--- Bài mới hơn ---
Các Kiểu Pháp Luật Trong Khoa Học Pháp Lý
Nụ Hôn Kiểu Pháp Là Gì?
Chương 3 Những Vấn Đề Cơ Bản Về Pháp Luật2
Khung Hình Phạt Là Gì ? Quy Định Của Pháp Luật Về Khung Hình Phạt
Khung Pháp Lý Cho Hoạt Động Logistics Tại Việt Nam
1. Hành vi của con người là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học như tâm lí học, xã hội học, luật học… Là hình thức biểu hiện của ý thức con người ra ngoài thế giới khách quan, hành vi là xử sự của con người trong hoàn cảnh, điều kiện cụ thể, “được biểu hiện ra ngoài bằng những lời nói, cử chỉ nhất định hoặc bằng sự thiếu vắng những lời nói, cử chỉ nhất định”. Theo cách hiểu này, hành vi có hai hình thức biểu hiện là hành động hoặc không hành động và khi nói đến hành vi của con người là bao gồm cả hành vi có ý thức và hành vi vô thức.
Trong đời sống xã hội, các cá nhân có hoàn cảnh, điều kiện sống khác nhau với những nhu cầu, lợi ích khác nhau. Để thoả mãn nhu cầu, lợi ích của mình, mỗi chủ thể có những phương pháp, cách thức riêng. Trong cùng điều kiện, hoàn cảnh, các chủ thể khác nhau sẽ có thể có những cách xử sự khác nhau. Thực tế cho thấy có những hành vi vừa đáp ứng nhu cầu, mục đích của chủ thể đồng thời cũng phù hợp với lợi ích của người khác cũng như toàn thể cộng đồng. Ngược lại, có những hành vi chỉ thoả mãn nhu cầu của chủ thể nhất định nhưng lại xâm phạm tới lợi ích của người khác, xâm phạm tới lợi ích chung của cộng đồng, đi ngược với mong muốn chung của xã hội. Điều đó làm cho đời sống xã hội mất đi sự ổn định, trật tự, thậm chí trở nên hỗn loạn.
Giữa hành vi pháp luật và hành vi đạo đức, có những điểm giống nhau cơ bản sau đây:
Một là hành vi pháp luật và hành vi đạo đức là những hành vi phổ biến nhất trong đời sống xã hội. Có thể nói, trong các hành vi xã hội của con người thì hành vi đạo đức và hành vi pháp luật chiếm tỉ trọng lớn nhất. Từ những xử sự trong gia đình, trường học cho đến các xử sự nơi làm việc hay khi tham gia vào bất cứ quan hệ xã hội nào, phần nhiều trong đó đều là những hành vi pháp luật, hành vi đạo đức.
Hai là hành vi pháp luật và hành vi đạo đức đều mang tính chất lịch sử xã hội. Qua mỗi thời kì lịch sử, con người có những hành vi khác nhau, cách thức thực hiện khác nhau, công cụ, phương tiện hỗ trợ khác nhau… Mặt khác, qua các thời kì lịch sử khác nhau, nội dung pháp luật và đạo đức cũng có sự thay đổi, bởi vậy, có hành vi thời kì này được coi là hành vi pháp luật nhưng thời kì khác lại không phải là hành vi pháp luật, có hành vi thời kì này là hành vi hợp pháp, thời kì khác lại bị coi là hành vi trái pháp luật. Điều này cũng hoàn toàn tương tự đối với hành vi đạo đức. Chẳng hạn, ở Việt Nam, trong cơ chế kinh tế kế hoạch hoá, tập trung, trong số hành vi pháp luật không có hành vi mua bán các loại chứng khoán; tuy nhiên trong điều kiện hiện nay, hành vi này ngày càng trở nên phổ biến. Trước đây, để thực hiện hành vi kí kết hợp đồng, các chủ thể phải trực tiếp gặp gỡ nhau bàn bạc, thoả thuận, đi đến thống nhất và kí kết, ngày nay nhờ sự hỗ trợ của các phương tiện kĩ thuật, hành vi “thương mại điện tử” dần trở thành quen thuộc với mọi người.
Ba là hành vi pháp luật và hành vi đạo đức đều chịu sự chi phối của những nhân tố sau đây:
– Điều kiện kinh tế-xã hội: Đây là yếu tố tác động khá mạnh mẽ đến hành vi con người. Chúng ta biết rằng nhu cầu chính là nguồn gốc, động lực của hành vi con người mà nhu cầu của con người lại phụ thuộc vào điều kiện kinh tế-xã hội. Bởi vậy, suy đến cùng, hành vi con người phụ thuộc vào điều kiện kinh tế-xã hội, nói cách khác, chính điều kiện kinh tế-xã hội quy định nguồn gốc, động lực, xu hướng của hành vi pháp luật và hành vi đạo đức. Kinh tế càng thấp kém, nhu cầu càng đơn giản, kinh tế càng phát triển, nhu cầu con người ngày mở rộng và nâng cao. Đồng thời, điều kiện kinh tế-xã hội còn là cơ sở hiện thực hoá hành vi con người bởi lẽ điều kiện kinh tế chính là nhân tố đảm bảo cho pháp luật, đạo đức đi vào cuộc sống, trở thành hành vi thực tế của các cá nhân, tổ chức trong xã hội.
– Điều kiện, hoàn cảnh sống: Yếu tố này cũng có ảnh hưởng khá lớn đến hành vi pháp luật và hành vi đạo đức của mỗi cá nhân. Sống trong điều kiện vật chất thiếu thốn dễ làm nảy sinh những hành vi tiêu cực, “đói ăn vụng, túng làm liều” là vì thế. Ngược lại, kiếm tiền một cách quá dễ dàng, điều kiện vật chất đầy đủ đến mức quá dư thừa cũng dễ làm con người ta ý thức không đúng đắn về giá trị của tiền bạc, của lao động, dẫn tới chi tiêu hoang phí, sống buông thả, “nhàn cư vi bất thiện” là như thế. Gia đình, khu dân cư, nhà trường, nơi công tác… cũng là những yếu tố rất quan trọng ảnh hưởng đến hành vi con người. Một gia đình có gia pháp, có kỉ cương, nền nếp là cơ sở đảm bảo rất quan trọng để hành vi của các thành viên trong gia đình hợp pháp, phù hợp đạo đức. Ngược lại, nếu trong gia đình cha mẹ không có sự nêu gương, bản thân cha mẹ cũng có những hành vi trái pháp luật, trái đạo đức xã hội thì con cái cũng dễ có khả năng thực hiện những hành vi đó.
– Yếu tố ý thức cá nhân: Ý thức cá nhân, bao gồm trình độ văn hoá, hiểu biết pháp luật, đạo đức, quan điểm, quan niệm sống… có sự chi phối rất mạnh mẽ tới hành vi của con người. Điều kiện kinh tế-xã hội, hoàn cảnh sống… tác động đến hành vi mỗi người cũng đều thông qua lăng kính ý thức cá nhân của họ. Do vậy, có thể khẳng định ý thức cá nhân là yếu tố tác động trực tiếp và quan trọng nhất tới hành vi con người.
Một là nhân tố điều chỉnh hành vi: Hành vi pháp luật chịu sự tác động trực tiếp của quy phạm pháp luật, nói một cách cụ thể, chỉ khi có quy phạm pháp luật, các thành viên trong xã hội mới biết một cách chính xác cách xử sự mà nhà nước yêu cầu, đòi hỏi đối với mình. Chỉ một số ít trường hợp khi chưa có các quy phạm pháp luật, những quan niệm, quan điểm, tư tưởng pháp lí, những nguyên tắc, định hướng của pháp luật… mới phát huy vai trò thay thế cho các quy phạm pháp luật để điều chỉnh hành vi con người. Tất nhiên, điều này cần phải hết sức hạn chế, bởi minh bạch là một trong những thuộc tính vốn có của pháp luật.
Trong khi đó, có thể nói hành vi đạo đức trực tiếp chịu sự chi phối của các quan điểm, quan niệm, tư tưởng đạo đức. Nắm được các quan niệm, tư tưởng đạo đức là xác định được những hành vi nên làm, phải làm trong điều kiện hoàn cảnh cụ thể, xác định. Do vậy, để điều chỉnh hành vi con người bằng đạo đức, vấn đề cơ bản và quan trọng là truyền bá, giáo dục các quan niệm, tư tưởng đạo đức. Những quan niệm, quan điểm, tư tưởng đạo đức xã hội được đề ra cho mọi đối tượng, tuy nhiên, các cá nhân do tuổi tác, trình độ nhận thức, nghề nghiệp, chức vụ… khác nhau nên nhận thức của họ về các quan điểm, tư tưởng đạo đức xã hội có sự khác nhau. Chính vì vậy, đạo đức xã hội thường không cứng nhắc mà khá uyển chuyển, linh hoạt, cho phù hợp với các chủ thể, trong các điều kiện, hoàn cảnh. Sự đánh giá về tính phù hợp hay không phù hợp đạo đức từ phía xã hội về hành vi cụ thể nào đó vì thế cũng không cố định, cứng nhắc. Chẳng hạn, không phải trong mọi trường hợp nói dối đều là không trung thực. Trong trường hợp nhất định, bác sĩ hay con cái hoàn toàn có thể không cần phải nói đúng sự thật về bệnh tật của cha mẹ mình.
Hai là chủ thể của hành vi
Chủ thể của hành vi pháp luật là người có năng lực hành vi pháp luật. Tùy từng hành vi pháp luật cụ thể, pháp luật có các quy định tiêu chuẩn năng lực cụ thể để thực hiện hành vi đó. Thông thường, một người được coi là có năng lực hành vi pháp luật khi có sự hoàn thiện về thể chất, đủ sức khỏe để thực hiện hành vi, có trạng thái thần kinh bình thường, nhận thức và điều khiển được hành vi của mình, đạt đến độ tuổi nhất định do pháp luật quy định.
Chủ thể của hành vi đạo đức cũng phải là người có năng lực hành vi đạo đức. Tuy nhiên, năng lực hành vi đạo đức xuất hiện rất sớm, nó xuất hiện ngay từ khi con người thực hiện những hành vi có ý thức đầu tiên. Khi em bé bắt đầu biết nhận thức về những phạm trù đạo đức sơ đẳng nhất là lúc hành vi của nó được xem xét, đánh giá dưới góc độ đạo đức, theo phương châm “tre non dễ uốn” (trúc nộn dị kiểu). Như vậy, đạo đức điều chỉnh hành vi không kể tuổi tác của con người.
Ba là giới hạn của hành vi pháp luật và hành vi đạo đức
Có thể nói hành vi của con người phần lớn chịu sự điều chỉnh của pháp luật và đạo đức. Đối với mỗi người, cho dù ở đâu, bao giờ, khi nào cũng luôn phải chú ý đối nhân, xử thế sao cho phù hợp với các chuẩn mực đạo đức cũng như pháp luật. Xã hội “không thể một ngày thiếu pháp luật”,(4) nói cách khác, pháp luật chi phối hành vi hàng ngày của con người. Đạo đức là yếu tố tinh thần không thể tách rời hành vi của con người, không thể thiếu được trong đời sống của mỗi con người. Chính vì vậy, việc xác định ranh giới giữa hành vi pháp luật và hành vi đạo đức là hết sức khó khăn.
Trước hết, cần nhấn mạnh rằng việc xác định hành vi cụ thể là hành vi pháp luật hay hành vi đạo đức chỉ có ý nghĩa tương đối. Cùng hành vi, xét theo hệ thống pháp luật này là hành vi pháp luật nhưng xét theo hệ thống pháp luật khác có thể không phải là hành vi pháp luật. Điều này là do các hệ thống pháp luật được xây dựng trên nền tảng kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hoá, đạo đức, truyền thống, tín ngưỡng… khác nhau, vì vậy, nội dung cũng như cách thức tác động của chúng đến các quan hệ xã hội là khác nhau. Chẳng hạn, theo pháp luật phong kiến Việt Nam, hành vi sinh con thứ ba trở lên không phải là hành vi pháp luật, tuy nhiên, theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, hành vi này bị coi là vi phạm pháp luật.(5) Đối với hành vi đạo đức, điều này cũng hoàn toàn tương tự. Xét theo hệ thống pháp luật hay nền đạo đức nhất định, hành vi cụ thể có thể chỉ là hành vi pháp luật hoặc chỉ là hành vi đạo đức; có thể vừa là hành vi pháp luật vừa là hành vi đạo đức và cũng có thể không phải hành vi pháp luật cũng không phải hành vi đạo đức.
Có những hành vi được pháp luật điều chỉnh nhưng đạo đức không điều chỉnh chúng, nói cách khác, chúng chỉ là hành vi pháp luật mà không phải là hành vi đạo đức. Những hành vi thực hiện quy trình kĩ thuật do pháp luật quy định, những hành vi thực hiện trình tự, thủ tục pháp lí… chỉ là hành vi pháp luật. Ngược lại, có những hành vi được đạo đức điều chỉnh nhưng pháp luật không điều chỉnh, những hành vi thể hiện tình làng nghĩa xóm “tối lửa tắt đèn có nhau”, thăm hỏi nhau lúc ốm đau, giúp đỡ nhau bằng công sức, tiền bạc; những hành vi thể hiện tinh thần, tương thân, tương ái giữa con người với nhau trong cộng đồng… chỉ có thể là hành vi đạo đức.
Nhìn chung, những hành vi được pháp luật điều chỉnh thì thường cũng được đạo đức điều chỉnh, do vậy mà sự chồng lấn giữa hành vi pháp luật và hành vi đạo đức là rất lớn. Nội dung những quy định cụ thể của pháp luật và đạo đức có thể thống nhất hoặc mâu thuẫn nhau, nói cách khác, sự điều chỉnh của pháp luật và đạo đức có thể là thuận chiều cũng có thể là ngược chiều. Chính vì thế, hành vi nhất định có thể vừa hợp pháp vừa hợp đạo đức; hợp pháp nhưng không hợp đạo đức; hợp đạo đức nhưng không hợp pháp; vừa không hợp pháp vừa không hợp đạo đức. Chẳng hạn, theo các chuẩn mực pháp luật và đạo đức hiện hành ở Việt Nam, những hành vi của cha mẹ trong việc nuôi dạy, chăm sóc con cái vừa hợp pháp, vừa hợp đạo đức. Theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985, việc cha mẹ không tố giác hành vi phạm tội do con mình thực hiện bị coi là vi phạm pháp luật(6) nhưng xét về mặt đạo đức, hành vi này có thể được coi là phù hợp đạo đức xã hội. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng trong xã hội, bên cạnh các quan niệm, quan điểm, quy tắc đạo đức chung của toàn xã hội còn có đạo đức của các giai cấp, tầng lớp; đạo đức của các tôn giáo; đạo đức của các thiết chế xã hội… trong đó các quan niệm, quan điểm, quy tắc đạo đức này chưa hẳn đã thống nhất, đồng bộ với nhau. Bởi vậy, hành vi cụ thể có thể là hợp chuẩn đối với hệ thống đạo đức này nhưng lại có thể lệch chuẩn đối với hệ thống đạo đức khác. Tất nhiên, đạo đức chung của toàn xã hội, đạo đức của giai cấp cầm quyền vẫn có sức chi phối mạnh mẽ nhất đối với hành vi của các thành viên trong xã hội.
Trong giới hạn nào đó, hành vi con người có thể vừa là hành vi pháp luật, vừa là hành vi đạo đức nhưng vượt ra ngoài giới hạn đó thì chỉ là hành vi đạo đức. Chẳng hạn, trường hợp gặp người bị nạn, pháp luật chỉ buộc chủ thể phải thực hiện hành vi cứu giúp, tức là làm cho người đó thoát khỏi sự nguy hiểm đến tính mạng, trong khi đó, đạo đức đòi hỏi rộng hơn nhiều, nó không chỉ yêu cầu chủ thể phải thực hiện hành vi giúp người bị nạn thoát khỏi sự nguy hiểm đến tính mạng mà còn đòi hỏi chủ thể phải có những những hành vi giúp đỡ về vật chất cũng như về tinh thần khác. Trong trường hợp này, hành vi đưa người đang chới với giữa dòng nước chảy xiết vào bờ, đưa người bị tai nạn giao thông vào bệnh viện cấp cứu… vừa là hành vi pháp luật, vừa là hành vi đạo đức nhưng những hành vi như giúp đỡ tiền bạc, động viên, an ủi, đưa về nhà chăm sóc… không còn là hành vi pháp luật, nó chỉ còn được đánh giá về mặt đạo đức. Ngược lại, hành vi nhất định nào đó có thể được đánh giá về mặt đạo đức không phụ thuộc vào tính chất và mức độ nhưng hành vi này chỉ bị đánh giá về mặt pháp luật khi tác động, ảnh hưởng ở mức độ nhất định đối với đời sống xã hội. Chẳng hạn, hành vi nói dối, hành vi “sống thử”, “sống gấp”… luôn bị đánh giá về mặt đạo đức. Tuy nhiên, những hành vi này chỉ được đánh giá về mặt pháp luật trong những trường hợp nhất định.(7) Hành vi gây thiệt hại cho xã hội chỉ trở thành đối tượng của pháp luật khi thiệt hại mà nó gây ra ở mức độ nào đó. Người ta không cần xử lí bằng pháp luật đối với hành vi trộm cắp những tài sản nhỏ nhặt.
Pháp luật chỉ điều chỉnh các hành vi xã hội đã tồn tại một cách khách quan, phổ biến, điển hình, ổn định ở mức độ nhất định, còn đạo đức do tính chất mềm dẻo và linh động, nó điều chỉnh các hành vi xã hội ngay từ khi nó mới manh nha hình thành. Chẳng hạn, những hành vi mang thai hộ; cho, nhận trứng, tinh trùng, các bộ phận trên cơ thể người; hiến xác hoặc các bộ phận trên cơ thể sau khi chết… đầu tiên xảy ra trong đời sống được đánh giá về mặt đạo đức… Nhưng những hành vi này chỉ trở thành hành vi pháp luật khi đã trở nên phổ biến và ổn định tương đối.
Tóm lại, cả pháp luật và đạo đức đều không thể điều chỉnh tất cả các hành vi con người. Pháp luật chỉ có thể điều chỉnh những hành vi thể hiện lí trí, ý chí của chủ thể, trong khi đó, đạo đức điều chỉnh cả những hành vi chịu sự chi phối bởi tình cảm của con người.
Bốn là cơ chế tâm lí của hành vi
Như đã đề cập, hành vi của con người là hành vi có ý thức, bởi vậy, đánh giá hành vi pháp luật và hành vi đạo đức của con người không chỉ xem xét biểu hiện bên ngoài của nó mà còn cần phân tích cơ chế tâm lí của chúng. Cơ chế tâm lí của hành vi pháp luật và hành vi đạo đức là quá trình rất phức tạp, nó bao gồm việc hình thành động cơ hành vi, lựa chọn và quyết định phương án hành vi, hiện thực hoá hành vi, tự đánh giá về hành vi đã thực hiện.
Khi ở vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, trên cơ sở sự hiểu biết của chủ thể cũng như thái độ, tình cảm của bản thân đối với pháp luật cũng như đạo đức xã hội, từ vốn sống, nhân cách, từ sự hiểu người, hiểu mình, sự ý thức về vị trí và vai trò của bản thân mình, xuất phát từ tình cảm của cá nhân về đối tượng của hành vi, trên cơ sở sự dự liệu về những hậu quả có thể phải gánh chịu cũng như thái độ của bản thân đối với những hậu quả đó… (gọi chung là ý thức cá nhân bao gồm tri thức, tình cảm, ý chí, động cơ, mục đích…), chủ thể tự lựa chọn cho mình phương án hành vi cụ thể. Sau khi đã quyết định lựa chọn phương án xử sự cụ thể, chủ thể hiện thực hoá sự lựa chọn đó bằng cách tiến hành hoặc không tiến hành những thao tác, cử chỉ, lời nói nhất định. Sau khi hành vi được thực hiện, các chủ thể thường có sự tự đánh giá về nó. Khi đó, về mặt tâm lí, chủ thể có thể thoả mãn, bằng lòng, hưng phấn hoặc ngược lại là sự ăn năn, ân hận, sợ hãi… Trong toàn bộ cơ chế này, các yếu tố lí trí, ý chí, tình cảm, thói quen… giữ vai trò khác nhau đối với mỗi loại hành vi.
Đối với hành vi đạo đức, yếu tố tình cảm, yếu tố thói quen đóng vai trò rất quan trọng. Có thể nói, tình cảm là yếu tố quan trọng nhất đối với hành vi đạo đức. Nếu không có tình cảm đạo đức thì các khái niệm đạo đức, các phạm trù luân lí, những tri thức thu được về thiện ác, công bằng, lương tâm, danh dự… chỉ được nhận thức ở mức độ ghi nhận thông tin mà không có cơ sở để chuyển hoá thành động cơ của hành vi. Bằng tình cảm đạo đức, chủ thể không cần phải do dự khi lựa chọn hành vi cần thực hiện đồng thời lại tích cực, say mê thực hiện hành vi với quyết tâm cao độ… Yếu tố tình cảm chi phối, ảnh hưởng đến tất cả các giai đoạn trong diễn biến tâm lí của hành vi, từ việc hình thành động cơ cho đến sự tự đánh giá về hành vi của mình. Nhiều khi, tình cảm còn làm con người “mất” lí trí, thực hiện hành vi không có sự kiểm soát của lí trí. Xuất phát từ vai trò quan trọng của yếu tố tình cảm đối với hành vi đạo đức, cho nên khi đánh giá về hành vi đạo đức, người ta không chỉ đánh giá sự phù hợp hay không phù hợp về hình thức của hành vi đối với các chuẩn mực đạo đức xã hội. Bởi vậy, có những hành vi mặc dù về hình thức là phù hợp với các chuẩn mực đạo đức xã hội nhưng vẫn bị chê cười, bị coi là giả tạo, là “chơi ngông”… Trong khi đó, đối với hành vi pháp luật, yếu tố lí trí, ý chí lại thể hiện vai trò quan trọng hơn, bởi vậy, trong việc đánh giá hành vi pháp luật, chỉ cần đánh giá về lí trí và sự tự do ý chí mà thôi.
Có thể nói, đạo đức là yếu tố điều chỉnh gần gũi nhất đối với hành vi con người. Chính vì thế, những quan niệm, quan điểm, tư tưởng đạo đức được truyền bá hết sức sâu rộng trong xã hội, bởi vậy, nó đã ăn sâu, bám rễ một cách chắc chắn trong mỗi người, nó chi phối hoạt động hàng ngày, hàng giờ của con người. Nhiều hành vi đạo đức vì thế đã trở thành tập quán, truyền thống của cộng đồng, thậm chí có những hành vi đạo đức đã trở thành vô thức, chúng xảy ra tự động ngay cả khi không có sự điều khiển của ý thức.
Năm là biện pháp tác động đến hành vi
Để đạt được mục đích điều chỉnh, pháp luật và đạo đức có những phương pháp, cách thức tác động riêng, mang tính đặc thù. Hành vi pháp luật chịu sự tác động bởi các biện pháp nhà nước. Tuỳ điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, nhà nước có thể sử dụng một hoặc kết hợp các biện pháp khác nhau, từ tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục, đến khen thưởng, xử phạt. Thực hiện sự tác động này, nhà nước có bộ máy chuyên môn với đầy đủ sức mạnh được tổ chức từ trung ương xuống địa phương. Để đảm bảo tăng cường hành vi hợp pháp, giảm thiểu hành vi trái pháp luật, khi cần thiết, nhà nước có thể sử dụng các biện pháp cưỡng chế đã được quy định, gây ra những bất lợi về vật chất, tinh thần, thậm chí cả tính mạng đối với người vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, tất cả những biện pháp tác động của nhà nước đều chỉ là sự tác động từ bên ngoài đối với chủ thể, nó chỉ được thực hiện trong hiện tại và chỉ có hiệu lực trong thời gian nhất định.
Trong khi đó, tác động đến hành vi đạo đức chủ yếu và trước hết là biện pháp giáo dục, thuyết phục, nói cách khác, thông qua sự tác động vào ý thức chủ thể mà tác động đến hành vi đạo đức của họ. Thông qua gia đình, nhà trường, các thiết chế xã hội, thông qua giao tiếp hàng ngày, thông qua con đường tự ý thức, tự đánh giá… những chuẩn mực đạo đức xã hội tác động đến ý thức chủ thể, được chủ thể tiếp thu, hấp thụ, được nội tâm hoá trở thành tri thức, tình cảm, nghĩa vụ, trách nhiệm đạo đức của họ. Trên cơ sở đó, mỗi người tự xây dựng phương châm ứng xử cho mình trong những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, tự nguyện, tự giác thực hiện hành vi theo yêu cầu, đòi hỏi của các chuẩn mực đạo đức xã hội. Bên cạnh đó, dư luận xã hội là biện pháp tác động hết sức mạnh mẽ đến hành vi đạo đức của các chủ thể. Dư luận xã hội tác động đến chủ thể hàng ngày, hàng giờ, ở mọi nơi, mọi lúc, diễn ra lâu dài, dai dẳng, thậm chí trở thành “bia miệng ngàn năm”. Sự xấu hổ và lòng tự trọng khiến không ai có thể bỏ qua dư luận xã hội, đặc biệt đối với những người trọng danh dự thì sự tác động của dư luận càng trở nên có hiệu quả.
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng tác động đến hành vi con người, cưỡng chế nhà nước cũng như sự tác động của dư luận xã hội đều có những hạn chế của nó. Sự tác động theo kiểu “nói xuông” của dư luận xã hội sẽ trở nên kém hiệu quả, thậm chí là vô tác dụng đối với những kẻ bất lương, không biết xấu hổ, không có lòng tự trọng. Tương tự, biện pháp cưỡng chế nhà nước không phải khi nào cũng đem lại hiệu quả như mong muốn. Ở khá nhiều người, trong tư duy của họ không có khái niệm sợ hãi, để đạt được mục đích, họ chấp nhận đánh đổi cả danh dự, sự tự do, thậm chí kể cả tính mạng của bản thân. Bởi vậy, trong công tác đấu tranh phòng, chống vi phạm pháp luật, việc tăng cường các biện pháp cưỡng chế, nâng cao mức chế tài không phải khi nào cũng có ý nghĩa. Ở góc độ khác, nói như Khổng Tử, sử dụng các biện pháp cưỡng chế nhà nước để tác động “tuy có thể giảm được phạm pháp, nhưng người phạm pháp không biết xấu hổ, sỉ nhục, vì vậy không thể xoá bỏ được gốc rễ của sự vi phạm. Điều này cho thấy trong quản lí xã hội, cần có sự kết hợp chặt chẽ các biện pháp tác động của pháp luật và đạo đức, nhằm điều chỉnh có hiệu quả nhất đối với hành vi con người.
Trước hết, trong công tác xây dựng pháp luật, nhận thức sâu sắc giới hạn của hành vi pháp luật giúp các chủ thể có thẩm quyền xác định đúng đối tượng tác động của pháp luật để có thể điều chỉnh có hiệu quả đối với chúng. Như đã phân tích, pháp luật chỉ có thể điều chỉnh được các hành vi bị chi phối bởi ý chí, lí trí của chủ thể, nó không thể điều chỉnh những hành vi bị chi phối bởi tình cảm con người. Trong khi đó, pháp luật Việt Nam hiện hành quy định cha mẹ có nghĩa vụ và quyền yêu thương con; con cháu có bổn phận kính trọng ông bà, cha mẹ; vợ chồng yêu thương, quý trọng nhau… Chúng tôi cho rằng vấn đề này phải được suy nghĩ một cách cẩn trọng hơn. Chúng ta đều biết kính trọng, yêu thương là những phạm trù tình cảm, nằm sâu trong ý thức mỗi người, chỉ đạo đức mới có thể tác động đến. Pháp luật không thể cho phép hay bắt buộc người này phải yêu thương, quý trọng người khác. Để thể hiện sự yêu thương, quý trọng… các chủ thể phải thực hiện từ những hành vi “nhỏ nhặt”, đời thường đến những hành vi có ý nghĩa cực kì to lớn, thậm chí hi sinh cả tính mạng bản thân vì người mà mình yêu thương, kính trọng. Tất cả những hành vi đó đòi hỏi chủ thể phải thực hiện chúng bằng sự tự nguyện, tự giác, tích cực mà không phải dựa trên bất cứ sự cưỡng bức nào từ bên ngoài. Mặt khác, trong lĩnh vực tình cảm, hành vi chưa chắc đã phản ánh đúng mục đích, ý nghĩa đích thực của nó. Chẳng hạn, người Việt Nam có triết lí “bằng mặt không bằng lòng”; “yêu cho roi cho vọt”… Vì thế, chỉ thông qua hành vi, không thể đánh giá được sự yêu thương hay quý trọng mà vấn đề này chỉ “người trong cuộc” mới cảm nhận được. Sự quy định như trên là vượt quá giới hạn điều chỉnh của pháp luật, là sự “lấn sân” của pháp luật đối với đạo đức. Thiết nghĩ, thay vì quy định như hiện nay, pháp luật nên quy định rõ hành vi nào là không yêu thương, không tôn trọng, không biết ơn… nếu xét thấy cần phải tác động để giảm thiểu nó. Lịch sử pháp luật Việt Nam dưới thời phong kiến cũng đã để lại những kinh nghiệm lập pháp cần tham khảo.
Thứ hai, trong điều chỉnh hành vi con người, cần có sự kết hợp chặt chẽ, hài hoà giữa pháp luật với đạo đức. Muốn vậy, hoạt động xây dựng pháp luật phải được tiến hành trên nền tảng đạo đức, phù hợp với các chuẩn mực đạo đức, ghi nhận, thể chế hoá các chuẩn mực đạo đức. Tuy nhiên, pháp luật có đặc trưng riêng, khác hẳn đạo đức xã hội ở tính xác định về hình thức, do vậy, việc ghi nhận, thể chế hoá các chuẩn mực đạo đức xã hội thành pháp luật phải đảm bảo sự cụ thể, rõ ràng, đảm bảo tính khả thi của pháp luật.
Tuy nhiên, trên thực tế, trong nhiều trường hợp, sự pháp luật hoá các quan niệm, quan điểm đạo đức còn khá chung chung. Chẳng hạn, Điều 128 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: “Giao dịch dân sự có mục đích và nội dung trái đạo đức xã hội thì vô hiệu”. Điều 15 Luật thương mại năm 1998; Điều 6 Luật doanh nghiệp năm 1999 đều quy định cấm lưu thông hàng hoá, cung ứng dịch vụ, kinh doanh ngành nghề gây phương hại đến truyền thống lịch sử, văn hoá, đạo đức, thuần phong mĩ tục Việt Nam. Điều 7 Luật tổ chức toà án năm 2002 quy định: “Toà án xét xử công khai, trừ trường hợp cần xét xử kín để bảo vệ truyền thống tốt đẹp của dân tộc”… Vấn đề đặt ra, đạo đức xã hội, truyền thống, thuần phong, mĩ tục của dân tộc cần được hiểu như thế nào? Điều 128 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: “Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung giữa người với người trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng”. Tuy nhiên, đạo đức xã hội thường rất phức tạp, bao gồm đạo đức của các giai cấp, tầng lớp, đạo đức của các tôn giáo, đạo đức của các thiết chế nghề nghiệp… Trong điều kiện Việt Nam hiện nay, về cơ bản, các chuẩn mực đạo đức này mặc dù không đối lập nhau nhưng không hoàn toàn đồng nhất với nhau. Mặt khác, trong đời sống xã hội đang diễn ra sự thay đổi trong các quan niệm, quan điểm đạo đức, nhiều chuẩn mực đạo đức cũ đang được nhận thức lại… Ở khía cạnh khác, đạo đức xã hội thường tồn tại ở dạng không thành văn nên nó không có tính xác định chặt chẽ như pháp luật. Các chuẩn mực đạo đức xã hội thường chỉ mang tính định hướng, sự nhận thức của mỗi người về các chuẩn mực đạo đức thường có sự khác nhau, vì vậy, xử sự của họ khó có thể thống nhất. Sự đánh giá về tính phù hợp hay không phù hợp với các chuẩn mực đạo đức xã hội đối với hành vi cụ thể vì thế cũng không thể cố định. Chính vì vậy, theo chúng tôi, cách quy định như trên đã làm cho những quy định đó trở nên khó hiểu, gây khó khăn cho các chủ thể trong việc thực hiện chúng.
Thứ ba, để tăng cường hành vi vừa hợp pháp vừa hợp đạo đức đồng thời giảm thiểu hành vi trái pháp luật cũng như đạo đức xã hội, trong công tác tổ chức thực hiện pháp luật, cần hết sức coi trọng việc giáo dục pháp luật, đạo đức. Giáo dục pháp luật, đạo đức chính là cầu nối để đưa pháp luật và đạo đức vào cuộc sống, nó có ý nghĩa to lớn trong việc nâng cao tri thức pháp luật, đạo đức, xây dựng thái độ, tình cảm đúng mực đối với pháp luật và đạo đức, qua đó từng bước hình thành thói quen xử sự theo pháp luật đồng thời coi trọng các giá trị đạo đức xã hội. Giáo dục pháp luật và đạo đức còn góp phần quan trọng trong việc hình thành và hoàn thiện nhân cách, hoàn thiện năng lực cá nhân, định hướng hành vi con người đến chân, thiện, mĩ, nhân đạo, giảm trừ cái ác, cái bất công… Hoạt động này có ý nghĩa rất lớn trong việc xây dựng quan điểm sống có quy tắc, có chuẩn mực, tôn trọng người khác, tôn trọng cộng đồng. Trong hoạt động này, cần phát huy thật tốt vai trò của gia đình, nhà trường, cơ quan, tổ chức, các vị già làng, trưởng bản, các vị bô lão… Gia đình là nơi sinh thành và là môi trường sinh hoạt hàng ngày của mỗi người. Gia đình là tế bào, là hạt nhân của xã hội. Muốn cho xã hội tốt thì gia đình càng phải tốt. Vì vậy cần nêu cao trách nhiệm của gia đình trong việc giáo dục đạo đức, hình thành nhân cách con người, làm cho gia đình thực sự là tổ ấm của mỗi người và là tế bào lành mạnh của xã hội. Nhà trường là thiết chế rất quan trọng trong công tác giáo dục đạo đức, pháp luật bởi nó thực hiện đồng thời các chức năng dạy chữ, dạy nghề và dạy người. Sau gia đình và đồng thời với gia đình, nhà trường là nơi giúp cho con người hình thành nhân cách, lối sống. Vì vậy trong nhà trường phải coi trọng giáo dục đạo lí làm người, ý thức trách nhiệm, nghĩa vụ công dân, coi trọng công tác giáo dục truyền thống lịch sử dân tộc. Các quan điểm, chuẩn mực đạo đức, pháp luật một khi được lồng ghép trong quá trình truyền bá giáo lí, đức tin sẽ rất dễ dàng thâm nhập vào quần chúng. Vì vậy, cần hết sức coi trọng vai trò của các tổ chức tôn giáo, các vị chức sắc tôn giáo trong việc giáo dục pháp luật, đạo đức. Công tác hoà giải ở cơ sở có ý nghĩa hết sức to lớn trong đời sống cộng đồng, đặc biệt trong điều kiện xã hội có truyền thống coi trọng đạo lí như Việt Nam. Hoà giải làm cho vụ việc được giải quyết triệt để, tránh được tình trạng “bằng mặt không bằng lòng”, qua đó giữ được tình làng nghĩa xóm, phát huy tinh thần đoàn kết, tương thân, tương ái trong cộng đồng, góp phần phòng ngừa và hạn chế các vi phạm pháp luật, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, giảm bớt các vụ việc phải giải quyết tại các cơ quan nhà nước, giảm bớt sự tốn kém của người dân về thời gian, tiền bạc. Chính vì vậy, cần nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác hoà giải ở cơ sở, đảm bảo nguyên tắc thấu tình, đạt lí, giải quyết các mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân trên cơ sở vận dụng những chuẩn mực, nguyên tắc đạo đức, phù hợp với các quy định trong pháp luật.
Thứ tư, trong công tác bảo vệ pháp luật, nhà chức trách cần phải kiên trì quan điểm giáo dục thuyết phục trước, cưỡng chế sau, chỉ áp dụng cưỡng chế nhà nước khi không còn biện pháp nào khác. Việc áp dụng biện pháp cưỡng chế nhà nước phải luôn quán triệt phương châm “đánh kẻ chạy đi, không đánh người chạy lại”. Nhà nước và xã hội phải luôn tạo mọi điều kiện để những người “lầm đường lạc lối” quay trở lại con đường lương thiện, “làm lại cuộc đời”, tuyệt đối tránh tình trạng đẩy người vi phạm vào đường cùng, “không còn gì để mất”. Việc áp dụng biện pháp cưỡng chế cốt là để người vi phạm suy nghĩ sâu sắc về hành vi của mình, “hiểu được thế nào là nhục nhã khi phạm tội” và “cam tâm tình nguyện sửa chữa sai lầm của mình tận gốc từ mặt tư tưởng”, có như vậy mới xoá bỏ được tận gốc rễ sự vi phạm. Chính vì vậy, việc theo dõi, giúp đỡ người vi phạm sửa chữa sai lầm, khuyết điểm là điều hết sức cần thiết và có ý nghĩa./.
Theo: “Tạp chí Luật học”
--- Bài cũ hơn ---
Khi Nào Một Hành Vi Vi Phạm Pháp Luật Được Coi Là Tội Phạm?
Khái Niệm Và Các Loại Hình Thức Pháp Luật Trong Lịch Sử
Hình Thức Pháp Luật Là Gì? Những Nét Cơ Bản Về Hình Thức Pháp Luật
Địa Phương “kêu Trời” Khi Theo Dõi Thi Hành Pháp Luật
Thi Hành Pháp Luật Là Gì?