Top 6 # Xem Nhiều Nhất Kể Lại Văn Bản Cô Bé Bán Diêm Mới Nhất 6/2023 # Top Like | Athena4me.com

2 Bài Văn Mẫu Trong Vai Cô Bé Kể Lại Truyện Cô Bé Bán Diêm

Đề văn Trong vai cô bé kể lại truyện Cô bé bán diêm là yêu cầu không hề đơn giản đối với các em học sinh khi em cần vận dụng linh hoạt trí tưởng tượng, sáng tạo của bản thân trong việc đóng vai nhân vật để kể lại chính câu chuyện của mình một cách tự nhiên, chân thật và lôi cuốn độc giả.

Đề bài: Trong vai cô bé kể lại truyện Cô bé bán diêm

2 bài văn mẫu Trong vai cô bé kể lại truyện Cô bé bán diêm

Bài mẫu số 1: Trong vai cô bé kể lại truyện Cô bé bán diêm

Vào đêm giao thừa ấy, trời rất lạnh và tuyết rơi xối xả. Tớ đầu trần, chân đất cùng những gói diêm vẫn lang thang dọc phố mặc cho những bông tuyết đang rơi đầy trên mái tóc của mình. Tớ ko dám về nhà vì sợ bố đnáh, vả lại ở nhà cũng chẳng hơn j cả.

Các cửa sổ đã sáng đèn và mùi ngỗng quay thơm lừng toả ra. Cuộn người trong góc giữa hai ngôi nhà nhưng tay chân tớ vẫn đóng băng vì lạnh, tớ chợt nghĩ biết đâu bật diêm lên sẽ tốt hơn, chí ít cũng có thể sưởi ấm những ngón tay. Tớ quýet định bật diêm. Que thứ nhát bật lên, hơ tay trên ngọn lửa nhỏ em tưởng mình đang ngồi trước chiếc lò sưởi. Lửa vụt tắt, chỉ còn lại trong tay em là nửa que diêm cháy dở.

Tớ bật que diêm thứ hai, bức tường thứ trước mặt bỗng trở nên trong suốt khiến tớ có thể nhìn thấy trong nhà một bàn ăn phủ khăn trắng với con ngỗng quay. Nhưng điều khiến tớ thấy lạ nhất là con ngỗng quay tự dưng từ trên điac nhảy xuống rồi tiến về phía em vớ con dao cắm tr’c ngực. Bỗng que diêm phụt tắt, tớ ko còn thấy j nữa ngoài bức tường dày tối tăm, lạnh lẽo ngay tr’c mắt.

Tớ bật thêm que nữa, và tớ thấy mình đnag ngồi tr’c cây thông noel trang hoàng. Với tay về phía cây thông , que diêm tắt lịm, tớ thấy ánh nến bay lên cao, cao mãi trông như những vì sao. Rồi tớ thấy một vì sao rơi xuống, “chắc có ai đó vừa mới từ giã cõi đời”, tớ nghĩ thế vì tớ nhớ đến lời bà, người duy nhất yeu quý tớ trên cõi đời này.

Sáng hôm sai, người ta thấy tớ đang ngồi tựa vào tường, má ửng hồng, nụ cười nở trên môi. Mọi ng` ai cũng nghĩ tớ đốt diêm để sưởi ấm cho mình nhưng chẳng ai biết đc những điều kì diệu mà tớ đã nhìn thấy nhờ những que diêm đó.

Bên cạnh Trong vai cô bé kể lại truyện Cô bé bán diêm các em cần tìm hiểu thêm những nội dung khác như Vào vai cô bé bán diêm và kể lại câu chuyện theo một kết thúc khác hay phần Cảm nghĩ về truyện Cô bé bán diêm nhằm củng cố kiến thức của mình.

Bài mẫu số 2: Trong vai cô bé kể lại truyện Cô bé bán diêm

Đêm giao thừa năm ấy… Cái rét cắt da cắt thịt cứ len lỏi khắp mọi ngõ ngách, nẻo đường của thành phố. Cái lạnh vốn dĩ thật tàn nhẫn, và nhất là đối với những tâm hồn cô đơn, nó lại càng như chiếc roi quất từng nhát vào tim. Gió lại tràn về, khiến một chiếc lá hiếm hoi còn sót lại trên cành – chao đảo nghiêng mình. Được sinh ra, được sống, rồi phải đến lúc rời cành, kết thúc một cuộc đời không vướng bận, ngẫm suy… vậy là đã tròn sứ mệnh của lá. Nhưng có lẽ cuộc đời tôi không vô vị như thế, cuộc đời của một cô bé bán diêm.

Bà và mẹ tôi mất sớm, bố tôi lại nát rượu, cứ mỗi lần tôi uống say lại mắng nhiếc, chửi rủa tôi. Nhà ngèo, tôi phải đi bán diêm trên phố để kiếm sống, có khi phải xin người ta bố thí cho nữa, những hôm nay tôi không bán được que diêm nào cả, cũng chẳng có ai bố thí cho đồng nào, tôi không dám về nhà. Tôi sợ bố, bố nhất định sẽ đánh tôi…

Tuyết cứ thế rơi xuống, rơi một cách vô tình, nó dường như đã không để ý rằng tôi đã lạnh đến mức nào. Bộ quần áo rách rưới mà tôi mặc trên người cũng không nào giúp tôi ấm lên được. Tôi phải lê đôi chân trần trên hè phố. Đôi dép cũ rích của tôi sáng nay bị lũ nhóc ngoài phố nghịch ngợm dấu đi mất. Trời lạnh như cắt. Hai bàn chân của tôi sưng tím cả lên. Tôi cố lê từng bước sát dưới mái hiên cho đỡ lạnh, thỉnh thoảng tôi lại ngước nhìn đám đông hờ hững qua lại, nửa van xin, nửa ngại ngùng. Không hiểu sao tôi chỉ bán có một xu một hộp diêm như mọi ngày mà đêm nay không ai thèm hỏi đến.

Cửa sổ mọi nhà đều sáng rực ánh đèn và trong phố sực nức mùi ngỗng quay. Chả là đêm giao thừa mà! Nhà nào cũng vui vẻ, ấm cúng và trang hoàng rực rỡ. Chỗ thì đèn màu nhấp nháy, chỗ có cây giáng sinh với những quà bánh đầy mầu. Có nhà dọn lên bàn gà tây, rượu, bánh trái trông thật ngon lành. Bất giác mắt tôi hoa lên, tay chân run bần bật, tôi thấy mình lạnh và đói hơn bao giờ hết. Tôi nghĩ đến hoàn cảnh của mình, đã hai ngày tôi chưa có gì vào bụng. Tôi lại nhớ về những ngày tháng sống ấm no, hạnh phúc trong tình thương của gia đình trước đây. Tôi tự hỏi sao những ngày tháng ấy lại ngắn ngủi như vậy… Đưa tay lên ôm mặt, tôi thất thểu bước đi trong tiếng nhạc giáng sinh văng vẳng khắp nơi và mọi người thản nhiên, vui vẻ, sung sướng mừng Chúa ra đời…

Tôi dò dẫm trong bóng tối, ngồi nép trong một góc tường, giữa hai ngôi nhà. Tôi thu đôi chân vào người nhưng mỗi lúc tôi càng thấy rét buốt hơn. Nhìn vào giỏ diêm vẫn đầy ắp, tôi chợt nghĩ: “Giá mà được quẹt một que diêm mà sưởi cho đỡ rét một chút nhỉ?” Cuối cùng tôi đánh liều rút một que ra quẹt vào tường. Diêm bén lửa thật là nhạy. Ngọn lửa màu xanh lam, dần dần biến đi, trắng ra, rực hồng lên quanh que gỗ, sáng chói trông đến vui mắt.

Tôi hơ đôi tay trên que diêm sáng rực như than hồng. Ánh diêm làm cho tôi tưởng chừng như đang ngồi trước một lò sưởi bằng sắt. Trong lò, lửa cháy nom đến vui mắt và tỏa ra hơi nóng thật dịu dàng. Chà, thật dễ chịu! Đôi bàn tay tôi đang hơ trên ngọn lửa, ngón tay cầm diêm đã nóng bỏng lên. Nhưng khi tôi vừa duỗi chân ra thì lửa vụt tắt, lò sưởi biến mất.

Tôi quẹt que diêm thứ hai, diêm cháy và sáng rực lên. Tôi không thể tin vào mắt mình được, bức tường như biến thành một tấm rèm bằng vải màu. Tôi nhìn thấu vào tận trong nhà. Bàn ăn đã dọn, khăn trải bàn trắng tinh, trên bàn toàn bát đĩa bằng sứ quý giá, và có cả một con ngỗng quay. Nhưng điều kì diệu nhất là ngỗng ta nhảy ra khỏi đĩa và mang cả dao ăn, phuốc-sét cắm trên lưng, tiến về phía tôi. Rồi… que diêm vụt tắt, trước mặt tôi chỉ còn là những bức tường dày đặc lạnh lẽo. Chẳng có bàn ăn thịnh soạn nào cả, mà chỉ có phố xá vắng teo, lạnh buốt, tuyết phủ trắng xóa, gió bấc vi vu và mấy người khách qua đường áo ám áp vội vã đi đến những nơi hẹn hò. Tôi nhìn họ như nhìn một thứ hạnh phúc quá đỗi xa vời. Mà có lẽ cũng không phải thế, thứ hạnh phúc đó vẫn cứ ở gần bên tôi, nhưng là hạnh phúc của người khác.

Tôi quẹt que diêm thứ ba. Bỗng một cây thông Nô-en hiện ra trước mắt tôi. Cây này lớn và trang trí lộng lẫy hơn cây mà tôi thấy qua cửa kính của một nhà buôn giàu có. Hàng ngàn ngọn nến sáng rực, lấp lánh trên cành lá xanh tươi và rất nhiều bức tranh màu sắc rực rỡ như những bức bày trong các tủ hàng, hiên ra trước mắt tôi. Tôi với tay và phía cây… nhưng diêm tắt. Tất cả các ngọn nến bay lên, bay lên mãi rồi biến thành những ngôi sao trên trời. Tôi tự nhủ chắc vừa có ai chết vì khi còn sống, bà tôi thường nói rằng: “Khi có một vì sao đổi ngôi là có một linh hồn bay lên trời với Thượng Đế.” Tôi nhìn lên bầu trời, tôi tìm, tìm và tự hỏi: Giữa muôn vàn vì sao kia, đâu là vì sao của mẹ, của bà tôi? Họ ở đâu? Họ có cầu phúc gì cho tôi không mà giờ đây tôi bơ vơ, cô độc giữa đêm đông này?

Tôi lại quẹt một que diêm nữa vào tường, lần này không hiện ra những vật vô thức nữa mà là một ánh sáng màu xanh tỏa ra xung quanh và tôi nhìn thấy rõ ràng bà đang mỉm cười với tôi. Tôi giang hai tay về phía người bà. Nhưng làm sao được chứ? Thứ hạnh phúc trước mắt tôi chẳng khác gì bong bóng xà phòng, muôn màu, mỏng manh và chạm nhẹ vào là vỡ tan. Rồi mọi chuyện cũng tiếp diễn như nó đã từng, hình ảnh người bà nhòa dần giữa bóng đêm…

Tôi quẹt hết que diêm này đến que diêm khác, quẹt tất cả những que diêm mà tôi đang có với sự tha thiết, cầu gợi một niềm hạnh phúc nhỏ nhoi! Kỳ diệu thay, hình ảnh người bà mỗi lúc một sáng hơn, to hơn. Giờ đây không còn là ảo ảnh nữa, bà nắm lấy tay tôi rồi tôi cùng bà bay vụt lên cao, cao mãi. Chúng tôi bay bay về trời, bay về với Thượng Đế chí nhân, rời xa khỏi đói rét, khỏi đau buồn trên cõi đời này. Tất cả lạnh giá, cô đơn đã không còn…

Lại một ngày mới bắt đầu. Tuyết đã dần tan, cái lạnh cũng thôi làm người ta tê buốt. Tôi từ trên cao nhìn xuống phía dưới, nơi có rất nhiều con người vây quanh thân xác của tôi. Họ bàn tán xôn xao, họ cho rằng tôi chết vì lạnh, họ tự hỏi tại sao tôi vẫn mỉm cười. Họ nào có biết rằng tôi còn ra đi vì sự cô độc, vì sự thờ ơ, vô tình của họ. Vì tôi không có được niềm vui ở thế gian này nên phải đi về một nơi đầy mộng tưởng, đi về nơi mà lò sưởi, ngỗng quay, cây thông và bà đều là hiện thực, điều đó làm tôi cảm thấy vô cùng mãn nguyện. Tôi không trách cứ vì sự vô tình của họ, khi tôi rời khỏi thế gian này, tôi đã bỏ hết những đau thương ở lại, để sống một cuộc sống tốt đẹp hơn ở nơi thiên giới này.

Cuộc đời của tôi đã đầy rẫy những nỗi bất hạnh. Tôi ra đi trong sự vô tình và thờ ơ của mọi người. Tôi biết, trong thế giới này, còn có rất rất nhiều đứa trẻ bất hạnh như tôi, thiếu thốn tình thương của người thân. Nhưng tôi vẫn mong rằng sẽ không còn ai phải chịu bất hạnh như thế trên đời này nữa. Hãy yêu thương trẻ em. Hãy cho trẻ em một mái ấm gia đình. Hãy dành cho trẻ em 1 cuộc sống bình yên, hạnh phúc. Hãy biến những mộng tưởng đằng sau ánh lửa diêm thành hiện thực cho trẻ thơ.

https://thuthuat.taimienphi.vn/trong-vai-co-be-ke-lai-truyen-co-be-ban-diem-41595n.aspx

Em Hãy Kể Tên Bốn Ước Mơ Của Cô Bé Bán Diêm Trong Văn Bản Cô Bé Bán Diêm?

Đề bài: Ke ten bon uoc mo cua co be ban diem. Kể tên bốn ước mơ của cô bé bán diêm trong truyện Cô bé bán diêm để thấy được tinh thần nhân đạo được thể hiện trong bài thơ.

Mở bài: bốn ước mơ của cô bé bán diêm trong văn bản Cô bé bán diêm

An-đé-xen (1805-1875), ông là nhà văn vĩ đại của Đan Mạch, sống ở thể kỉ XIX, ông là danh nhân văn hóa lớn của thế giới. Đặc điểm truyện An-đéc-xen là thường nhẹ nhàng, toát lên được lòng thương yêu con người, đượm màu sắc hư ảo và thơ mộng, thể hiện niềm tin vào sự thắng lợi cuối cùng của cái tốt đẹp trên thế gian. Tác phẩm Cô bé bán diêm là một tác phẩm tiêu biểu của An- đéc- xen.

Thân bài: bốn ước mơ của cô bé bán diêm trong văn bản Cô bé bán diêm

Truyện Cô bé bán diêm kể về một cô bé nghèo khổ, có số phận bất hạnh khi mồ côi mẹ từ sớm, phải sống với người cha độc ác, tàn nhẫn. hàng ngày em phải đi bán diêm, không bán hết thì không được về nhà, bởi vậy mà trong đêm đông giá rét cô bé đã một mình co ro nơi góc phố lạnh. Trong cái lạnh cắt da cắt thịt, cô bé đã thể hiện bốn ước mơ của mình:

Thứ nhất, em ước trước mặt mình là một lò sưởi bằng sắt có những hình đồng bóng nhoáng. Trong lò có những ngọn lửa cháy vui mắt và tỏa ra hơi nóng dịu dàng: “…trong đêm đông rét buốt, trước một lò sưởi thì khoái biết bao”

Ước mơ thứ hai của em đó chính là một bàn ăn đã dọn, khăn trải bàn trắng tinh, trên bàn toàn bát đĩa quý giá, và có cả một con ngỗng quay.

Kết bài: bốn ước mơ của cô bé bán diêm trong văn bản Cô bé bán diêm

Ước mơ thứ ba của cô bé bán diêm đó chính là một cây thông Nô-en. Cây thông này được trang trí lộng lẫy, đẹp đẽ “Hàng ngàn ngọn nến sáng rực,lấp lánh trên cành lá xanh tươi và rất nhiều bức tranh rực rỡ sắc màu…”

Ước mơ thứ ba của cô bé là được gặp bà và mong muốn được đi theo bà.

TỪ KHÓA TÌM KIẾM CÔ BÉ BÁN DIÊM CO BE BAN DIEM AN-ĐÉC-XEN TRUYỆN CÔ BÉ BÁN DIÊM Theo chúng tôi

Văn Bản Cô Bé Bán Diêm

Ai đã từng đọc Cô bé bán diêm của nhà văn Đan Mạch An-đéc-xen hẳn sẽ không thể nào quên những ánh lửa diêm nhỏ nhoi bùng lên giữa đêm giao thừa giá rét gắn với một thế giới mộng tưởng thật đẹp của cô bé nghèo khổ. Kết cục câu chuyện thật buồn nhưng sức ám ảnh của những giấc mơ tuyệt đẹp vẫn ắp đầy tâm trí người đọc, người nghe qua những lời kể và sự miêu tả rất cuốn hút của An-đéc-xen.

Trong bóng tối và cái rét cắt thịt da của xứ sở Đan Mạch, ta như nhìn thấy rõ một cô bé đôi môi tím tái, bụng đói cồn cào đang lần từng bước chân trần trên hè phố. Một cô bé mồ côi khốn khổ, không dám về nhà vì chưa bán được bao diêm nào thì sẽ bị cha đánh. Nhà văn đã tạo ra cảm giác thật sống động khi ông nhập vào những khoảnh khắc tâm trạng của cô bé.

Ấn tượng đậm nét đầu tiên khơi lên mối cảm thương chính là hình ảnh cô bé như lọt thỏm giữa cái mênh mông của bóng đêm vào thời khắc sắp giao thừa. Khi “mọi nhà đều sáng rực ánh đèn và trong phố sực nức mùi ngỗng quay”, cô bé đã hồi tưởng lại quá khứ tươi đẹp khi bà nội hiền hậu còn sống. Ngôi nhà xinh xắn với những dây trường xuân trong những ngày đầm ấm tương phản với thực tại cuộc sống của hai cha con trong một xó tối tăm, sự nghèo khổ kéo theo những lời mắng nhiếc chửi rủa của người cha khi gia sản đã tiêu tán. Để nguôi cảm giác lạnh, em đã “ngồi nép trong một góc tường”, “thu đôi chân vào người” nhưng có lẽ chính nỗi sợ hãi còn mạnh hơn giá rét đã khiến em “càng thấy rét buốt hơn”. Em không thể về vì biết “nhất định cha em sẽ đánh em”. “Ở nhà cũng rét thế thôi”, điều đáng sợ nhất đối với cô bé không phải là thiếu hơi ấm mà là thiếu tình thương. Thật đáng thương khi thân hình bé nhỏ của em phải chống chọi vô vọng với cảm giác giá buốt bên ngoài và cái lạnh từ trong trái tim khiến “đôi bàn tay em đã cứng đờ ra”.

Lúc ấy, em chỉ ao ước một điều thật nhỏ nhoi: “Chà! Giá quẹt một que diêm mà sưởi cho đỡ rét một chút nhỉ?” nhưng dường như em cũng không đủ can đảm vì làm như vậy em sẽ làm hỏng một bao diêm không bán được. Nhưng rồi cô bé ấy cũng “đánh liều quẹt một que”, để bắt đầu cho một hành trình mộng tưởng vượt lên thực tại khắc nghiệt. Giấc mơ của em bắt đầu từ lúc nhìn vào ngọn lửa: “lúc đầu xanh lam, dần dần biến đi, trắng ra, rực hồng lên quanh que gỗ, sáng chói trông đến vui mắt”. Ánh sáng ấy đã lấn át đi cảm giác của bóng tối mênh mông, để hiện lên hình ảnh “một lò sưởi bằng sắt có những hình nổi bằng đồng bóng nhoáng”. Niềm vui thích của em đến trong ảo giác “lửa cháy nom đến vui mắt và toả ra hơi nóng dịu dàng”. Đó là ước mơ thật đơn giản trong khi thực tế lại phũ phàng “tuyết phủ kín mặt đất, gió bấc thổi vun vút… trong đêm đông rét buốt”. Ước ao được ngồi hàng giờ “trước một lò sưởi” cũng biến tan khi “lửa vụt tắt, lò sưởi biến mất”. Khoảnh khắc em “bần thần cả người” khi hình dung ra những lời mắng chửi của cha khiến ta phải nao lòng. Bóng tối lại phủ lên màu u ám trong tâm hồn em.

Có lẽ vì vậy, nhà văn đã để em tiếp tục thắp lên que diêm thứ hai, thắp lên niềm vui nhỏ nhoi dù chỉ là trong mộng tưởng. Không chỉ phải chống chọi với cái rét, cô bé còn phải cầm cự với cơn đói khi cả ngày chưa có miếng nào vào bụng. Bởi thế, ánh sáng rực lên của ngọn lửa diêm đã biến bức tường xám xịt thành “tấm rèm bằng vải màu”. Cái hạnh phúc trong những ngôi nhà ấm áp đã đến với em, khi em nhìn thấy : “Bàn ăn đã dọn, khăn trải bàn trắng tinh, trên bàn toàn bát đĩa bằng sứ quý giá, và có cả một con ngỗng quay”. Giá như tất cả những hình ảnh tưởng tượng biến thành hiện thực thì em sẽ vui sướng biết bao, khi “ngỗng nhảy ra khỏi đĩa” sẽ mang đến cho em bữa ăn thịnh soạn để vượt lên phút đói lả người. Nhưng một lần nữa, ảo ảnh lại vụt biến, em lại phải đối mặt với “phố xá vắng teo, lạnh buốt, tuyết phủ trắng xoá, gió bấc vi vu”. Không những thế, em còn chứng kiến sự thờ ơ ghẻ lạnh của những người qua đường, hình ảnh tương phản được nhà văn khắc họa làm ta nhói đau trước em bé bất hạnh.

Và một lần nữa, que diêm tiếp theo lại sáng bừng lên, để em được sống trong những giấc mơ đẹp nhất của một em bé. Trong một cuộc sống phải từng phút từng giây vật lộn mưu sinh, em đã phải từ giã những niềm vui được đùa chơi của con trẻ. Ánh sáng từ que diêm đã toả ra vầng hào quang lộng lẫy, cho em “một cây thông Nô-en”, như đem đến cho em một thiên đường của tuổi thơ: “Hàng ngàn ngọn nến sáng rực, lấp lánh trên cành lá xanh tươi và rất nhiều bức tranh màu sắc rực rỡ như những bức bày trong tủ hàng”. Điều trớ trêu nghiệt ngã là tất cả những hình ảnh tươi đẹp ấy em chỉ kịp nhìn nhưng không thể chạm tay vào, bởi lẽ tất cả chỉ là ảo ảnh, như những ngôi sao trên trời mà em không thể với tới. Trái tim ta như nghẹn lại cùng lời kể của nhà văn, bởi lẽ em bé đang dần kiệt sức và sắp phải gục ngã trước cái lạnh chết người của xứ sở bà chúa Tuyết.

Trong giây phút cuối cùng của đời em, có lẽ nhà văn không muốn người đọc phải chứng kiến một cái chết thảm thương vì rét, vì đói, vì thiếu tình thương và niềm vui trong cuộc đời khốn khổ của cô bé, nên đã cho em rất nhiều ánh lửa và niềm vui được gặp lại bà nội hiền hậu mà em rất mực kính yêu. Hình ảnh bà hiện lên trong những phút cuối cùng của em bé không hẳn là ảo ảnh mà chính là sự thực đã được nhìn qua tâm hồn thánh thiện của em. Bà em hiện ra với nụ cười như ban cho em diễm phúc được sống lại quãng đời ấm áp đầy tình thương thuở trước. Tiếng reo của em khi gặp lại bà cũng những lời cầu xin ngây thơ là tiếng nói cuối cùng của một người sắp giã từ trần thế. Em được sống với niềm vui trọn vẹn của riêng mình nhưng chúng ta có lẽ khó ai cầm được dòng nước mắt: “Dạo ấy, bà đã từng nhủ cháu rằng nếu cháu ngoan ngoãn, cháu sẽ được gặp lại bà, bà ơi! Cháu van bà, bà xin Thượng đế chí nhân cho cháu về với bà. Chắc Người không từ chối đâu.”. Trong lời tâm sự ấy, ta hiểu được sự thực về cuộc đời nghiệt ngã và bất công mà em đang hứng chịu. Điều em cần chính là tình thương thật sự trong một thế giới bao dung và nhân hậu. Bởi thế, cái chết đối với em không còn là một điều đáng sợ. Em được về với bà, đến một thế giới khác “chẳng còn đói rét, buồn đau nào đe doạ”. Nhà văn đã để chính đôi tay bé nhỏ của em thắp lên Ánh sáng – “diêm nối nhau chiếu sáng như giữa ban ngày” – để em được thấy bà em “to lớn và đẹp lão” đến đón em cùng bay vào thế giới ước mơ trong ánh sáng huy hoàng xua hết tối tăm đè nặng cuộc đời em.

Câu chuyện kết thúc. Ngày mới lại bắt đầu, “mặt trời lên, trong sáng, chói chang trên bầu trời xanh nhợt”. Sự sống vẫn tiếp diễn, mọi người đón “ngày mồng một đầu năm hiện lên trên thi thể em bé ngồi giữa những bao diêm”, nhìn em để buông ra lời nhận xét thờ ơ: “chắc nó muốn sưởi cho ấm”. Không ai được biết những cái kỳ diệu em đã trông thấy, chỉ duy nhất một người chứng kiến được “cảnh huy hoàng lúc hai bà cháu bay lên để đón lấy những niềm vui đầu năm”, đó chính là nhà văn. Ông đã cúi xuống nỗi đau của một em bé bất hạnh, kể cho ta nghe câu chuyện cảm động này bằng tất cả tình yêu thương vô bờ bến đối với trẻ thơ và những con người nghèo khổ. An-đéc-xen đã cất lên tiếng nói cảnh tỉnh những trái tim đông cứng như băng giá, gửi bức thông điệp của tình thương đến với mọi người.

nguồn google

Tìm Hiểu Văn Bản: Cô Bé Bán Diêm

Có cảnh tượng thương tâm nào hơn cảnh một em bé mồ côi mẹ chết cóng trong đêm giao thừa. Câu chuyện về “Cô bé bán diêm” của An – Đec – Xen đã đưa người đọc đến với đất nước Đan Mạch vào những năm giữa thế kỷ XIX nghèo đói, bần hàn. Đan Mạch là một nước nhỏ thuộc khu vực Bắc Âu, diện tích chỉ bằng một phần tám diện tích nước ta, thủ đô là Cô-pen-na-ghen. An-Đec-Xen là nhà văn nổi tiếng nhất của Đan Mạch.

An-Đec-Xen (1805-1875) là nhà văn nổi tiếng nước Đan Mạch với loại truyện kể về trẻ em. Nhiều truyện ông biên soạn lại từ truyện cổ tích, nhưng cũng có những truyện do ông hoàn toàn sáng tạo ra.

Nhiều truyện ngắn của An-Đec-Xen đã đi cùng tuổi thơ của biết bao em nhỏ khắp năm châu: Cô bé bán diêm, Nàng tiên cá, Nàng công chúa và hạt đậu…

Các truyện của ông nhẹ nhàng, tươi mát, toát lên lòng yêu thươn con người, nhất là những người nghèo khổ và niềm tin vào sự thắng lợi cuối cùng của cái tốt đẹp trên thế gian.

a. Hoàn cảnh sáng tác: Truyện ngắn “Cô bé bán diêm” sáng tác năm 1845, ra đời vào thời điểm Am-Đec-Xen sáng tác nhiều nhất.

Trong đêm giao thừa, trời rét mướt, có một cô bé đầu trần, chân đi đất, bụng đói đang rầu rĩ đi bán diêm trong bóng tối. Cô bé bán diêm ấy đã mồ côi mẹ và cũng đã mất đi người thương yêu em nhất là bà nội. Em không dám về nhà vì sợ bố sẽ đánh em. Vừa lạnh vừa đói, cô bé ngồi nép vào một góc tường rồi khẽ quẹt một que diêm để sưởi ấm. Que diêm thứ nhất cho em có cảm giác ấm áp như ngồi bên lò sưởi. Em vội quẹt que diêm thứ hai, em được thấy một bàn ăn thịnh soạn hiện lên. Rồi em quẹt que diêm thứ ba và được thấy cây thông Nô-en. Quẹt que diêm thứ tư: bà nội hiền từ của em hiện lên đẹp đẽ, gần gũi và phúc hậu biết mấy. Nhưng ảo ảnh đó nhanh chóng tan đi sau sự vụt tắt của que diêm. Em vội vàng quẹt hết cả bao diêm để mong níu bà nội lại. Cô bé bán diêm đã chết trong giá rét khi mơ cùng bà bay lên cao mãi.

Phần 1: Từ đầu… cứng đờ ra: Hoàn cảnh của cô bé bán diêm

Phần 2: Tiếp theo… về chầu thượng đế: Những lần quẹt diêm của cô bé

Phần 3: Còn lại: Cái chết của cô bé bán diêm

a. Gia cảnh của cô bé bán diêm

Mẹ chết, sống với người bố khó tính, bà nội – người yêu thương em cũng đã qua đời.

Nhà nghèo, sống “chui rúc trong xó tối tăm”. “trên gác sát mái nhà”, em “luôn nghe những lời mắng nhiếc chửi rủa”.

Vì gia cảnh nghèo túng mà em phải đi bán diêm để kiếm sống.

b. Hình ảnh cô bé bán diêm trong đêm giao thừa

Ở đoạn đầu của tác phẩm, tác giả đã sử dụng rất thành công nghệ thuật đối lập – tương phản.

Những hình ảnh đối lập tương phản có tác dụng rất lớn, nhằm làm nổi bật tình cảm hết sức tội nghiệp: rét, đói, khổ của em bé – đã rét lại càng rét hơn khi thấy “mọi nhà đều sáng rực ánh đèn”; đã đói lại càng đói hơn khi “trong phố sực nức mùi ngỗng quay”.

Ngoài ra, hình ảnh “cái xó tối tăm” em sống chui rúc với bố hiện nay và “ngôi nhà xinh xắn có dây trưỡng xuân bao quanh” năm xưa khi bà nội em còn sống.

Hình ảnh tương phản này không chỉ làm nổi bật nỗi khổ về vật chất mà cả sự mất mát về chỗ dựa tinh thần của em bé vì chỉ có bà nội là người thương em.

Đến tận đêm vẫn không bán được bao diêm nào, vẫn không dám về vì sợ bố đánh.

c. Cảnh thực và những ảo ảnh

Đêm giao thừa cô đơn, ngập chìm trong tuyết lạnh, cô bé: “thu đôi chân vào người, nhưng mỗi lúc em cảm thấy rét buốt hơn”, “lúc này đôi bàn tay” mỗi lúc lại “cứng đờ ra”.

Trong tình cảnh đó, cô bé đã nghĩ tới việc đánh diêm để “hơ ngón tay”, để phần nào xua đi cái cô đơn lạnh cóng.

Câu chuyện được tiếp tục nhờ chí tiết lặp lại và biến đổi rất tự nhiên, hợp lý và thú vị qua chi tiết 5 lần cô bé quẹt diêm. Trong đó, cảnh thật và cảnh ảo đan xen nhau.

Lần thứ nhất:

+ Cảnh ảo: “Hiện ra lò sưởi bằng sắt có những hình nổi bằng đồng bóng nhoáng tỏa ra hơi nóng dịu dàng”.

+ Cảnh thật: Bên tay cầm diêm, ngón cái nóng bỏng lên.

+ Cảnh ảo: một bàn ăn sang trọng, thức ăn ngon lành tỏa mùi thơm ngào ngạt: “Bức tường như biến thành một tấm rèm bằng vải màu. Em nhìn thấu vào tận trong nhà. Bàn ăn đã dọn, khăn trải bàn trắng tinh, trên bàn toàn bát đĩa bằng sứ quý giá và có cả một con ngỗng quay”.

+ Cảnh thực: là khi que diêm vừa tắt thì “chẳng có bàn ăn nào cả, chỉ có phố xá vắng teo, lạnh buốt…và mấy người khách qua đường quần áo ấm áp vội vã đi đến những nơi hẹn hò, hoàn toàn lãnh đạm với cảnh nghèo khổ của em bé bán diêm”

+ Cảnh ảo: hiện ra một cây thông noel

+ Cảnh thật: vẫn không đổi.

+ Cảnh ảo: Hình ảnh người bà đã mất xuất hiện, sống lại với nụ cười dịu dàng với dứa cháu mồ côi nhỏ bé, đáng thương. Em bé cất lời nói với bà để biểu hiện tình cảm nhớ thương bà, ước nguyện đi cùng bà.

+ Cảnh thật: vẫn không thay đổi.

Lần thứ năm – lần cuối cùng: Em quẹt diêm liên tục cho kỳ hết bao diêm để dẫn tới hình ảnh diêm nối nhau chiếu sáng như ban ngày:

+ Cảnh ảo: Hình ảnh bà nội hiện lên trong tưởng tượng chưa bao giờ to lớn, đẹp lão như thế. Em muốn níu giữ bà em lại với em. Em lại muốn bà em đi với em, em đi theo bà.

+ Cảnh thật: vẫn không đổi. Em đã chết vì rét trong đêm giao thừa.

Chỉ là một tưởng tượng, đây là giây phút em bé đã ra đi vĩnh viễn trong đói khát, rét mướt, trong niềm hy vọng tan biến.

5 lần quẹt diêm, 5 lần lặp lại và biến đổi, thực tại xen lẫn ảo ảnh, nối tiếp, trở đi trở lại, tất cả được sắp xếp và tưởng tượng tuyệt khéo gợi lên cho người đọc vẻ đẹp hồn nhiên, tươi tắn của em bé đáng thương như một tiểu thiên thần.

Tác giả bày tỏ niềm cảm thông sâu sắc của mình với em bé bất hạnh. Ngòi bút nhân ái và lãng mạng của nhà văn đã làm cho câu chuyện cảm động đau thương vẫn nhẹ nhàng đầy chất thơ.

Hình ảnh một em bé nghèo khổ, bất hạnh, đáng thương, đáng trọng. Một con người phải đối mặt với những khó khăn thử thách ở đời mà vẫn không nguôi mong muốn, khát vọng những điều tốt đẹp nhất.

Ngày mồng một, người ta nhìn thấy thi thể em bé mồ côi ngồi giữa những bao diêm một cách vô tình, lạnh lùng.

Chỉ có cái nhìn đầy cảm thông cùng tấm lòng nhân hậu và lãng mạn của An-Đec-Xen mới có thể viết lại một câu chuyện thương tâm mà vẫn làm cho người đọc bớt đi cảm giác bi thương.

Cho đến những dòng cuối cùng của tác phẩm, nhà văn vẫn dùng hình ảnh đối lập, tương phản rất đặc sắc: Giữa ngày đầu năm hứa hẹn những mầm sống mới mọc lên, có một em bé chết.

Miêu tả một cảnh thương tâm về cái chết của cô bé bán diêm, ngòi bút của tác giả vừa thực, vừa mộng. Sự thực là em bé khốn khổ kia đã chết, nhưng đây là một cái chết đẹp, hình hài thể xác chết mà linh hồn, khát vọng của em vẫn sống, sống trên đôi má hồng, đôi môi đang mỉm cười. Rõ ràng, đến với những dòng cuối của áng văn, tình thương, niềm tin con người và khát vọng những điều tốt đẹp nhất con người trong cõi lòng nhà văn Đan Mạch thấm đẫm chất nhân đạo, nhân văn.

Trong cái xã hội thiếu tình thương, nhà văn An-Đec-Xen đã viết truyện này với tất cả niềm cảm thông, yêu thương đối với em bé bất hạnh. Nhưng rõ ràng, truyện ngắn “Cô bé bán diêm” là một cảnh tượng thương tâm.

Cái chết của cô bé là tiếng nói tố cáo xã hội mạnh mẽ, phê phán lối sống ích kỷ, co cụm, chỉ biết mình của thế giới hiện đại. Đó là sự cảm thông sâu sắc của nhà văn kể chuyện thiên tài An-Đéc-Xen.

Qua số phận bất hạnh của em bé nghèo, chúng ta thấy được xã hội mà em sống, đó là một xã hội không có tình người. Đồng thời truyện còn có sức tố cáo xã hội; phê phán lối sống ích kỷ, co cụm, chỉ biết mình của thế giới hiện đại. Câu chuyện còn toát lên niềm thương cảm của nahf văn đối với những em bé nghèo khổ. Vì thế, truyện vừa có giá trị hiện thực, vừa có giá trị nhân văn, nhân đạo.

Tác giả thành công trong việc sử dụng nghệ thuật đối lập – tương phản. Những hình ảnh đối lập tương phản càng lúc càng gay gắt, thực tế và mộng tưởng, cuộc đời và ảnh ảo cứ sóng đôi hiện hiện, đan cài, tranh chấp nhau, nâng dần lên, bay cao lên.

Nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn, đan xen giữa hiện thực và mộng tưởng, với các chi tiết tương phản, diễn biến hợp lý, truyền cho chúng ta lòng thương cảm đối với em bé bất hạnh, lay động trong ta thình thương và niềm tin ở con người.