên là Mị Nương sắc đẹp như tiên giáng trần. Nhà vua rấtl thương con nên muốn tìm gả cho nàng một người chồng tài ba, tuấn tú

Lệnh vua vừa ban ra, các chàng trai từ khắp nơi đều đổ về cầu hôn. Trong số đó, nổi bật nhất là hai chàng trai Sơn Tinh và Thủy Tinh. Sơn Tinh dời núi Ba Vì. Chàng vừa tuấn tú lại vừa tài giỏi khác thường: chỉ tay về phía đông, phía đông biến thành đồng lúa xanh; chỉ tay về phía tây, phía tây mọc lên hàng dãy núi. Còn Thủy Tinh ở tận miền biển Đông, tài giỏi cũng không kém: gọi gió, gió đến; hô mưa, mưa về. Cả hai cùng ngang sức ngang tài và đều xứng đáng với Mị Nương.

Vua Hùng rất băn khoăn không biết chọn ai, bỏ ai. Vua liền triệu tập các quan vào bàn bạc nhưng cũng chẳng có ai nghĩ ra một kế gì hay. Cuối cùng, vua nghĩ ra được một cách và cho vời hai chàng trai vào mà phán rằng:

– Ta đều vừa ý cả hai người nhưng ta chỉ có một người con gái. Vậy vào rạng sáng ngày mai ai mang lễ vật đến trước thì ta gả con gái cho. Lễ cưới phải có đủ: một trăm ván cơm nếp, hai trăm tệp bánh chưng voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao.

Mới sáng sớm tinh mơ, Sơn Tinh đã đem đầy đủ lễ vật đến trước. Vua Hùng giữ đúng lời hứa liền gả Mị Nương cho Sơn Tinh và hai vợ chồng đưa nhau về núi.

Thủy Tinh mang lễ vật đến sau nên không cưới được vợ. Tức giận vô cùng, Thủy Tinh liền đùng đùng mang quân đuổi theo quyết cướp dược Mị Nương. Khi thây vợ chồng Sơn Tinh lên núi, Thủy Tinh hô mưa, gọi gió, làm thành giông bão, sấm sét rung chuyển cả đất trời, dâng nưởc sông lên cuồn cuộn. Nước ngập lúa ngập đồng, ngập nhà, ngập cửa..

Sơn Tinh không nao núng một chút nào. Một mặt, chàng dùng phép bốc cao từng quả đồi, dời từng dẫy núi để ngăn chặn dòng nước lũ. Nước dâng cao bao nhiêu, Sơn Tinh lại làm cho đồi núi mọc cao lên bấy nhiêu. Mặt khác, chàng tung ra đội quân sư tử, voi, cọp báo… để chống lại đoàn quân thuồng luồng, cá, tôm, cua… của Thủy Tinh. Hai bên đánh nhau ác liệt hết ngày này qua ngày khác ròng rã suốt mấy tháng liền. Thiệt hại người và của vô số kể. Cuối cùng, Thủy Tinh cũng đành thua trận rút quân về biển.

Với lòng hận thù triền miên nên từ đó về sau không năm nào Thủy Tinh không làm mưa bão, dâng nước lên để đánh Sơn Tinh, gây nên cảnh lụt lội, phá hoại nhà cửa, mùa màng của nước ta. Song, lần nào cũng vậy, Thủy Tinh lua thua trận và đành phải rút lui.

Kể xong câu chuyện, bà âu yếm xoa đầu em và nói: “Cuộc chiến giữa Sơn Tinh và Thủy Tinh thật ác liệt phải không các cháu? Hình ảnh này đã giải thích hiện tượng bão lụt xảy ra hằng năm suốt mùa mưa ở khăp vùng đồng bằng Bắc Bộ. Ngoài ra, truyện còn nói lên ước mơ của ngươi dân muốn chiến thắng bão lụt để bảo vệ cuộc sống lao dộng của mình. Các cháu có hiểu không?”