Phân tích văn bản Sơn Tinh, Thủy Tinh
Truyện Sơn Tinh, Thủy Tinh bắt nguồn từ kho tàng thần thoại cổ, mà trực tếp là từ thần thoại về núi Tản Viên (và kèm theo đó là ca từ thần thoại về con sông Đà, đoạn sông chảy qua vùng Việt Trì, Phú Thọ để nhập vào sông Hồng), nhưng đã được lịch sử hóa để thành một truyền thuyết.
2. Hình tượng nhân vật (chính) và ý nghĩa tượng trưng
Trong truyện Sơn Tinh, Thủy Tinh có bốn nhân vật: Sơn Tinh – núi Tản Viên, Thủy Tinh – vị chúa vùng nước thẳm vốn từ ngoài biển xa hằng năm mượn sông Đà làm địa bàn “gây chiến” với Sơn Tinh, Hùng Vương thứ mười tám và công chúa Mị Nương.
Nhân vật Hùng Vương được xây dựng nhằm đem lại màu sắc lịch sử cho truyện kể muôn đời về Núi và Nước. Nhân vật công chúa Mị Nương xuất hiện trong truyện thực hiện vai trò làm đầu mối cho sự xung đột giữa hai vị thần, khiến truyện Sơn Tinh, Thủy Tinh không còn là một thần thoại giải thích các hiện tượng tự nhiên thuần túy nữa, mà đã là một truyện kể (truyền thuyết) về việc con người chinh phục thiên nhiên để xây dựng và bảo vệ cuộc sống hạnh phúc của mình. Tựu trung, mọi điều xảy ra chỉ xoay quanh mâu thuẫn giữa thần Núi với thần Nước.
Điều đó có nghĩa rằng chỉ có Sơn Tinh và Thủy Tinh là nhân vật chính, Hùng Vương và Mị Nương là nhân vật phụ góp phần tạo nên bối cảnh xảy ra cuộc xung đột giữa hai nhân vật chính.
Vì thế để có thể hiểu được ý nghĩa của truyện, ta cần tập trung phân tích ý nghĩa của hình tượng nhân vật chính. Cụ thể là phân tích các chi tiết nghệ thuật có giá trị được truyện dùng đế xây dựng hình tượng nhân vật chính. Gồm có:
– Những chi tiết về cuộc thi tài và cầu hôn;
– Những chi tiết về cuộc giao tranh;
– Những chi tiết về cách kết thúc cuộc giao tranh.
a) Những chỉ tiết về cuộc thi tài và cầu hôn
Những chi tiết này vừa là sản phẩm của trí tưởng tượng mang đậm tính chất thần kì (Sơn Tinh chỉ cần vẫy tay một cái là núi đồi, cồn bãi mọc lên khắp phía đông, phía tây; Thủy Tinh chỉ cần đứng một chỗ mà hô được mưa đến, gọi được gió về), vừa không thoát li thực tế (là thần Núi, Sơn Tinh chỉ có thể điều khiển được đồi núi, cồn bãi; còn Thủy Tinh là thần Nước nên chỉ có thể gọi được gió bão, hô được mưa lũ).
Hai vị thần không thể đổi được tài nghệ cho nhau, cũng chẳng ai có thế kiếm được cả hai loại phép lạ đó. Mặc dù cả hai vị thần đều tài giỏi ngang nhau.
Những lễ vật mà Hùng Vương thách cưới thảy đều kì lạ và khó kiếm (nhất là lại chĩ được kiếm trong thời gian một đêm – thời hạn quá ngắn đến mức hoang đường, kì ảo đối với những người phải đáp ứng).
Nhưng đó cũng lại là những thứ hoặc là sản phẩm của nghề trồng lúa nước (vốn là biệt tài của người Việt ngay từ thời Văn Lang), hoặc là dựa trên cơ sở thành tựu thuần hóa những động vật hoang dã thành vật nuôi trong nhà (những voi, gà, ngựa là những loài gia súc mà người Việt thời cổ đã nuôi để làm thực phẩm hoặc đế giúp vào việc làm ăn, vận chuyển).
Sở dĩ chỉ riêng Sơn Tinh kiếm đủ lễ vật là vì đó chí gồm những thứ ở trên cạn. Thế là dân gian đã mượn lời thách của Hùng Vương để bộc lộ cảm tình, sự thiên vị đối vói Sơn Tinh. Điều này cũng lại có cơ sở thực tế: để chạy khỏi vùng bị lụt, con người phải lên núi cao và chưa bao giờ nước lũ lại dâng đến ngọn núi – huống chi là núi Tản Viên cao nhất vùng Phong Châu.
Rõ ràng ở đây có sự kết hợp của trí tưởng tượng kì diệu với hoàn cảnh thực tế. Thần thoại trở thành truyền thuyết gắn bó với cuộc đời là như thế.
b) Những chi tiết về cuộc giao tranh
Cuộc đánh ghen của Thủy Tinh và cuộc chống trả của Sơn Tinh cũng có tính chất hai mặt như những chi tiết về cuộc thi tài và cầu hôn. Thủy Tinh là thần nên có sức mạnh ghê gớm tới mức chỉ có được trong trí tưởng tượng mang ảnh hưởng của thần thoại: hô mưa, gọi gió thì tạo nên bão dông, lũ lụt “rung chuyền đất trời… nước ngập nhà cửa, nước dâng lên lưng đồi, sườn núi, thành Phong Châu như nổi lềnh bềnh trên một biển nước”. Nhưng những hình ảnh tưởng tượng dữ dội, kì vĩ ấy vẫn dựa trên những kinh nghiệm, quan sát thực lô về những trận lũ lụt khủng khiếp trên dọc hai bờ sông Hồng, sông Đà trong mùa mưa bão hằng năm. Sơn Tinh cũng là thần nên năng lực cũng đạt tới mức khác thường, thần kì: “Thần dùng phép lạ bốc từng quả dồi, dời từng dãy núi, dựng thành lũy đất, ngăn chặn dòng nước”] đặc biệt là hỗ nước sông do Thủy Tinh dâng lên cao bao nhiêu thì đồi núi do Sơn Tinh đắp cao lên bấy nhiêu, lúc nào cũng cao hơn mực nước. Tài năng đắp cao đất để ngăn nước đó là một phần có cơ sở ở quá trình trị thủy của tổ tiên người Việt, nhưng một phần (và là phần chủ yếu ở một tác phẩm văn học) bắt nguồn từ ước mơ của họ muốn có sức mạnh phi thường, khả năng to lớn đế chiến thắng nạn lụi. Ước mơ ấy, suy cho cùng cũng nảy sinh từ thực tế lao động sản xuất và đấu tranh với thiên nhiên. Những điều này nói lên giá trị phản ánh hiện thực của những chi tiết nghệ thuật tưởng như hoang đường và cũng thế hiện mối quan hộ mật thiết giữa sáng tác văn học dân gian với đời sống của nhân dân.
c) Những chi tiết về cách kết thúc cuộc giao tranh
Kết thúc truyện là sự chiến thắng của Sơn Tinh đốì với Thủy Tinh – không thể không như vậy vì thực tế là nước lũ dâng cao đên đâu rồi cũng đến lúc phải rút. Nhưng Sơn Tinh đã thắng mà chưa thắng hẳn, Thủy Tinh dẫu thua mà chưa chịu thua hẳn, hằng năm vẫn “làm mưa gió, bão lụt, dâng nước đánh Sơn Tinh”. Và rồi lần nào cũng vậy, Thủy Tinh “đánh mệt mỏi, chán chê… đành rút quân về”. Tuy nhiên, cách kết thúc ấy còn tổng kết một bài học kinh nghiệm lớn: con người không bao giờ chịu ngồi yên khoanh tay nhìn và chờ đợi bị động trước thiên nhiên; sức người hoàn toàn có thể, năm nào cũng vậy, chiến thắng được thiên tai lũ lụt.
Không chỉ mang những ý nghĩa như vậy, với cách kết thúc đã phân tích ở trên, truyện còn là lời thế hệ trước nhắn nhủ, gửi gắm cho thê hệ sau nhiệm vụ tiếp tục vươn lên chinh phục tự nhiên, làm chủ đất nước. Công trình thủy điện sông Đà với nhà máy thủy điện Hòa Bình và sắp tới đây, với nhà máy thủy điện Tạ Bú, Sơn La (cùng các công trình thủy điện, đê điều khác), sự nghiệp trồng rừng và giữ gìn, bảo vệ rừng chính là việc làm thực tế để tiếp tục sự nghiệp trị thủy, xây dựng đời sống no ấm, phồn vinh của cha ông ta.