--- Bài mới hơn ---
Cựu Ngoại Trưởng Vương Văn Bắc Qua Đời
Luật Sư Vương Công Đức Và ‘trảng Bàng Phương Chí’: Viết Vì Sự ‘hoài Cố’
Vụ Hoa Hậu Phương Nga: Phía Ông Cao Toàn Mỹ Kiến Nghị Làm Rõ Tình Tiết Mới Quan Trọng
Cao Toàn Mỹ Hứa Bãi Nại Phương Nga Nếu Được Hoàn Tiền
Sau Phiên Sơ Thẩm, Cuộc Sống Của Ông Cao Toàn Mỹ Xáo Trộn
Tác giả Trần Văn Khởi (trái) và
luật sư Vương Văn Bắc.
“Saigon 17-1-1974 (VTX): Ngoại Trưởng VNCH
Vương Văn Bắc chiều nay đã lên tiếng
tố cáo trước dư luận quốc tế và
quốc nội việc Trung Cộng đã vi phạm
chủ quyền VNCH trên các quần đảo Hoàng Sa,
đồng thời cho rằng việc xâm phạm chủ
quyền này không thể chấp nhận được. Sau
đây là nguyên văn bản tuyên bố:
“Ngày 11-1-1974, Bộ Ngoại Giao Trung Cộng bỗng
nhiên lên tiếng mạo nhận chủ quyền trên các
quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa của VNCH. Ngay ngày hôm sau, phát ngôn viên
của Bộ Ngoại Giao VNCH đã bác bỏ đòi
hỏi vô căn cứ đó. Mặc dầu vậy, trong
những ngày gần đây, nhà cầm quyền Trung Cộng
không những đã không rút lại sự đòi hỏi vô lý
của mình lại còn ngang nhiên xâm phạm vào chủ
quyền lãnh thổ của VNCH bằng cách cho người và
tàu bè xâm nhập vào vùng lãnh hải chung quanh các đảo
Cam Tuyền (Robert), Quang Hòa (Duncan), Duy Mộng (Drummond)
thuộc quần đảo Hoàng Sa (Paracels Islands) của
VNCH. Thậm chí bọn người này còn dám đặt chân
lên các hòn đảo này, dựng chòi và kéo cờ Trung
Cộng, trắng trợn chà đạp lên chủ quyền
và sự toàn vẹn lãnh thổ của VNCH.
Trước những sự vi
phạm thô bạo đó, Chính phủ và Nhân dân VNCH rất công
phẫn và quyết không dung thứ. Sự kiện các
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là những
phần tử bất khả phân của lãnh thổ VNCH là
một sự kiện hiển nhiên và không chối cãi
được, căn cứ trên những dữ kiện
địa lý, lịch sử và pháp lý quốc tế.
Thật vậy….”
LS Vương Văn Bắc có một tiểu sử sáng
chói: ông đã thành công vượt bực trong lãnh vực
tư ở Saigon trước khi
tham gia vào các hoạt động của chính phủ VNCH, mà
chức vụ sau cùng là Tổng Trưởng Ngoại Giao.
Nhiều người biết về LS Bắc trong nhiều
tư cách khác nhau – luật sư, cố vấn công ty, giáo
sư, thành viên phái đoàn Hòa Đàm Paris, đại sứ
ở Luân đôn, Ngoại Trưởng.
Tôi chỉ xin được nhớ về LS Bắc khi
cùng làm việc ở Ủy Ban Quốc Gia Dầu Hỏa,
cùng làm và dự hội nghị về luật biển, và
sau này khi cùng duy trì mối thân tình.
Tôi gặp LS Bắc lần đầu tiên
hồi đầu năm 1971. Tôi vừa
được giao phó thực thi chương trình tìm
kiếm dầu hỏa, và đang xúc tiến sáng kiến
Ủy Ban Quốc Gia Dầu Hỏa và lập văn phòng
điều hành. LS Bắc là một trong ba nhân vật trong
lãnh vực tư được ông Tổng Trưởng
Kinh Tế Phạm Kim Ngọc đề nghị, và Tổng
Thống Nguyễn Văn Thiệu chấp thuận, làm
hội viên của Ủy Ban, cùng với quí vị Tổng
Thư Ký / Tổng Giám Đốc của các bộ liên
hệ. (Hai vị hội viên thuộc lãnh
vực tư khác là Kỹ Sư Đinh Quang Chiêu và Kỹ Sư
Âu Ngọc Hồ). LS Bắc cũng vừa nhận
lời cầm đầu một phái đoàn đi Ba Tư để
nhờ giúp cho VNCH tổ chức xúc tiến tìm dầu mà Ông
Ngọc vừa móc nối được qua tình cờ quen
biết với ông Tổng Trưởng Kinh Tế Ba Tư
hồi cùng học ở Luân đôn.
Tôi trịnh trọng tự giới thiệu “Như có
hẹn, ông Tổng Trưởng Kinh Tế gởi tôi qua
đây để bàn chuyện với Luật Sư về
chuyến đi Tehran sắp tới của phái đoàn”. LS
Bắc bắt tay tôi, thân mật nói ngay:
“Luật sư gì, gọi là anh và tôi được rồi.
Anh Ngọc có nói về anh. Mình
sẽ cùng nhau làm việc.” Lần đó, chúng tôi bàn
về mọi chi tiết của chuyến đi, từ các
lãnh vực chuyên viên mình muốn mời qua, đến quà
sơn mài để biếu Thủ Tướng Hoveyda và
Tổng Trưởng Dầu Hỏa Amouzegar, một sáng
lập viên của OPEC. Tôi rất cảm kích lề lối
làm việc và thái độ ân cần của LS Bắc. Khi
gần xong, tôi nói tôi rất tiếc không cùng đi
được; Kỹ Sư Võ Anh Tuấn sẽ thay tôi. Ông
rất ngạc nhiên, nhưng sau đó hoàn toàn đồng
tình khi biết tôi còn phải cấp bách lo tổ chức
Ủy Ban, kiếm người cùng làm việc, và nhất là
lo cấp tốc dịch Luật Dầu Hỏa vừa
được ban hành ra Anh ngữ để phổ
biến cho các công ty và để các chuyên viên Ba Tư có tài
liệu làm việc ngay.
Ấn tượng đầu tiên thường lâu
bền: tôi ghi nhớ tiêu chuẩn cao trong suy nghĩ cũng
như cách tiếp cận vấn để của Anh
Bắc. Sau này, Anh cũng nói với tôi là Anh nhận
thấy ngay tinh thần trọng ưu tiên của tôi,
bỏ qua dịp đi xuất ngoại lúc đó.
Không được cùng đi Tehran với Anh nhưng sau đó
tôi lại được dịp cùng đi nhiều nơi
khác, cùng làm việc ở Ủy Ban Quốc Gia Dầu
Hỏa, rồi cùng liên hệ lâu dài.
* Chỉ mấy tháng sau, Anh làm trưởng phái đoàn
tham dự hội thảo về pháp lý dầu hỏa ở
Bangkok; tôi
làm thuyết trình viên tại hội nghị, giới thiệu
Luật Dầu Hỏa VNCH. Sau buổi
thuyết trình, phái đoàn VNCH cùng với Tòa Đại
Sứ ở Bangkok
đã tổ chức một buổi tiếp tân rất thành
công. Anh Bắc và tôi rất hài lòng với kết
quả công tác này, và đã thưởng cho nhau đi coi xi-nê
ở Bangkok, một phim mới ra đang ăn khách với
bài hát chóng thịnh hành lúc đó là Love Story;
* Qua năm 1972, đáp lời mời của công ty
quốc doanh dầu hỏa Pertamina của Indonesia, tôi
cùng Anh đi Jakarta. Là khách của Pertamina, chúng
tôi lưu trú trong khuôn viên của Pertamina ở xa phố xá.
Nhưng được mấy ngày buồn
chán quá, chúng tôi quyết định dọn ra khách sạn
ở ngoài. Nào ngờ khách sạn này
gồm toàn người Liên Sô, phần lớn là phi hành
đoàn của Aeroflot. Chúng tôi thấy
không yên tâm và tôi đã cẩn thận dọn qua ở cùng phòng
với Anh. Anh rất phiền lòng vị đại
diện ngoại giao VNCH ở Jakarta
lúc đó không đủ bén nhạy, đã chọn một
khách sạn không thích nghi;
* Cũng trong năm 1972, trong lần đi Mã Lai Á sơ
thảo về tranh chấp thềm lục địa, Anh
bàn với tôi vì vùng tranh chấp tương đối
nhỏ nên mình nên thử gieo ý kiến thăm dò khai thác chung trong tương lai. Bên phia
Mã cũng lịch sự ghi nhận; nhưng không bên nào
thấy cấp bách. Mãi sau này, vào cuối thập niên
1980 hai nước Mã Lai Á và Việt Nam thỏa thuận khai thác
chung trong vùng tranh chấp, nay gọi là
Vùng Dàn Xếp Thương Mại Mã-Việt. Đến
cuối thập niên 1990 thì Việt Nam được chia
phần dầu hỏa sản xuất trong vùng tranh chấp
do công ty quốc doanh Petronas khai thác;
* Giữa năm 1974, Anh Bắc lại một lần
nữa nêu cao ngọn cờ chính nghĩa của VNCH cho Hoàng
Sa-Trường Sa; lần này trước khoáng đại
hội nghị gồm tới 150 quốc gia tham dự
Hội Nghị Liên Hiệp Quốc Kỳ III về
Luật Biển ở Caracas. Anh đã lưu loát trình bày
nội dung khúc chiết như trong bản tuyên bố
hồi đầu năm. Một số phái đoàn bỏ
ghế trống, một số đứng lên rời phòng
hội, nhưng Anh vẫn bình tâm, vẫn hùng hồn trình
bày lập trường chính thức của VNCH để
đưa vào biên bản của Liên Hiệp Quốc.
Lịch sử Hoàng Sa- Trường Sa ở Liên Hiệp
Quốc, trước đây đã có tuyên bố Trần
Văn Hữu ở San Francisco 1951, nay lại ghi thêm tuyên
bố Vương Văn Bắc ở Caracas 1974;
LS Bắc là một trong rất ít người khởi
đầu một tập tục mới ở VNCH lúc đó:
thành công và nổi tiếng ở lãnh vực tư
trước khi tham chính – một tập tục đã có lâu
đời ở Hoa Kỳ, trong truyền thống từ
luật sư công ty (corporate lawyer) tới ngoại
trưởng như John Foster Dulles và Cyrus Vance. Anh rất lịch thiệp, và không cần quen
biết lâu cũng thấy Anh có một óc hài hước
rất tinh tế. Anh rất witty.
* Trong những lần xuất ngoại, nhiều khi chúng
tôi đi ăn chung. Lần nào Anh mời
thì Anh cũng lịch sự nói “Cho phép chiều nay tôi
mời anh đi…”. Những lúc tôi mời
lại Anh thì Anh tế nhị đề nghị một
tiệm hay một món ăn ít tốn kém, “để thay
đổi không khí”, “để persify”, Anh mỉm
cười thân mật.
* Anh rất thích chơi chữ. Một giai
thoại về cái wit của Anh là câu chuyện thú vị
với Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy tại một
buổi họp Hội Đàm Paris
mà Anh kể lại trong bài “Tưởng Nhớ Nguyển
Ngoc Huy” hồi 1997, in lại năm 2003. Tôi xin mạn
phép ghi lại như sau:
Ông Vương Văn Bắc (quần áo
màu nhạt, đứng giữa) cùng thân hữu tại Paris, 2008.
* Anh thích diễu, nhưng khuôn mặt Anh bình
thường lại nghiêm nghị, như đăm chiêu. Anh ít khi cười lớn tiếng, thường
thì cười mỉm, mà cũng không cười lâu.
Khi tìm được hay nghe xong một chuyện ý nhị
thì Anh mỉm cưới, thú vị. Nhưng
rồi Anh sớm trở lại khuôn mặt nghiêm nghị.
Người mới quen thấy vậy có
thể đâm lo ngại, thắc mắc, không hiểu có
chuyện gì. Quen lâu thì nhận thấy
Anh chừng mực, tự chế ngay cả trong thú vị.
Và nếu mình còn cười thêm thì Anh cũng như
rộng lượng thông cảm, nhiều khi còn
cười thêm theo.
Anh thuộc loại người vừa
nghiêng về hành động thực tế vừa thấm
đậm trong suy tư và cảm xúc.
Anh viết nhiều về những vấn đề Anh
quan tâm, nhưng hầu như không hề công khai nhắc
lại những đóng góp lớn trong công vụ của
Anh, hay những thành công trong đời Anh. Trong hai năm
2003-2004, Anh có cho in lại những bài vở của Anh,
trong hai cuốn gởi riêng cho bạn bè, không thấy phát
hành ra ngoài.
* Trong “Suy Tư”, Anh đã tập hợp lại những
bài nghị luận hay phát biểu về những vấn
đề chính trị tổng quát hay đặc biệt:
những vấn đề của quê hương, suy
nghĩ về tương lai đất nước, bình
luận về vài sinh hoạt chính trị của Hoa Kỷ,
chuyện chính trường quốc tế nói chung, và
viết về một vài người quen đã ra đi,
trong đó có Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy như đã trích
ở trên;
* Trong “Cảm Xúc”, Anh thâu gồm những bài thơ,
chuyện ngắn, bài tùy bút ghi lại dư âm dư ảnh
của những ngày đã qua của đời mình:
những ngày thơ ấu, những ngày học
trường Bưởi, những ngày sống tha
hương, những ngày lưu lạc quê người. Anh
cũng đã gom góp lại mười mấy bài thơ Anh sáng
tác, có vài bài bằng tiếng Anh, đặc biệt có
nhiều bài thơ làm từ thời 1947-1952 mà Anh còn lưu
giữ.
* Bàng bạc trong hai cuốn sách, và trong những lá thư Anh trao đổi với tôi hai ba
lần một năm trong nhiều năm qua, là những
ưu tư nặng trĩu cho số phận đồng
bào và tương lai đất nước. Với Anh, không
có lý tưởng nào đẹp hơn và chủ nghĩa nào
hay hơn là hạnh phúc của dân Việt Nam và thịnh vượng của
nước Việt Nam.
Trong một tiệm ăn ở Paris cách đây
cũng khá lâu rồi, nhìn lại những thành quả
đời Anh, tôi có nói với Anh: Anh rất có tài, Anh
rất có lòng. Anh mỉm cười,
tưởng như bắt được ý tôi, “nhưng
không có mệnh”. Tôi không phản đối, nhưng
cũng không hoàn toàn đồng ý với Anh: Vì bị lôi
cuốn trong vận mệnh ngập tràn của quốc gia
trong thời 1945-1975, nhiều thế hệ Việt Nam đã
bị chối bỏ định mệnh cho riêng mình. VNCH đã có không ít người có tài, và bình tâm mà
xét thì đã có rất nhiều người có lòng.
Đó là niềm hãnh diện lớn lao,
và cũng là niềm an ủi sâu xa cho một số đông đã
và đang lần lẫn theo nhau đi vào dĩ vãng.
Nhưng đối với riêng Anh thì Anh
đã có mệnh. Do tình cờ của lịch sử, và
qua tài và lòng của Anh, mệnh Anh đã dính liền với
tiền đồ của Hoàng Sa- Trường Sa.
Anh nằm xuống giữa lúc Biển
Đông lại dậy sóng, Trung Cộng tiếp tục ngang
nhiên gây hấn trong âm mưu chiếm đất, chiếm
biển.
Lúc này, một thế hệ mới ở
quê nhà đang phải đương đầu với
những thử thách lịch sử đó. Văng
vẳng đâu đây, họ phải lắng nghe, họ hãy
lắng nghe, lời nhắn của Luật Sư
Vương Văn Bắc:
“Nghĩa vụ cao cả và cấp thiết nhất
của một chính phủ là bảo vệ chủ quyền,
độc lập và sự vẹn toàn lãnh thổ của
quốc gia; chính phủ VNCH cương quyết làm tròn
nghĩa vụ ấy, bất luận những khó khăn,
trở ngại có thể gặp phải và bất chấp
những sự phản đối không căn cứ
dầu phát xuất từ đâu…”
Anh đã làm xong phần và vụ của mình.
Nguyện cầu hương hồn Anh thanh
thản tiêu dao ở cõi Vĩnh Hằng.
* nguyên Tổng Cục Trưởng
Dầu Hỏa và Khoáng Sản VNCH
(Nguồn: bandoclambao.worldpss.com)
--- Bài cũ hơn ---
Theo Học Luật Ở Vương Quốc Anh 2022
37 Cầu Thủ Được Lựa Chọn Cho Vòng Loại U23 Châu Á Năm 2022
Nhận Định Các Đối Thủ Của U23 Việt Nam Tại Vck U23 Châu Á 2022
Kịch Bản Nào Để U23 Việt Nam Vào Tứ Kết Giải Châu Á?
U23 Việt Nam Đi Tiếp Tại U23 Châu Á 2022 Trong Trường Hợp Nào?