Đề Xuất 3/2023 # Tóm Tắt Tác Phẩm Sống Chết Mặc Bay Của Phạm Duy Tốn # Top 5 Like | Athena4me.com

Đề Xuất 3/2023 # Tóm Tắt Tác Phẩm Sống Chết Mặc Bay Của Phạm Duy Tốn # Top 5 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Tóm Tắt Tác Phẩm Sống Chết Mặc Bay Của Phạm Duy Tốn mới nhất trên website Athena4me.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Mưa tầm tã, nước sông Nhị Hà lên to. Gần một giờ đêm khúc đê làng X, phủ X cũng thế, hai ba đoạn thẩm lậu, không khéo thì vỡ mất. Hàng trăm người dân phu từ liều đến giờ bì bõm trong mưa, nào đắp, nào cừ, ướt như chuột lột. Tiếng trống liên thanh, tiếng ốc vô hồi, tiếng người xa xứ gọi nhau sang hộ. Mưa càng dữ, nước sông càng cuồn cuộn bốc lên.

Trong khi ấy, cách nơi hộ đê chừng bốn năm trăm mét, trong đình cao ráo vững chãi, quan phụ mẫu đang chễm chệ ngồi trên một chiếc sập. Đèn thắp sáng trưng, xung quanh chỗ quan ngồi bày ống thuốc bạc, đồng hồ vàng, dao chuôi ngà,… bát yến hấp đường phèn khói bay nghi ngút. Kẻ hầu người hạ, đi lại rộn ràng. Quan phụ mẫu đang chơi bài tổ tôm với thầy Đề, thầy đội nhất, thầy thông nhì, chánh tổng sở. Lính lệ khoanh tay đứng hầu, nghi vệ tôn nghiêm như thần như thánh. Tiếng cười nói vui vẻ, dịu dàng. Quan cứ ung dung.

Mặc, dân chẳng dân thì chớ. Lúc ngài vừa xơi xong bát yến, đang vuốt râu, rung đùi, mắt đang mãi trông đĩa nọc, bỗng ngoài xa làng kêu vang trời dậy đất. Mọi người giật nẩy mình, quan vẫn hiển nhiên – Quan đang chờ ù ván bài to. Có người khẽ nói: “Bẩm, đê có khi đê vỡ!”. Quan gắt: “Mặc đê” Quan sốt ruột giục người bốc bài. Bỗng nước ào ào như thác chảy xiết, tiếng cười kêu rầm rĩ, rồi lại có tiếng gà, chó, trâu, bò kêu vang tứ phía. Trong đình, ai lấy nôn nao sợ hãi. Thốt nhiên có người nhà quê lấm láp, ướt đẫm chạy xông vào đình báo đê vỡ mất rồi. Quan lớn đỏ mặt tía tai, quát: “Đê vỡ rồi, thời ông cách cổ chúng mày, thời ông bỏ tù chúng mày! Quan sai lính đuổi cổ người nhà quê ra. Thầy đề xóc bài, tay run cầm cập… Quan lớn vỗ tay xuống sập kêu to. Rồi ngài xoè bài vừa rời vừa nói: “Ù, Thông tôm, chi chi nảy!… Điếu, mày!”

Quan ù ván bài to. Khắp nơi miền đê, nước tràn lênh láng, nhà cửa trôi băng, lúa má ngập hết; kẻ sống không chỗ ở, kẻ chết không nơi chôn.

Tóm tắt tác phẩm Sống chết mặc bay của Phạm Duy Tốn – Bài làm 2

Nửa đêm, ở làng X thuộc phủ X, nước sông Nhị Hà ngày 1 dâng cao khiến khúc đê có nguy cơ vỡ. Trong lúc người dân đang cố giũ đê thì Quan phụ mẫu – kẻ được cử đi để giúp đan hộ đê lại đi chơi tổ tôm với đám nha lại trong đình. Hắn ung dung chơi bài cùng với bao kẻ hầu người hạ ngồi bên cạnh, lại còn mang biết bao đồ đạc quí hiếm để đi hộ đê. Y mải miết chơi tổ tôm đến mức ko biết gì đến những tiếng kêu, tiếng tù và của dân phu và bao người dân ở ngoài đê. Ngay cả khi có người vào báo đê vỡ nhưng hắn lại mắng chửi rồi ung dung chơi bài tiếp. Cuối cùng, khi đê đã vỡ, người dân lâm vào cảnh muôn sầu nghìn thảm cũng là lúc quan phụ mẫu cười sung sướng, hả hê khi ù ván bài lớn.

Tóm tắt tác phẩm Sống chết mặc bay của Phạm Duy Tốn – Bài làm 3

Gần một giờ đêm, trời mưa tầm tã, nước sông Nhị Hà lên to, khúc đê làng X có nguy cơ sẽ vỡ. Hàng trăm hàng nghìn người dân ra sức chống chọi với sức nước. Thế mà tại ngôi đình trên một khúc đê gần đó, quan phụ mẫu vẫn ung dung cùng các quan đánh bài. Có người báo đê vỡ, ngài vẫn thản nhiên quát mắng. Cuối cùng, khi quan ù ván bài thật to, cũng là lúc “khắp mọi nơi miền đó, nước tràn lênh láng, xoáy thành vực sâu, nhà cửa trôi băng, lúa má ngập hết, kẻ sống không chỗ ở, kẻ chết không nơi chôn”.

Cảm Nghĩ Về Tác Phẩm Sống Chết Mặc Bay Của Phạm Duy Tốn

1. Sơ đồ tóm tắt gợi ý

2. Dàn bài chi tiết

a. Mở bài

Giới thiệu qua về tác giả, tác phẩm:

Tác giả Phạm Duy Tốn sinh năm 1881 và mất năm 1924 quê tại Phú Xuyên, Hà Nội. Ông là nhà văn đại diện cho nền văn học hiện thực phê phán.

Tác phẩm “Sống chết mặc bay” là một tác phẩm tiêu biểu cho nền văn học hiện đại, phản ánh hiện thực lúc bấy giờ.

Thông qua câu chuyện của mình tác giả muốn thể hiện cái nhìn nhân sinh quan đối với xã hội, sự thương cảm của mình với những người dân cùng đinh khốn khổ.

b. Thân bài

Cảm nhận về nội dung tác phẩm

Phân tích nội dung câu chuyện “Sống chết mặc bay” kể về một tên quan huyện có trách nhiệm phòng hộ đê, giúp dân chống lũ ở một huyện thuộc vùng Bắc Bộ của ta thời phong kiến.

Ý nghĩa nhan đề “Sống chết mặc bay”. Nhan đề của tác phẩm là “Sống chết mặc bay” tác giả đã phản ảnh được sự vô trách nhiệm, bàng quan của một tên quan được xem là quan phụ mẫu (cha mẹ của dân)

Trong tác phẩm thể hiện hai bức tranh hoàn toàn trái ngược nhau:

Một bên là hình ảnh những người dân nghèo khổ, đang lo lắng dốc sức phòng hộ chống vỡ đê.

Một bên là những quan chức phụ trách giúp dân hộ đê nhưng lại mải mê chơi trò đỏ đen, kiếm chác tiền bạc.

Phân tích sự tha hóa của bọn quan lại, sự xuống cấp của xã hội, chế độ.

→ Qua tác phẩm ta thấy được sự xuống cấp, sự thối nát của một chế độ đã đến giai đoạn suy thoái, để nhường lại cho một chế độ mới tiến bộ, phát triển hơn, có thể giúp cho người dân nhiều hơn.

Cảm nhận về đặc sắc nghệ thuật

Tác giả Phạm Duy Tốn đã khéo léo sử dụng những chi tiết tương phản để tăng độ hấp dẫn của câu chuyện cũng như làm nổi bật sự đặc sắc thể hiện sự vô cảm của quan hiện với sự đau khổ sống chết của người dân.

Tác giả cũng khôn khéo sử dụng cùng một lúc hai bút pháp nghệ thuật cho hai bức tranh cuộc sống để nói lên sự tương phản, sự thối nát của chế độ.

Phân tích cảnh thời tiết, trời mưa tầm tã, người dân thì ướt sũng như “chuột lột”, vất vả , cơ cực nhiều cam go, thử thách.

Một bên là những tên quan chức, trong cuộc đỏ đen cũng cam go, thử thách không kém, chúng cũng sát phạt ăn thua nhau nảy lửa, cuộc chiến trên chiếu bạc cũng không kém phần thử thách gay cấn như cuộc chiến chống vỡ đê.

Tình huố ng của câu chuyện nhiều tình tiết ly kỳ, hấp dẫn, nói viết tả thực xem lẫn hư cấu, tương phản làm cho câu chuyên mang nhiều màu sắc cảm xúc khác nhau.

→ “Sống chết mặc bay” người đọc cảm thấy thấm thía nỗi khốn khổ của người dân khi phải sống trong một thời kỳ áp bức, bóc lột tới như vậy.

c. Kết bài

Cảm nghĩ chung và khẳng định lại giá trị tố cáo của tác phẩm

Qua tác phẩm “Sống chết mặc bay” tác giả Phạm Duy Tốn đã lên án mạnh mẽ bọn quan tham ô lại, mặt người dạ thú, chỉ biết sống cho mình, vơ vét lợi ích.

Nó phản ánh sự xuống cấp về đạo đức của những người cầm đầu chế độ cũ, đòi hỏi sự thay đổi của chế độ nhằm phục vụ lợi ích của người dân tốt hơn.

Bài văn mẫu

: Anh chị hãy viết bài văn phát biểu cảm nghĩ về truyện “Sống chết mặc bay” của Phạm Duy Tốn trong chương trình văn học lớp 7.

Truyện ngắn “Sống chết mặc bay” của Phạm Duy Tốn được in trên báo Nam Phong, số 18, năm 1918. Đến năm 1989, Nhà xuất bản khoa học xã hội tuyển chọn đưa vào tập Truyện ngắn Nam Phong. Tác phẩm được xem là “bông hoa đầu mùa” của truyện ngắn Việt Nam hiện đại bởi lẽ nó là một trong những truyện ngắn đầu tiên được viết bằng chữ quốc ngữ, mặc dù cách diễn đạt vẫn còn lưu lại khá rõ dấu ấn của văn học trung đại (lối văn biền ngẫu).

Mở đầu thiên truyện là tình thế vô cùng hiểm nguy của khúc đê sông Nhị. Thế đê được nhà văn tả bằng nhiều chi tiết cụ thể về thời gian, không gian:

— Để xem được đầy đủ tài liệu,mời quý thầy cô và các em vui lòng đăng nhập vào HOC247 để dowload tài liệu về máy —

Phép tăng cấp còn được vận dụng vào việc miêu tả cảnh tên quan phủ cùng đám nha lại đánh bài tổ tôm trong đình. Thái độ vô trách nhiệm, vô lương tâm của tên quan phủ mỗi lúc một tăng. Mê bài bạc mà bộ nhiệm vụ đôn đốc hộ đê đã đành. Đến khi có người dân phu vào báo tin đê vỡ mà vẫn thờ ơ, lại lên giọng quát nạt bọn tay sai rồi quay lại tiếp tục đánh bài và vui sướng reo to: “Ù! Thông tôm, chi chi nảy!” Thì độ say mê cờ bạc quả đã làm cho “quan lớn” mất hết tính người. Nói theo lời bình của nhà văn là loại lòng lang dạ thú.

Nhờ khéo léo kết hợp thủ pháp nghệ thuật tương phản và tăng cấp trong miêu tả, kể chuyện nên tác giả truyện ngắn “Sống chết mặc bay” đã đạt được mục đích lên án gay gắt tên quan phủ tàn ác và bày tỏ niềm cảm thương sâu sắc trước cảnh nghìn sầu muôn thảm của nhân dân do thiên tai và do thái độ vô trách nhiệm của kẻ cầm quyền gây nên.

Soạn Bài: “Sống Chết Mặc Bay” Của Phạm Duy Tốn

Soạn bài: “Sống chết mặc bay” của Phạm Duy Tốn

I. TÌM HIỂU CHUNG: 1. Tác giả, tác phẩm:

Xem chú thích (*) Sgk/79.

Tóm tắt truyện?

“Gần 1h đêm, trời mưa tầm tã, nước sông Nhị Hà lên to quá, khúc đê làng X có nguy cơ sẽ vỡ. Hàng trăm, hàng nghìn người dân ra sức chống chọi với sức nước. Thế mà tại ngôi đình trên một khúc đê gần đó, quan phụ mẫu vẫn ung dung cùng các quan đánh bài. Có người báo tin đê vỡ, ngài vẫn thản nhiên lại còn quát mắng. Cuối cùng, khi quan ù ván bài thật to, cũng là lúc “khắp mọi nơi miền đó nước tràn lênh láng, xoáy thành vực sâu, nhà cửa trôi băng, lúa má ngập hết; kẻ sống không chỗ ở, kẻ chết không nơi chôn, lênh đênh mặt nước, chiếc bóng bơ vơ, tình cảnh thảm sầu”.

Văn bản này bố cục gồm mấy phần? Nội dung từng phần?

Bố cục: Có thể chia làm 3 phần.

– Phần 1: “Từ đầu … hỏng mất”: Nguy cơ đê vỡ và sự chống đỡ của người dân.

– Phần 2: “Ấy lũ con dân … điếu, mày”: Cảnh quan phủ cùng nha lại đánh tổ tôm trong khi “đi hộ đê”.

– Phần 3: Phần còn lại: Cảnh đê vỡ, nhân dân lâm vào tình cảnh thảm sầu.

Trong tác phẩm trọng tâm miêu tả ở phần nào?

– Phần (2).

Đọc kĩ toàn truyện, theo dõi mạch cảm xúc từ đầu đến cuối, chúng ta thấy tác giả đã sử dụng những biện pháp nghệ thuật chủ yếu nào?

– Tương phản và tăng cấp.

Em hiểu thế nào là phép tương phản tăng cấp?

– Tương phản tăng cấp là dùng từ ngữ để diễn tả những ý đối lập, trái ngược nhau trong cùng một văn cảnh – càng lúc càng mạnh.

-Em hãy chỉ ra hai mặt tương phản cơ bản trong truyện?

– Một bên là cảnh tượng nhân dân đang vật lộn căng thẳng, vất vả đến cực độ trước nguy cơ đê vỡ.

– Một bên là cảnh quan phủ cùng nha lại, chánh tổng lao vào cuộc tổ tôm ngay trong khi đi hộ đê.

– Với nghệ thuật tương phản tác giả đã khắc họa sự việc như thế nào chúng ta sang phần II.

II. TÌM HIỂU VĂN BẢN: 1 Cảnh hộ đê ngoài đình: Cảnh được tả trong thời gian nào? Thời gian này có ý nghĩa gì?

– Gần 1h đêm, thời điểm khuya khoắt càng làm tăng thêm nỗi khó khăn khi mọi người đều không còn sức, đều mệt mỏi đến cao độ.

Không khí, cảnh tượng hộ đê được miêu tả như thế nào? Qua các chi tiết nào? Sự cố gắng của người dân có đem lại kết quả gì không?

– Không khí, cảnh tượng nhốn nháo, căng thẳng (qua tiếng trống, tiếng tù và, tiếng người xao xác gọi nhau; qua các hoạt động chống đỡ vừa sôi động vừa lộn xộn của người dân).

Em hãy phân tích cảnh tương phản và tăng cấp đoạn này? (ENB).

– Cố gắng nhưng vô vọng, bất lực của sức người trước sức trời, sự yếu kém của thế đê trước thế nước.

– Sức người càng lúc càng mệt mỏi, bất lực nhưng sức trời càng lúc càng mạnh.

Dụng ý nghệ thuật của tác giả ở đoạn này là gì?

– Thế đê càng lúc càng yếu còn thế nước càng lúc càng mạnh.

– Nhằm tô đậm sự bất lực của người dân trước sức trời, sự suy yếu của thế đê trước sức nước.

2. Cảnh đánh tổ tôm trong đình: Cảnh tượng trong đình được miêu tả như thế nào?

Nhận xét: Với cách dùng nghệ thuật tương phản và tăng cấp nhằm muốn tô đậm sự bất lực của sức người trước sức trời, sự yếu kém của thế đê trước thế nước. Thiên tai đang từng lúc giáng xuống đe dọa cuộc sống của người dân.

– Được miêu tả bằng nhiều chi tiết:

– Địa điểm: Đình cao, rất vững chắc, đê vỡ cũng khg có việc gì.

Trong đó nổi bật hình ảnh nhân vật trung tâm nào?

– Quang cảnh: Tĩnh mịch, yên tĩnh, trang nghiêm nhàn nhã, đường bệ nguy nga.

– Vậy cảnh đánh tổ tôm được tác giả miêu tả như thế nào?

à Đem theo nhiều vật dụng đắt tiền. Chứng tỏ cuộc sống rất quý phái cách biệt với con dân. Nhưng thực ra hắn không hộ đê mà là đang tham gia đánh tổ tôm.

Khi có người vào báo tin đê vỡ, thái độ của quan phủ nha lại như thế nào?

– Có kẻ hầu người hạ khúm núm, sợ sệt. Quan ngồi rất oai vệ, đường bệ, cử chỉ nói năng hống hách, độc đoán của quan với nha lại và tay sai. Còn quang cảnh đánh tổ tôm lúc mau, lúc ung dung, êm ái, lúc vui vẻ, … Tất cả đều say mê tổ tôm đến quên nhiệm vụ.

– Nha lại: Cũng lo sợ, thấy thầy đề run cầm cập nhưng phải theo lệnh quan, chơi bài như một cái máy.

Qua phân tích trên, ta thấy quan phụ mẫu là một ông quan ntn?

– Quan phủ: Đổ trách nhiệm cho cấp dưới, cho dân, đe doa, cách cổ bỏ tù, đuổi người báo tin ra ngoài … vẫn say sưa bài sắp ù to.

– Lẽ ra làm quan phụ mẫu phải là người có trách nhiệm chăn dắt con dân là việc chính. Nhưng ở đây trong khi đi hộ đê, mà hắn lại mang theo những vật dụng đắt tiền, có kẻ hầu người hạ thật quý phái, quá cách biệt với con dân, say mê tổ tôm đến quên trách nhiệm. Đây chính là niềm vui táo tợn, một con người lòng lang dạ thú, bất nhân, thất đức, thờ ơ, vô trách nhiệm trước nổi khổ của dân.

Tác giả sử dụng từ ngữ khá sinh động để miêu tả quang cảnh trong đình: tĩnh mịch, xa hoa, đài các, tôn nghiêm. Qua đó ta thấy quan phụ mẫu là tên quan vô trách nhiệm vô lương tâm, hống hách, đam mê cờ bạc, chẳng đoái hoài đến cuộc sống của người dân.

Hãy phát biểu chung về giá trị hiện thực, nhân đạo và nghệ thuật của truyện?

Liên hệ: Là học sinh chúng ta cũng phải có trách nhiệm với lớp học của mình như bảo vệ của công. Nếu là cán sự lớp phải biết chăm lo cho lớp, nhắc nhở các bạn cố gắng học để cả lớp cùng tiến bộ, giúp đỡ các bạn học yếu, các bạn có hoàn cảnh khó khăn …

– Giá trị hiện thực: Phản ánh sự đối lập hoàn toàn giữa cuộc sống và sinh mạng của người dân với bọn quan lại.

– Giá trị nhân đạo: Thể hiện niềm cảm thương của tác giả trước cảnh lầm than cơ cực của người dân.

III. LUYỆN TẬP: Câu 1. Trả lời ngắn.

– Nghệ thuật: Kết hợp thành thạo nghệ thuật tương phản và tăng cấp; có trình độ sử dụng ngôn ngữ khá sinh động; câu văn ngắn gọn.

– Văn bản nào sau đây thuộc thể loại truyện hiện đại?

+ Con hổ cổ nghĩa, + Sống chết mặc bay, + Những trò lố hay là Va- ren và Phan Bội Châu, + Mẹ hiền dạy con, + Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng.

– Truyện Sống chết mặc bay được viết bằng kiểu chữ nào?

– Em có nhận xét như thế nào về tên quan phụ mẫu?

– Qua văn bản, nhà văn dã thể hiện tình cảm, thái độ gì?

Câu 2. Từ truyện ngắn Sống chết mặc bay và các truyện Con hổ có nghĩa, Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng mà em đã dược học ở chương trình Ngữ văn lớp 6 (tập I), em hãy tìm ra những điểm giống và khác trong cách viết của truyện trung đại và truyện ngắn hiện đại.

Câu 3. Nhân vật quan phụ mẫu trong truyện được khắc họa qua nhũng phương diện nào ? Bằng những hình ảnh, chi tiết nào ? Em hãy nhận xét vé nghệ thuật miêu tả nhân vật của tác giả.

Câu 4. Dựa vào truyện ngắn Sống chết mặc bay, em hãy giải thích vì sao tác giả Phạm Duy Tốn lại dùng thành ngữ “lòng lang dạ thú” để chỉ tính cách của quan phụ mẫu?

Câu 5. Hãy chỉ rõ phép tương phản và phép tăng cấp được nhà văn sử dụng trong truyện Sóng chết mặc bay. Nêu hiệu quả của việc sử dụng hai phép nghệ thuật này trong văn bản.

Câu 6. Có bạn cho rằng: có thể đổi nhan đề Sống chết mặc bay thành Vỡ đê hay Nỗi khổ của người dân. Em có đồng ý với ý kiến đó không? Vì sao?

Câu 7. Trình bày ngắn gọn giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo và giá trị nghệ thuật của tác phẩm Sống chết mặc bay

Phân Tích Truyện Ngắn “Sống Chết Mặc Bay” Của Phạm Duy Tốn

Phân tích truyện ngắn “Sống chết mặc bay” của Phạm Duy Tốn

Phạm Duy Tốn sinh ra trong thời đại lịch sử đầy bão tố. Tuy viết ít nhưng những tác phẩm của ông có tầm ảnh hưởng sâu rộng. Ông đã trở thành một trong những người tiên phong mở lối cho giai đoạn thành tựu rực rỡ của nền văn học Việt Nam cách tân giai đoạn sau này. Truyện ngắn Sống chết mặc bay của ông được coi là truyện ngắn đầu tiên theo lối tây phương của văn học Việt Nam và cũng là truyện ngắn đầu tiên của nền văn học mới Việt Nam. Sống chết mặc bay là truyện ngắn tiêu biểu trong sự nghiệp sáng tác của Phạm Duy Tốn và được coi là một trong những tác phẩm mở đầu cho nền văn học hiện thực phê phán sau này.

Sống chết mặc bay được in lần đầu trên tạp chí Nam Phong, số 18, xuất bản năm 1918. Đây là một trong những truyện ngắn đầu tiên của nền văn xuôi hiện đại Việt Nam được viết bằng chữ quốc ngữ. Nhà văn đã tập trung tái hiện một cách khá sinh động bức tranh đối lập giữa đời sống khổ cực của nhân dân với cuộc sống phè phỡn, xa hoa, hưởng lạc của lũ quan lại. Qua tác phẩm, Phạm Duy Tốn đã đả kích, tố cáo manh mẽ sự vỏ lương tâm, thói vô nách nhiệm của bọn quan lại đương thời đã đẩy những người dân vô tội vào cảnh khốn cùng.

Phạm Duy Tốn là một trong những nhà vãn mở dầu cho văn xuôi hiện đại Việt Nam đầu thế kỉ XX. Nội dung văn chương của ông chủ yếu phơi bày thực trạng thối nát, bất công của xã hội thuộc địa nửa phong kiến. Ông đã viết nhiều truyện ngắn : Nước đời lắm nổi, Bực mình, Con người Sở Khanh… Sáng tác của Phạm Duy Tốn làm xúc động lòng người bằng nghệ thuật tả chân những hiộn tượng mà ông quan sát được.

Sống chết mặc bay là một truyện ngắn được coi là bông hoa đầu mùa của nền văn xuôi hiên đại Việt Nam. Sự ra đời của truyện ngắn hiện đại là sự tiếp nối và phát triển thành tựu từ truyện ngắn trung đại. Khác với truyện trung đại chỉ chủ yếu thiên về việc ghi chép lại người thật, việc thật. Cốt truyện nhiều khi còn đơn giản, tính cách, tâm lí nhân vật nhiều khi chưa được tập trung khắc hoạ. Truyện ngắn hiện đại đã chú trọng đến nghệ thuật xây dựng truyện với tình huống truyện gay cấn, tâm lí, tính cách nhân vật, ngôn ngữ độc thoại, đối thoại phong phú hơn.

Đây là một trong những truyện ngắn hiện đại đầu tiên đạt nền móng cho sự hình thành thể loại truyện ngắn hiện đại Việt Nam. Truyện đã lên án gay gắt tên quan phủ “lòng lang dạ thú” và bày tỏ niềm cảm thương trước cảnh “nghìn sầu muôn thảm” của nhân dân do thiên tai và cũng do thái độ vô trách nhiệm của kẻ cầm quyền gây nên.

Toàn bộ truyện ngắn tập trung khắc họa hai cảnh tượng: Cảnh nhân dân hộ đê ngoài trời và cảnh các quan hộ bài trong đình:

Ngay mở đầu truyện, tác giả đã đưa ra một tình huống rất căng thẳng: “Gần một giờ đêm. Trời mưa tẩm tã. Nước sông Nhị Hà lên to quá, khúc đê làng X phủ X xem chừng núng thế lắm, hai ba đoạn đã thẩm lậu rồi, không khéo thì vỡ mất”. Đê còn hay mất ảnh hưởng đến đời sống của toàn bộ dân chúng và quan lại. Trong tình thế “ngàn cân treo sợi tóc” đó, quan phải là người đứng “đầu sóng ngọn gió” cùng với nhân dân hộ dê. Nhưng sự việc diễn ra lại hoàn toàn đối lập với lẽ thông thường ấy. Vì thế, trong tình huống này, nghệ thuật tương phản đã được Phạm Duy Tốn sử dụng triệt để.

Trong khi dân đang hối hả hộ đê thì quan lại say sưa hộ bài. Sự tương phản đến từng chi tiết nhỏ nhất:

Cảnh dân hộ đê: thời gian là gần một giờ đêm. Tình thế vô cùng cấp bách, nguy hiểm, “ngàn cân treo sợi tóc”: khúc để làng X đang bị thẩm lậu, không khéo thì vỡ mất. Đê mà vỡ thì nhan dân khốn khổ biết chừng nào.

Mọi người nhốn nháo, thảm hại. Kẻ cuốc, người thuổng, kẻ dội dát, kẻ vác tre… người nào người đấy ướt lướt thướt như chuột lột. Thế nhưng, sức người khó lòng địch nổi với sức trời, thế đê không sao cự lại với thế nước. Không khíhộ đê náo loan, căng thẳng. Trống đánh liên thanh, ốc thổi vô hồi, tiếng người gọi nhau xao xác.

Trong khi dân chúng lầm than vì thiên tai đang giáng xuống đầu,. Dân cần quan phụ mẫu – quan cha mẹ của dân – vị phúc tinh cứu giúp thì quan đang ở đâu?

Cảnh đê vỡ và quan ù to thật trớ trêu và cây đắng biết bao. Đến phần hai này, thủ pháp tương phản, tăng cấp dã đẩy tình huống truyện lên đến đình điểm. Lúc này, dân không hộ đê nữa mà đã kêu cứu thảm thiết. Còn chiếu bài của quan cũng đang ở thời điểm gay cấn nhất. Quan không chỉ chờ ù mà còn ù rất to bởi thế “ngài chì lăm le chực người ta bốc trúng quân mình chờ mà hạ bài”. Tình thế của dân và quan đều thật căng thẳng.

Thế rồi, ngoài xa, kêu vang dậy trời đất. Tiếng kêu càng lúc càng lớn, lại có tiếng ào ào như thác, tiếng gà, chó, trâu, bà kêu vang tứ phía. Mọi người giật này mình. Duy quan vẫn điềm nhiên, chỉ lăm le chực người ta bốc trúng quân mình chờ mà hạ.

Quan là người duy nhất thản nhiên, ung dung theo đuổi quân bài. Ngài đặt toàn tâm toàn trí cho ván bài cũng như sẵn sàng đánh đổi nó lấy bao nhiêu sinh mạng của những người dân. Mức độ đam mê bài bạc của ngài càng cao thì sự vô trách nhiệm của ngài càng lên tới đỉnh điểm.

Một người nhà quê mình mẩy lấm láp, quần áo ướt đầm, tất tả chạy vào, thở không ra hơi: “Bẩm quan lớn, dễ đê vỡ mất rồi”. Mức độ kêu cứu khẩn cấp của dân tăng lên. Nếu như ở đoạn trên dân còn ở rất xa dê thi đến đây sự xuất hiện của người nhà quê như một nhăn chứng sống hiện diện cho tình cành nhân dân trước hiện thực đê vỡ. Người nhà quê tìm đến quan như tìm đên một phúc tinh của nhân dân

– “Đê vỡ, nước tràn lênh láng, xoáy thành vực sâu, nhà cửa trôi băng…người sống không có chỗ ở, kè chết không có nơi chôn, tình cảnh thảm sầu”. Mọi người giật nảy mình trước tin dữ. Quan đỏ mặt tía tai quay ra quát rằng: “Đê vỡ rổi! Đê vỡ rồi! Thời ông cách cổ chúng mày, thời ông bỏ tù chúng mày”.

Đến khi ván bài ù, quan vỗ tay xuống sập kêu to. Ngài xòe bài, miệng vừa cười vừa nói: “Ù! Thông tôm, chi chi nảy! Điếu mày!”. Niềm vui của quan là niềm vui chà đạp lên bao sinh mạng của nhân dán, bao tiếng kêu cứu. Đam mê cá nhân của quan được thỏa mãn nhưng đánh đổi bằng bao nhân mạng và của cải của người dân. Quả thực, vị quan phủ ấy là kẻ độc ác, phi nhân tính, “lòng lang dạ thú”, mất hết tính người.

Truyện ngắn Sống chết mặc bay chứa đụng giá trị hiện thực và giá tri nhân đạo sâu sắc. Thông qua việc phản ánh sự đối lập hoàn toàn giữa một bên là cuộc sống và sinh hoạt của người dân vô cùng cực khổ, một bên là cuộc sống xa hoa của lũ quan lại, đứng đầu là tên quan phủ “lòng lang dạ thú”, nhà văn đã bày tỏ niềm cảm thương sâu sắc trước cuộc sống lầm than của người dân do thiên tai và do thái độ vô trách nhiệm của bọn cầm quyền gây nên.

Phép tương phản và tăng cấp là hai nét đặc sắc trong nghệ thuật của truyện. Phép tương phản và tăng cấp ở đây đã tập trung thể hiện được sâu sắc hơn giá trị nhân đạo và hiện thực của tác phẩm. Ngoài ra, người đọc còn thấy được nhiều điểm đặc sắc nữa trong nghệ thuật của truyện như tình huống truyện giàu kịch tính, nghệ thuật xây dựng nhân vật sống động, ngôn ngữ nhân vật sinh động, giàu cá tính; ngôn ngữ tác giả giàu cảm xúc, việc sử dụng phép liệt kê đặc sắc… Tuy nhiên, lời văn vẫn còn mang ít nhiều dấu ấn của văn học trung đại ờ thể văn biền ngẫu…

Sống chết mặc bay đã khá thành công trong việc vận dụng nghệ thuật truyện ngắn hiện đại, kết hợp khá thuần thục giữa kể chuyện, miêu tả, đối thoại, đẩy xung đột cảnh ngộ lên rất cao. Tác giả đã xây dựng dược một tình huống truyện độc đáo, sử dụng triệt để thủ pháp đối lập, tương phản, phép liệt kê, tăng cấp… với lối văn đa giọng diêu, lúc thiết tha, xúc động, lúc cay độc, mỉa mai… Thay vì viết những tác phẩm văn xuôi theo khuôn khổ truyền thống, tác phẩm của Phạm Duy tốn đã mở ra cánh cửa sổ đến một thế giới khác, thế giới không chỉ bao gồm trí thức và những tầng lớp trên, mà cả nông dân và những người kéo xe cần lao.

Trong Sống chết mặc bay, tác giả đã tái hiên khá sinh động bức tranh đối lập giữa đời sống khổ cực của nhân dân với cuộc sống phè phỡn, xa hoa của lũ quan lại. Viết Sống chết mặc bay, Phạm Duy Tốn đã mạnh mẽ tố cáo thói vô trách nhiệm của bọn quan lại đương thời. Truyện dụng lên hai bức tranh đời tương phản. Quan là kẻ quan liêu vô trách nhiệm sung sướng đến tột độ được hưởng thụ một món tiền lớn giữa lúc nhân dân dang đau khổ đến mức độ thẳm sâu, không thể đo được. Tình huống truyện diễn biến đến đây quả là căng thẳng, sự tương phản đối lập quả là gay gắt, mâu thuẫn không thể dung hòa được.

Bạn đang đọc nội dung bài viết Tóm Tắt Tác Phẩm Sống Chết Mặc Bay Của Phạm Duy Tốn trên website Athena4me.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!