– Thông tin xác định danh tính của chủ thể nộp đơn, các mô tả về số lượng và giá trị SPTT do chủ thể nộp đơn sản xuất ra.
– Nếu đơn được nộp nhân danh ngành sản xuất trong nước thì phải nêu rõ tên của tất cả các nhà sản xuất nội địa sản xuất ra SPTT được biết đến (hoặc tên các hiệp hội các nhà sản xuất SPTT trong nước), mô tả về số lượng và giá trị SPTT do các chủ thể đó sản xuất ra;
– Thông tin mô tả đầy đủ về sản phẩm bị nghi là bán phá giá, tên của nước hoặc các nước xuất khẩu hoặc xuất xứ của những sản phẩm đó; danh tính của mỗi nhà xuất khẩu hoặc sản xuất nước ngoài được biết đến và danh sách các chủ thể nhập khẩu sản phẩm đó;
– Thông tin về giá thông thường (thông tin về bán sản phẩm tương tự tại thị trường nước (hoặc các nước) xuất khẩu hoặc xuất xứ (hoặc thông tin về giá bán của sản phẩm đó từ nước xuất khẩu hoặc xuất xứ sang một (các) nước thứ ba hoặc thông tin về giá tự tính toán)
2. Các yêu cầu về bằng chứng:
Đơn yêu cầu phải bao gồm các bằng chứng xác thực về:
– việc bán phá giá; và
– thiệt hại đối với ngành sản xuất trong nước; và
– mối quan hệ nhân quả giữa việc bán phá giá và thiệt hại nói trên;
+ Ngành sản xuất SPTT nội địa nước nhập khẩu bao gồm những chủ thể nào?
ADP định nghĩa “ngành sản xuất nội địa” là “tập hợp/tổng thể các nhà sản xuất trong nước của nước nhập khẩu sản xuất SPTT (với sản phẩm bị điều tra) hoặc những nhà sản xuất có tổng sản phẩm chiếm phần đáng kể trong tổng sản lượng sản xuất trong nước những sản phẩm đó”.
2.2. Tuy nhiên, ADP có dự liệu một số ngoại lệ:
Ngoại lệ 1: Trường hợp bị loại trừ khỏi khái niệm “ngành sản xuất SPTT nội địa”
– Nhà sản xuất nội địa đồng thời là nhà nhập khẩu những sản phẩm đang bị điều tra chống bán phá giá;
Ngoại lệ 2: Trường hợp thu hẹp khái niệm “ngành sản xuất trong nước”
Trong một số trường hợp, lãnh thổ nước nhập khẩu có thể được chia thành hai hoặc nhiều thị trường cạnh tranh riêng biệt và tập hợp các nhà sản xuất tại một trong những thị trường đó có thể được coi là ngành sản xuất nội địa độc lập (hoặc ngành sản xuất nội địa vùng – regional industry) nếu:
(i) các nhà sản xuất tại thị trường đó bán toàn bộ hoặc gần như toàn bộ sản phẩm của họ tại thị trường đó; và
Khi xảy ra trường hợp như thế này, có thể coi là có thiệt hại ngay cả khi phần lớn ngành sản xuất trong lãnh thổ nước nhập khẩu không bị tổn hại gì (do nằm ở các vùng khác) nếu:
– Có sự tập trung lượng hàng nhập khẩu bán phá giá vào thị trường (vùng) đó; và
– Hàng nhập khẩu được bán phá giá gây tổn hại (thiệt hại) đối với các nhà sản xuất sản xuất ra toàn bộ hoặc gần như toàn bộ lượng sản phẩm tại thị trường đó.
Ngoại lệ 3: Trường hợp mở rộng khái niệm “ngành sản xuất nội địa”
Các trường hợp này xảy ra khi thị trường hai hoặc nhiều quốc gia đã đạt đến một mức độ hội nhập cao, có những đặc tính của một thị trường thống nhất (ví dụ: trường hợp của Liên minh châu Âu). Khi đó, ngành sản xuất trong toàn bộ khu vực kinh tế đã hội nhập được hiểu chung là “ngành sản xuất nội địa”: điều này có nghĩa là thiệt hại được xem xét là thiệt hại đối các ngành sản xuất của tất cả các quốc gia trong khu vực kinh tế hội nhập đó chứ không riêng ngành sản xuất của quốc gia nào.
– Cơ quan có thẩm quyền của nước nhập khẩu có quyền tự do lựa chọn một nước thứ ba thay thế và giá cả ở nước này có thể khác xa giá cả tại nước xuất khẩu do có các điều kiện, hoàn cảnh thương mại khác nhau;
– Rất có thể các nhà sản xuất SPTT tại nước thứ ba được lựa chọn là những đối thủ cạnh tranh của các nhà sản xuất nước xuất khẩu đang bị điều tra và vì thế họ có thể khai báo mức giá khiến kết quả so sánh giá XK với giá TT (biên độ phá giá) bất lợi cho những nhà sản xuất nước xuất khẩu…
Một trong các yếu tố khiến giá TT không được tính theo cách tính chuẩn (tính theo giá bán tại thị trường nội địa nước XK) là SPTT được bán tại thị trường nội địa với khối lượng không đáng kể.
Khối lượng SPTT bán cho tiêu dùng trong nước sẽ bị coi là không đáng kể nếu thấp hơn 5% lượng sản phẩm xuất khẩu sang nước đang tiến hành điều tra.
Tuy nhiên, cơ quan điều tra vẫn có thể sử dụng giá bán tại thị trường nội địa để xác định giá TT nếu có bằng chứng cho thấy dù lượng sản phẩm bán ra thị trường nội địa không đạt tỷ lệ 5% nhưng số lượng này cũng đủ để so sánh được với giá XK một cách hợp lý để tính biên độ phá giá.
Một trong các điều kiện để có thể sử dụng cách tính giá TT chuẩn (giá TT được tính theo giá bán của SPTT tại thị trường nội địa của nước xuất khẩu) là SPTT được bán tại thị trường này trong điều kiện thương mại thông thường.
Hiện không có định nghĩa cụ thể thế nào là hàng hoá bán trong điều kiện thương mại thông thường. Tuy nhiên, ADP có nêu một trường hợp có thể được coi là không được bán theo điều kiện thương mại thông thường: đó là khi SPTT được bán tại thị trường nội địa hoặc bán sang một nước thứ ba với mức giá không đủ bù đắp chi phí sản xuất theo đơn vị sản phẩm (giá thành sản xuất + chi phí bán hàng, quản trị, chi phí chung) (bán lỗ vốn).
Tuy vậy, sản phẩm tương tự bị bán lỗ vốn tại thị trường nội địa chỉ bị coi là không được bán theo các điều kiện thương mại thông thường và do đó, giá bán sản phẩm tại thị trường nội địa không được coi là giá thông thường khi:
– Việc bán hàng lỗ vốn đó được thực hiện trong một khoảng thời gian kéo dài (thường là 1 năm, và trong mọi trường hợp cũng không được ít hơn 6 tháng); và
– Hàng hóa bị bán lỗ vốn này được bán với một số lượng đáng kể, tức là:
+ Lượng sản phẩm bán lỗ vốn không ít hơn 20% tổng số sản phẩm được bán (trong giao dịch đang được xem xét để xác định giá trị thông thường); hoặc
+ Giá bán bình quân gia quyền thấp hơn chi phí bình quân gia quyền.
Tuy nhiên nếu sản phẩm bị bán với giá thấp hơn mức chi phí sản xuất nhưng giá bán này vẫn cao hơn chi phí bình quân gia quyền trong khoảng thời gian được điều tra thì việc bán lỗ vốn này được xem như hành động bán hàng để thu hồi vốn (bù đắp các chi phí) trong khoảng thời gian hợp lý và vẫn được coi là việc bán hàng theo các điều kiện thương mại thông thường.
Bán phá giá (vào thị trường nước ngoài) thường bị coi là một hiện tượng tiêu cực do nó làm giảm khả năng cạnh tranh về giá và thị phần của sản phẩm nội địa của nước nhập khẩu.
Tuy nhiên, ở một góc độ khác, bán phá giá có thể có tác động tích cực đối với nền kinh tế: người tiêu dùng được lợi vì có thể mua hàng với giá rẻ hơn; nếu hàng bị bán phá giá là nguyên liệu đầu vào của một ngành sản xuất khác, giá nguyên liệu rẻ có thể là yếu tố góp phần tạo nên sự tăng trưởng nhất định của ngành đó; giá giảm có thể là động lực thúc đẩy ngành sản xuất trong nước tự đổi mới để nâng cao sức cạnh tranh,…
Vì thế không phải mọi hành vi bán phá giá đều bị lên án và phải chịu thuế chống bán phá giá. Theo qui định của WTO, các biện pháp chống bán phá giá chỉ được thực hiện trong những hoàn cảnh nhất định và phải đáp ứng các điều kiện cụ thể.
Thuế chống bán phá giá là khoản thuế bổ sung bên cạnh thuế nhập khẩu thông thường, do cơ quan có thẩm quyền của nước nhập khẩu ban hành, đánh vào sản phẩm nước ngoài bị bán phá giá vào nước nhập khẩu. Đây là loại thuế nhằm chống lại việc bán phá giá và loại bỏ những thiệt hại do việc hàng nhập khẩu bán phá giá gây ra.
Việc bán phá giá (dumping) được xác định như thế nào?
Việc bán phá giá được xác định thông qua việc so sánh về giá giữa giá thông thường và giá xuất khẩu theo công thức:
Giá thông thường – Giá xuất khẩu = X
(trong đó các giá này phải được đưa về cùng một cấp độ thương mại mà thường là “giá xuất xưởng”)
Biên độ phá giá (dumping margin) được tính như thế nào?
Biên độ phá giá được tính theo công thức:
Biên độ phá giá= (Giá thông thường – Giá xuất khẩu)/Giá xuất khẩu
Giá thông thường và giá xuất khẩu được so sánh với nhau như thế nào?
Việc xác định thiệt hại (determination of injury) bao gồm những nội dung gì?
Việc xác định thiệt hại được tiến hành trên hai khía cạnh sau:
(i) khối lượng sản phẩm nhập khẩu được bán phá giá và ảnh hưởng của việc này đến giá của sản phẩm tương tự tại thị trường nội địa nước nhập khẩu;
Cụ thể, về khối lượng sản phẩm nhập khẩu bị điều tra, cơ quan điều tra phải xem xét xem trên thực tế có sự tăng đáng kể (tuyệt đối hoặc tương đối) của hàng nhập khẩu bán phá giá so với mức sản xuất hoặc nhu cầu tiêu dùng tại nước nhập khẩu hay không.
Về tác động của hàng nhập khẩu bán phá giá đối với giá của sản phẩm thông thường (SPTT) tại thị trường nước nhập khẩu, cơ quan có thẩm quyền phải xem xét trên hai khía cạnh:
– Hàng nhập khẩu bán phá giá có phải là đã được bán với giá thấp hơn một cách đáng kể so với giá của SPTT tại thị trường nước nhập khẩu hay không?; hoặc
– Việc hàng nhập khẩu bán phá giá đó có đúng là đã làm giảm giá của SPTT trên thị trường nước nhập khẩu ở mức đáng kể hoặc ngăn không cho giá tăng đáng kể hay không (điều mà lẽ ra sẽ không xảy ra nếu không bán phá giá hàng nhập đó)?
(ii) hậu quả của việc nhập khẩu này đối với các nhà sản xuất các sản phẩm này của nước nhập khẩu
Hệ quả của việc bán phá giá đối với ngành sản xuất nội địa nước xuất khẩu được xem xét trên một loạt các nhân tố khác nhau của ngành sản xuất đó và những thiệt hại của ngành sản xuất cũng có thể được xem xét ở nhiều dạng khác nhau.
Thiệt hại (injury) đối với ngành sản xuất nội địa nước nhập khẩu là những thiệt hại loại gì ? Các yếu tố cần xem xét khi xác định thiệt hại thực tế (actual injury) ?
Thiệt hại phải được xem xét trên tất cả các yếu tố và chỉ số kinh tế có thể có tác động đến thực trạng của ngành sản xuất, ví dụ:
– Mức suy giảm thực tế và tiềm ẩn của doanh số, lợi nhuận, sản lượng, thị phần, năng suất, tỷ lệ lãi đối với đầu tư, tỷ lệ năng lực được sử dụng, giá,…;
– Các nhân tố ảnh hưởng đến giá trong nước;
– Các nhân tố ảnh hưởng xấu thực tế hoặc tiềm ẩn đối với quá trình chu chuyển tiền mặt, lượng lưu kho, công ăn việc làm, lương, tăng trưởng, khả năng huy động vốn, nguồn đầu tư…;
– Độ lớn của biên độ bán phá giá;…
Các yếu tố cần xem xét khi xác định nguy cơ thiệt hại (threat of injury) ? Trường hợp hàng hóa bị bán phá giá nhập khẩu với số lượng quá nhỏ thì có bị điều tra chống bán phá giá không ?
Việc điều tra chống bán phá giá chỉ được thực hiện khi số lượng, khối lượng hàng bị bán phá giá nhập khẩu từ một nước xuất khẩu không dưới mức tối thiểu là 3% tổng lượng nhập khẩu hàng hóa bị điều tra vào nước nhập khẩu.
Do đó, các quốc gia có thể sử dụng các phương pháp khác nhau để xác định mối quan hệ này (ví dụ: sự trùng hợp về thời gian giữa việc bán phá giá và thiệt hại xảy ra, các phân tích kinh tế để xác định mức tăng trưởng của ngành sản xuất nội địa nếu như không có việc bán phá giá của hàng nhập khẩu…).
Ai được quyền yêu cầu tiến hành điều tra chống bán phá giá ?
Các chủ thể có thể đưa ra yêu cầu điều tra chống bán phá giá bao gồm:
(i) ngành sản xuất trong nước/nội địa nước nhập khẩu hoặc chủ thể nhân danh cho ngành sản xuất trong nước; hoặc
(ii) cơ quan có thẩm quyền của nước nhập khẩu.
– Thông tin xác định danh tính của chủ thể nộp đơn, các mô tả về số lượng và giá trị sản phẩm do chủ thể nộp đơn sản xuất ra.
Nếu đơn được nộp nhân danh ngành sản xuất trong nước thì phải nêu rõ tên của tất cả các nhà sản xuất nội địa sản xuất ra sản phẩm thông thường (SPTT) được biết đến (hoặc tên các hiệp hội các nhà sản xuất SPTT trong nước), mô tả về số lượng và giá trị SPTT do các chủ thể đó sản xuất ra;
– Thông tin mô tả đầy đủ về sản phẩm bị nghi là bán phá giá, tên của nước hoặc các nước xuất khẩu hoặc xuất xứ của những sản phẩm đó; danh tính của mỗi nhà xuất khẩu hoặc sản xuất nước ngoài được biết đến và danh sách các chủ thể nhập khẩu sản phẩm đó;
– Thông tin về giá thông thường (thông tin về giá bán SPTT tại thị trường nước xuất khẩu/ xuất xứ hoặc thông tin về giá bán của SPTT từ nước xuất khẩu/xuất xứ sang nước thứ ba hoặc thông tin về trị giá tính toán)
– Thông tin về sự gia tăng số lượng sản phẩm nhập khẩu bị nghi là bán phá giá; ảnh hưởng của việc này đến giá của SPTT tại thị trường nội địa nước nhập khẩu; ảnh hưởng của việc này đối với ngành sản xuất nội địa (thể hiện qua các yếu tố thể hiện tình trạng của ngành sản xuất nội địa)
Đơn yêu cầu phải bao gồm các bằng chứng xác thực về:
– Việc bán phá giá; và
– Thiệt hại đối với ngành sản xuất trong nước; và
– Mối quan hệ nhân quả giữa việc bán phá giá và thiệt hại nói trên;
Trong các trường hợp như vậy, biên độ phá giá (căn cứ để tính thuế chống bán phá) sẽ được tính riêng cho từng nhà sản xuất, xuất khẩu được lựa chọn điều tra. Những nhà sản xuất, xuất khẩu không được chọn nhưng vẫn cung cấp thông tin kịp thời phục vụ quá trình điều tra vẫn có thể được tính biên độ phá giá riêng nếu số lượng các chủ thể này không quá lớn. Đối với tất cả các trường hợp không được điều tra còn lại, biên độ phá giá sẽ được ấn định không cao hơn biên độ phá giá bình quân gia quyền của các nhà sản xuất, xuất khẩu được lựa chọn để điều tra.
Các quyết định phải được thông báo bao gồm:
– Quyết định bắt đầu điều tra;
– Kết luận/quyết định sơ bộ;
– Kết luận/quyết định cuối cùng.
Trường hợp nêu được lý do chính đáng, các bên cung cấp thông tin có thể yêu cầu cơ quan điều tra giữ bí mật thông tin do mình cung cấp (nhưng phải có bản tóm tắt thay thế)
Các quyền tố tụng cơ bản khác:
– Quyền được thông báo về các thông tin mà cơ quan có thẩm quyền yêu cầu;
– Quyền được cung cấp các bằng chứng bằng văn bản, quyền được trực tiếp trình bày chứng cứ, lập luận (tại các phiên điều trần, gặp gỡ các bên);
– Quyền được bố trí phiên điều trần;
– Quyền được thông báo trước về các chứng cứ cơ bản mà cơ quan có thẩm quyền sẽ sử dụng làm căn cứ ban hành quyết định cuối cùng;
– Quyền được yêu cầu được tính biên độ phá giá riêng
Biện pháp tạm thời (provisional measures) là gì ? Mức thuế chống bán phá giá được xác định như thế nào ?
Mức thuế chống bán phá giá được xác định theo biên độ phá giá và trong mọi trường hợp không được cao hơn biên độ phá giá. Một số nước có quy định áp dụng mức thuế chống bán phá giá thấp hơn biên độ phá giá nếu mức đó đã đủ để loại bỏ thiệt hại.
Thuế chống bán phá giá có hiệu lực trong bao lâu ?
Về nguyên tắc, thuế chống bán phá giá sẽ chấm dứt sau 5 năm kể từ thời điểm quyết định áp đặt thuế chống bán phá giá. Tuy nhiên, nếu cơ quan có thẩm quyền nước nhập khẩu, sau khi tiến hành rà soát, đi đến kết luận là việc bán phá giá gây thiệt hại có nhiều khả năng tiếp tục duy trì hoặc tái diễn nếu thuế chống bán phá giá chấm dứt hiệu lực thì thuế này sẽ tiếp tục được áp dụng thêm 5 năm nữa.
Quyết định áp đặt thuế chống bán phá giá có thể được rà soát lại (review) không ?
Quyết định áp đặt thuế chống bán phá giá có thể được xem xét lại thông qua thủ tục rà soát lại. Việc rà soát lại có thể dẫn tới việc chấm dứt áp dụng thuế chống bán phá giá trước thời hạn hoặc, tiếp tục đặt thuế cho đến hết thời hạn 5 nămkéo dài thời hạn áp dụng thuế này thêm 5 năm nữa. hoặc
Có các rà soát lại quyết định áp đặt thuế chống bán phá giá sau:
– Rà soát lại để yêu cầu hoàn trả thuế (nếu mức thuế đã nộp cao hơn biên độ phá giá thực tế)
– Rà soát lại trong thời hạn 5 năm kể từ khi có quyết định áp đặt thuế chống bán phá giá chính thức do có thay đổi hoàn cảnh (còn gọi là Rà soát giữa kỳ); và
– Rà soát lại ngay trước khi hết thời hạn 5 năm kể từ khi có quyết định áp đặt thuế chống bán phá giá chính thức (thường được biết đến dưới tên “rà soát hoàng hôn” hoặc “rà soát cuối kỳ”).
Rất mong nhận được phục vụ Quý khách hàng!
Trân trọng./.
Bộ phận luật sư doanh nghiệp – Công ty luật Minh Khuê