Đọc – Hiểu Văn Bản: Bài Ca Côn Sơn – Tư Liệu Ngữ Văn 7 2022
--- Bài mới hơn ---
Đang tải…
Bài ca Côn Sơn – Tư liệu Ngữ Văn 7
BÀI CA CÔN SƠN
(Côn Sơn ca)
ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN
PHÂN TÍCH TÁC PHẨM
Côn Sơn được gợi lên với vẻ đẹp sống động, đầy ắp âm thanh, đậm đà màu sắc bởi cảnh vật được cảm nhận qua tâm hồn Ức Trai giàu chất nhạc, chất hoạ, chất thơ.
Nguyễn Trãi về với Côn Sơn là về với ngôi nhà của mình. Ta hãy để ý cái giọng thơ phóng khoáng, nhịp thơ thoải mái câu thơ tự do trong nguyên văn chữ Hán:
Côn Sơn hữu tuyền,
Kì thanh linh linh nhiên,
Ngô dĩ vi cầm huyền.
Côn Sơn hữu thạch,
Vũ tẩy đài phô bích,
Ngô dĩ vi đạm tịch.
Nhịp thơ trên như nhịp của phách, nhịp của bộ gõ, vừa đệm nhạc, vừa tạo tiết tấu cho lời ca. Chính chất hào sảng trong tâm hồn đã tạo nên chất hào sảng của thơ. Bao nhiêu năm bận rộn công việc, lòng đầy âu lo việc dân, việc nước, những năm cuối đời lại sống trong vòng tị hiềm, ghen ghét, khi trở về Côn Sơn, Nguyễn Trãi thấy mình thật sự tự do. Đọc thơ, giữa cảnh thấy người, thấy Nguyễn Trãi khi nằm nghỉ, lúc dạo chơi, khi chuyện trò tâm sự, lúc cao giọng ngâm nga… Một Nguyễn Trãi thanh bạch, giản dị, ung dung mà hào phóng, cởi mở. Ức Trai như cánh chim sổ lồng, vui say giữa rừng núi quê nhà. Bản dịch thơ lục bát đã cố gắng lột tả cái tâm trạng tự do, khoáng đạt của Nguyễn Trãi khi về với Côn Sơn, nhưng cái nhịp điệu như nước suối reo, như bước chân lên xuống, khi chạy, khi dừng thì bản dịch đã không lột tả được.
Nguyễn Trãi đang vui với Côn Sơn, suối nước thành suối nhạc, rêu xanh thành thảm biếc, tán tùng thành ô lọng… bỗng nhiên giọng thơ như lắng xuống, hơi thơ như nén lại rồi bật trào ra… Mình đã về đây, về sống giữa Côn Sơn, lần này về hẳn, khác bao lần trước, vậy mà vẫn còn tự vân :
Về đi sao chẳng sớm toan
Nửa đời vương vấn bụi trần làm chi.
Loading…
Câu hỏi đó làm ta thấy lạ. Nhưng chưa hết, ngạc nhiên hơn nữa khi Nguyễn Trãi ca khúc Quy khứ lai từ của Đào Tiềm với tâm trạng thanh thản, nhẹ tênh.
Côn Sơn ca là sự tiếp tục Bình Ngô đại cáo, cho ta hiểu thêm một Nguyễn Trãi anh hùng ở phương diện khác : dám sống thật với chính mình. Khía cạnh “con người” trong người anh hùng Nguyễn Trãi chính là vẻ đẹp nhân bản đã nâng người anh hùng dân tộc lên tầm cao nhân loại.
(Lã Nhâm Thìn, Giảng văn văn học Việt Nam, Sđd)
VĂN BẢN ĐỌC THÊM
CÔN SƠN
Núi Côn Sơn trên đất huyện Chí Linh, suốt một trăm năm mươi năm từ khi Trần Nhân Tông khai sáng dòng Thiền Trúc Lâm (1299) cho tới khi Nguyễn Trãi quy thần (1442) đã là một trung tâm của tư tưởng Việt Nam đổi diện với Thăng Long, cả hai gắn liền nhau trong đạo xuất xử của người hiền thời xưa. Nếu kinh đô Thăng Long là trung tâm quyền lực giải quyết yêu cầu dấn thân của kẻ sĩ thì Côn Sơn là nơi họ tìm về căn nhà vũ trụ để thực hiện cuộc sống tâm linh trong bản giao hưởng của trời đất. Chẳng những Trần Nhân Tông, Huyền Quang, Trần Nguyên Đán, Chu Văn An, Nguyễn Trãi,… đã tìm về đây để sống đạo suốt phần cuối cuộc hành trình cát bụi, mà nhiều trí thức Trần – Lê dù đang phải gánh vác triều chính, thỉnh thoảng cũng lén về Côn Sơn để ăn trộm cái nhàn trong nửa ngày, theo cách nói của Nguyễn Phi Khanh.
Côn Sơn nhìn nghiêng giông hình một con kì lân từ Tây Tạng đi về phương Nam, tới nằm trầm mặc giữa châu thổ sông Hồng. Chân núi có ngôi chùa cổ với mấy tấm bia đá đề năm Thiệu Phong đời Trần, và những cây sứ già lão cổ quái bậc nhất, khiến tôi nhìn lên phải nghiêng mình vái chào. Tên dân gian gọi là chùa Hun, vì từ xa xưa lâu đời, nơi đây vẫn là rừng sâu hoang rậm. Côn Sơn quanh năm chìm trong màu khói xanh của thợ rừng đốt than. Thời lỡ vận, người anh hùng đánh Nguyên – Trần Khánh Dứ – cũng từng lên nguồn đốt than, truyền thuyết còn lưu lại bài thơ nổi tiếng : Ở với lửa hương cho vạn kiếp, Thử xem vàng đá có bền gan.
Lưng chừng núi là khu di tích của động Thanh Hư, canh núi Côn Sơn. Tiến sĩ Trần Nguyên Đán, nhà thiên văn và lịch pháp tài giỏi của thế kỉ XIV, vì buồn việc nước, lại nghĩ rằng “Tư sát để được tiếng khen như Khuất Nguyên là sai”, bèn về núi dựng khu trang viên này. Nguyễn Phi Khanh tả động Thanh Hư quy mô rộng lớn, cảnh quan rực rỡ, thơm đến muốn nuôi, xinh đến muốn ăn. Nay lác đác trên sườn núi vẫn còn dấu đá ong của những nền nhà cũ, nơi Trần Nguyên Đán viết sách và dạy học, người học trò vỡ lòng của ông cũng đồng thời là cháu ngoại, chính là Nguyễn Trãi. Nay vẫn còn tấm bia đá lớn đề ba chữ “Thanh Hư động”, bút tích của vua Trần Nghệ Tông, cùng với bài minh của nhà vua ngợi ca tấm lòng mải lo nước thương dân của Trần Nguyên Đán dù đã lui về núi : Sương dưới bóng cây là muốn mở lộng sức che chở cho dân, Tựa vào khóm trúc là muốn đến với nhiều người hiền.
Suối Côn Sơn mùa xuân nước vẫn đầy, bờ suối còn những dấu đại bác thời chống Pháp. Ven suối dưới chân động Thanh Hư có bãi đá bằng phang gọi là thạch bàn : Côn Sơn có đá rêu phơi, Ta ngồi trên đá như ngồi chiếu êm. Đúng như trong thơ ông, thạch bàn là nơi Nguyễn Trãi thường ngồi lặng lẽ ngắm bầu trời. Có lẽ những tháng ngày hội nhập vào cuộc sống lớn lao của một “công dân vũ tru”, cái ý niệm thiên dân kia đã nuôi dưỡng sâu bền thêm trong tâm thức Nguyễn Trãi nỗi khát khao lẽ công bằng và tự do cho con người, vốn lả bản chất dân chủ nhất quán trong lí tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi: Lồng lộng trời tư chút đâu, Nào ai chẳng đội ở trên đầu. Ngày tôi về, rêu thạch bàn ở Côn Sơn vẫn sáng lên một màu lục tươi mới mẻ lạ lùng, tưởng như người hiền vừa mới đứng dậy khỏi nơi này, đang lững thững một mình đâu đó trong rừng thông.
( Theo Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngọn núi ảo ảnh,
NXB Thanh niên, Hà Nội, 1999)
– Gợi dẫn
Đoạn trích này giúp em hiểu thêm gì về bài Bài ca Côn Sơn của Nguyễn Trãi ?
--- Bài cũ hơn ---