Cập nhật nội dung chi tiết về Tìm Hiểu Văn Bản: Sóng – Xuân Quỳnh mới nhất trên website Athena4me.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
– Phong cách thơ: Thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng của một tâm hồn phụ nữ nhiều trắc ẩn, vừa hồn nhiên, tươi tắn, vừa chân thành, đằn thắm và luôn da diết trong khát vọng hạnh phúc bình dị đời thường.
– Xuân Quỳnh là một trong số những nhà thơ tiêu biểu nhất của thế hệ nhà thơ trẻ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước
– Xuân Quỳnh từng là diễn viên múa của Đoàn văn công nhân dân Trung ương, là biên tập viên Nhà xuất bản Tác phẩm mới, Ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khóa III
– Xuân Quỳnh xuất thân trong một gia đình công chức, mồ côi mẹ từ nhỏ, Xuân Quỳnh ở với bà nội
2. Tác phẩm
a. Xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác
– Sóng được sáng tác năm 1967 trong chuyến đi thực tê ở vùng biển Diêm Điền (Thái Bình), là một bài thơ đặc sắc viết về tình yêu, rất tiêu biểu cho phong cách thơ Xuân Quỳnh
– Bài thơ in trong tập Hoa dọc chiến hào
b. Bố cục( 4 phần):
– Phần 1 (khổ 1+2) : Sóng – Khát vọng tình yêu của người con gái.
– Phần 2 (khổ 3+4) : Ngọn nguồn của sóng – Truy tìm sự bí ẩn của tình yêu.
– Phần 3 (khổ 5+6+7) : Sóng – Nỗi nhớ thủy chung trong tình yêu.
– Phần 4 (Khổ 8+9) : Những suy tư về cuộc đời và khát vọng trong tình yêu.
II. Trọng tâm kiến thức
1. Sóng – Khát vọng tình yêu của người con gái.
– Hình tượng sóng bao trùm, xuyên suốt bài thơ. Sóng được miêu tả cụ thể, sinh động với nhiều trạng thái mâu thuẫn (lúc dữ dội, ồn ào, lúc lặng lẽ,…) gợi ra vẻ đẹp của thiên nhiên mênh mông.
– Đồng thời sóng cũng được miêu tả có hồn, có tính cách, tâm trạng, mang ý nghĩa biểu tượng. Sóng là hình ảnh ẩn dụ biểu tượng cho tâm hồn, tính cách của người phụ nữ đang yêu, là sự hóa thân, phân thân của cái tôi trữ tình. Sóng song hành cùng em, tuy hai mà một, có lúc phân chia, có lúc hòa nhập nhằm diễn tả một cách mãnh liệt hơn khát vọng tình yêu của nhà thơ.
– Sóng là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của nhà thơ. Âm điệu bài thơ dạt dào, thể thơ năm chữ với cách ngắt nhịp linh hoạt, kết cấu trùng điệp, bài thơ gợi ra nhịp điệu của sóng biển sôi nổi, dạt dào, lúc dịu êm, sâu lắng. Đó cũng là nhịp điệu của sóng lòng đang tràn ngập khát khao tình yêu.
– Tác giả mượn hình ảnh sóng để nói và nghĩ về tình yêu. Hành trình của sóng tìm đến biển là hành trình tình yêu vượt lên cái nhỏ bé, tầm thường để hướng về sự cao thượng, vị tha, đồng điệu. Đó là khát vọng muôn đời của con người trong tình yêu.
– Khổ thơ đầu là trạng thái của sóng – trạng thái tâm hồn của người phụ nữ đang yêu:
Dữ dội và dịu êm Ồn ào và lặng lẽ Sông không hiểu nổi mình Sóng tìm ra tận bể
– Kết cấu đối lập, song hành: dữ dội/ dịu êm, ồn ào/ lặng lẽ.
– Đặt là dịu êm, lặng lẽ ở cuối câu, ý thơ như nghiêng hẳn về phía đó. Xuân Quỳnh mượn trạng thái thất thường, đối lập của sóng để diễn tả những phức tạp, bí ẩn trong tâm trạng người con gái khi yêu. Đó là tâm trạng vừa phong phú, vừa phức tạp của một trái tim phụ nữ nhạy cảm và khát khao yêu đương: có lúc nồng nàn, sôi nổi, đắm say; cũng có lúc dịu dàng, đằm thắm. Những mặt trạng thái ấy mâu thuẫn mà thống nhất với nhau.
– Con sóng không bằng lòng với khuôn khổ nhỏ hẹp của sông, nên nó tìm ra tận bể để hiểu đúng tầm vóc, bản chất của mình.
– Trái tim yêu của người phụ nữ cũng vậy: không chấp nhận sự tầm thường, hạn hẹp, tù túng mà luôn muốn vươn tới cái lớn lao, cao cả để tìm thấy chính mình trong tình yêu. Đó cũng là quan niệm mới mẻ trong tình yêu của nữ sĩ Xuân Quỳnh: sự chủ động, kiêu hãnh khi yêu của người phụ nữ, không nhỏ bé, cam chịu mà mạnh mẽ, táo bạo.
– Hành trình của sóng tìm ra biển là hành trình tình yêu hướng tới cái vô biên, tuyệt đích. Tâm hồn người phụ nữ khi yêu muốn vượt lên những giới hạn tầm thường để tìm đến tình yêu cao đẹp, lớn lao, được là chính mình. Nói cách khác, đó là khát vọng vươn tới sự đồng cảm, thấu hiểu trong tình yêu.
– Khổ thơ thứ hai nói đến tình yêu của tuổi trẻ là khát vọng muôn đời:
Ôi con sóng ngày xưa Và ngày sau vẫn thế Nỗi khát vọng tình yêu Bồi hồi trong ngực trẻ
– Tình yêu là khát vọng chính đáng muôn đời của con người. Sóng trường tồn cùng thời gian cũng như tình yêu muôn đời vẫn bồi hồi, thổn thức trong trái tim con người, nhất là tuổi trẻ. Như vậy, mượn hình ảnh sóng, Xuân Quỳnh đã bộc lộ khát vọng được yêu, được sống hết mình trong tình yêu.
2. Ngọn nguồn của sóng – Truy tìm sự bí ẩn của tình yêu.
– Tình yêu là lẽ tự nhiên như hơi thở, cần thiết như ăn cơm, uống nước hàng ngày. Ấy thế mà tình yêu là gì mà có sức quyến rũ đến như vậy thì chưa ai giải thích được. Ngay đến Xuân Diệu – một nhà thơ tình nổi tiếng, một con người luôn khát khao giao cảm với đời, say đắm với tình yêu mà cũng bất lực:
Làm sao cắt nghĩa được tình yêu Có nghĩa gì đâu một buổi chiều Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt Bằng mây nhè nhẹ gió đìu hiu
– Làm sao có thể cảnh giác được tình yêu. Nó đến lúc nào ta đâu có biết và nó chiếm hồn ta lúc nào ta đâu có hay. Trước một vấn đề khó lí giải như vậy, em làm sao tránh khỏi sự băn khoăn trăn trở:
Trước muôn trùng sóng bể Em nghĩ về anh, em? Em nghĩ về biển lớn, Từ nơi nào sóng lên?
– Em nghĩ nghĩa là em đang thao thức, đang lo lắng, đang đặt ra nhiều câu hỏi.
– Điệp từ em nghĩ làm cho câu thơ đằm lại dịu dàng và càng làm rõ hơn sự suy nghĩ trong lòng em. Và như thế nhà thơ có một chút bối rối ưu tư muốn tìm hiểu về anh về em về biển lớn chứ không phải chỉ quen bồng bềnh, quen si mê, chỉ yêu và đơn thuần chỉ là yêu. Tình yêu trong thơ Xuân Quỳnh không đơn giản, yêu cháy bỏng nồng say nhưng không vì thế mà hời hợt.
– Đến đây, nhân vật trữ tình có vẻ không thống nhất. Nếu ở đoạn thơ trên, em còn giấu mình trong lớp sóng ngoài kia thì đến đoạn này dường như nhà thơ không kìm chế nổi tình yêu đang dâng lên dạt dào trong ngực trẻ. Nhân vật trữ tình đã thoát ra khỏi lớp áo ẩn dụ để xưng em:
Em nghĩ về anh em Em nghĩ về biển lớn Từ nơi nào sóng lên?
– Anh phải chăng là biển lớn, là cuộc đời mênh mông. Em là con sóng dạt dào, là biểu tượng cho một tình yêu trỗi dậy. Xuân Quỳnh nghĩ về tình yêu, về anh nhưng vẫn nghĩ đến cuộc đời chung. Đó là điều đáng quý. Nhà thơ nắm bắt được mối liên hệ giữa hạnh phúc riêng và cuộc sống chung của mọi người.
– Nếu sóng tìm ra tận bể để tự hiểu mình thì em cũng sẽ tìm đến tình yêu anh để hiểu sâu hơn về con người đích thực của em.
– Và trước không gian bao la của biển cả, làm sao em không trăn trở với những câu hỏi tự ngàn xưa:
Sóng bắt đầu từ gió Gió bắt đầu từ đâu Em cũng không biết nữa Khi nào ta yêu nhau?
– Xuân Quỳnh muốn cắt nghĩa về nguồn gốc của sóng để đi tìm lời giải đáp cho câu hỏi về sự khởi nguồn của tình yêu trong trái tìm mình. Nhà thơ muốn dựa vào quy luật của tự nhiên để tìm ra qui luật của tình yêu.
– Lời thú nhận nhỏ nhẹ, thành thực có phần nũng nịu, bối rối: em cũng không biết nữa/ Khi nào ta yêu nhau?. Tình yêu như sóng biển, làm sao hiểu hết được, tình yêu là tiếng nói của cảm xúc, trái tim nên khó lí giải. Cách cắt nghĩa tình yêu chân thành, đầy nữ tình của Xuân Quỳnh.
– Thế là ra tận bể mà sóng vẫn chưa hiểu nổi mình. Em đã hòa nhập vào biển lớn của tình yêu mà nào em đã hiểu em. Em yêu anh từ đâu? Khi nào? Từ cái gì? Ánh mắt, nụ cười, giọng nói?
– Mọi câu hỏi đặt ra đều tha thiết tìm về cội nguồn của nó. Nhưng em cũng không biết nữa. Mà biết để làm gì? Chỉ cần hiểu rằng: Ta vẫn yêu nhau là đủ. Cái thiêng liêng nhất, tuyệt diệu nhất trong tình yêu là sự giao cảm, hòa hợp sâu xa giữa hai tâm hồn, hai nửa cuộc đời tự nguyện gắn bó với nhau để tạo thành một chỉnh thể trọn vẹn, vĩnh viễn không trước cũng không sau.
3. Sóng – Nỗi nhớ thủy chung trong tình yêu.
– Xuân Diệu từng viết:
Uống xong lại khát là tình Gặp rồi lại nhớ là mình với ta
Hay Nguyễn Đình Thi:
Anh nhớ em mỗi bước đường anh bước Mỗi tối anh nằm, mỗi miếng anh ăn
– Còn Xuân Quỳnh thể hiện nỗi nhớ trong tình yêu qua nhiều cung bậc:
+ Trong tình yêu, ta vẫn thường thấy hai mặt yêu và nhớ, yêu say đắm thì nhớ thiết tha:
Cong sóng dưới lòng sâu Con sóng trên mặt nước
+ Đó là những cung bậc khác nhau của nỗi nhớ anh. Dù trên mặt nước hay dưới lòng sâu thì con sóng vẫn đều có bờ. Bờ là nơi đến của sóng, là đối tượng để sóng vuốt ve, vỗ về, là cái đích để đi đâu về đâu sóng lúc nào cũng nhớ đến, cũng không quên, ngay cả đó là ngày hay đêm:
Ôi con sóng nhớ bờ Ngày đêm không ngủ được
+ Nỗi nhớ có cái biểu hiện ra bên ngoài, có cái ẩn chứa tự sâu trong đáy lòng. Vắng anh, em nhớ, khi thức, em nhớ đến anh. Đó là biểu hiện bình thường. Nhưng ở đây, trong mơ em vẫn nhớ. Đó là nỗi nhớ da diết, khắc khoải, thổn thức cứ trằn trọc không yên:
Lòng em nhớ đến anh Cả trong mơ còn thức.
– Lòng thủy chung vừa như một thuộc tính, vừa là bản chất của tình yêu chân chính:
+ Xưa nay, nỗi nhớ luôn gắn liền với khái niệm thời gian vô tận và không gian vô cùng. Với thời gian, nó không có ngày đêm; với không gian, nó không có phương hướng. Không gian có bốn phương là Đông, Tây, Nam, Bắc nhưng trongn tình yêu thì chỉ có một phương duy nhất và đó chính là anh. Trong đời, em quen biết nhiều người, họ có thể hơn hẳn anh thế nhưng em lại chọn anh, yêu anh và chỉ biết có anh. Chỉ riêng anh là khiến em luôn nghĩ tới và hướng về:
Dẫu xuôi về phương Bắc Dẫu ngược về phương Nam Nơi nào em cũng nghĩ Hướng về anh một phương
+ Những người đang yêu bao giờ cũng hướng về nhau, họ là mặt trời suốt đời soi sáng và sưới ấm cho nhau.
+ Dùng hình thức điệp, điệp cấu trúc kết hợp với nghệ thuật đối lập qua cách nói ngược xuôi bắc, ngược nam, tác giả muốn nhấn mạnh rằng: bất chấp sự cách trở của không gian và thời gian, người phụ nữ vẫn giữ vững lời thề vàng đá, vẫn thủy chung son sắt.
+ Tình yêu đẹp là vậy, trong sáng là vậy, mãnh liệt bay bổng là vậy nhưng nó không tránh khỏi những dâu bể của đời thường. Chính vì thế những người đang yêu ngoài sự say mê còn phải đủ nghị lực và lí trí để vượt qua mọi thử thách, giông bão của cuộc đời với niềm tin sẽ tới đích:
Ở ngoài kia đại dương Trăm ngàn con sóng đó Con nào chẳng tới bờ Dù muôn vời cách trở.
+ Những con sóng ở đại dương dù gió xô bão táp tới phương nào đi chăng nữa thì cuối cùng sóng vẫn trở về với bờ. Em cũng như sóng, cho dù gặp bao khó khăn em cũng sẽ vượt qua hết để đến với anh, bởi tình yêu anh đã cho em sức mạnh.
4. Những suy tư về cuộc đời và khát vọng trong tình yêu.
– Từ nỗi nhớ lúc dữ dội – ồn ào, lúc êm đềm – lặng lẽ, ý thơ dồn thành khát vọng sống mãnh liệt của sóng. Sóng tìm đến cái đích cảu tình yêu trong một niềm tin mạnh mẽ:
+ Xuân Quỳnh mượn quy luật của sóng biển, mây trời để diễn tả quy luật của lòng người. Là một phụ nữ nhạy cảm và đa đoan, Xuân Quỳnh ý thức rất đời: cuộc sống là dài, rộng, là muôn vời cách trở.
+ Càng thấp thỏm, lo âu, Xuân Quỳnh càng cháy bỏng một niềm tin tha thiết, cảm động: tình yêu sẽ vượt qua mọi trở ngại để tới đích, như những con sóng con nào chẳng tới bờ và mây vẫn bay về xa.
– Lời thơ cứ thế triền miên cùng sóng. Cuối cùng sóng hiện ra trong khát khao hạnh phúc mãnh liệt nhất: khát khao tình yêu vĩnh hằng, bất tử:
Làm sao được tan ra Thành trăm con sóng nhỏ Giữa biển lớn tình yêu Để ngàn năm còn vỗ.
+ Đứng trước biển, đối diện với cái mênh mông rộng lớn của thời gian và không gian Xuân Quỳnh ý thức được sự hữu hạn của đời người và sự mong manh của hạnh phúc.
+ Nhà thơ muốn được có mặt mãi trên cõi đời để được sống và bất tử trong tình yêu. Khát vọng hóa thân và phân thân trong sóng thật mạnh mẽ. Hai chữ “tan ra” vừa cháy bỏng nồng nhiệt, vừa thăm thẳm nỗi niềm phụ nữ – cái thăm thẳm của hai khát vọng hòa làm một: yêu hết mình và dâng hiến hết mình. Đó cũng chính là vẻ đẹp thánh thiện của người phụ nữ trong tình yêu.
III. Tổng kết
1. Nội dung
Qua hình tượng sóng, trên cơ sở khám phá sự tương đồng, hòa hợp giữa sóng và em, bài thơ diễn tả tình yêu của người phụ nữ thiết tha, nồng nàn, chung thủy, muốn vượt lên thử thách của thời gian và sự hữu hạn của đời người. Từ đó thấy được tình yêu là một tình cảm cao đẹp, một hạnh phúc lớn lao của con người.
2. Nghệ thuật
– Bài thơ mang âm hưởng dạt dào, nhịp nhàng, gợi nhịp độ của con sóng liên tiếp.
– Thể thơ 5 chữ với những dòng thơ thường là không ngắt nhịp, các câu thơ ngắn, đều đặn gợi sự nhịp nhàng.
– Thành công trong việc xây dựng hình tượng sóng: hình tượng sóng trở đi trở lại với nhiều cung bậc, gợi nhũng trạng thái cảm xúc đa dạng trong cõi lòng người con gái đang yêu.
Soạn Bài Sóng (Xuân Quỳnh)
Soạn bài Sóng (Xuân Quỳnh)
Bố cục
Phần 1 (2 khổ đầu) mối quan hệ giữa sóng và tình yêu
Phần 2 ( 4 khổ tiếp): tình yêu, nỗi nhớ của người con gái khi yêu
Phần 3 (còn lại) khát vọng được yêu thương, thấu hiểu
Câu 1 (trang 156 sgk ngữ văn 12 tập 1):
Âm điệu, nhịp điệu của bài thơ xao xuyến, rộn ràng, được tạo bởi các yếu tố:
– Những câu thơ năm chữ ngắn gọn
– Nhịp thơ lúc nhịp nhàng, lúc dồn dập
– Vần thơ: đa dạng, linh hoạt bằng các vần chân, vần cách, gợi hình ảnh các đợt sóng nối tiếp nhau.
Câu 2 (trang 156 sgk ngữ văn 12 tập 1):
Hình tượng sóng mang nghĩa thực và nghĩa biểu tượng, gợi lên âm hưởng sóng biển: dạt dào, nhẹ nhàng
– Song hành hai hình tượng “sóng” và “em” diễn tả chân thực tình yêu đôi lứa
+ Trong khổ thơ 1 và 2, sóng được đặt trong những trạng thái đối cực: dữ dội – dịu êm, ồn ào – lặng lẽ gợi sự liên kết trạng thái tâm lí của tình yêu
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể
+ Hành trình của sóng chính là khát vọng tìm cái rộng lớn, cao cả – biển cả
→ Khát vọng chinh phục tình yêu, khát vọng muôn đời của con người
– Khổ 3 và khổ 4, hình tượng sóng, nhà thơ nhận thức về tình yêu của mình- tình yêu sánh ngang biển lớn, cuộc đời.
– Tác giả đặt câu hỏi hoài nghi, băn khoăn về nguồn cội của sóng, của tình yêu thương nhưng bất lực
Khổ thơ 5 và 6: Nỗi nhớ trong tình yêu được so sánh bằng những liên tưởng độc đáo, thú vị
+ Nỗi nhớ trong lòng người con gái đang yêu: thao thức khi ngủ, thức, da diết, mãnh liệt
Trong nỗi nhớ da diết, nhà thơ thể hiện được sự thủy chung tuyệt đối, niềm tin son sắt vào tình yêu- cuộc sống, tình yêu nào cũng tới bến bờ hạnh phúc
– Khổ 8: Câu thơ mang màu sắc triết lí, thể hiện sự lo âu, trăn trở
+ Sự khao khát hạnh phúc hiện tại, ý thức sâu sắc sự hữu hạn của đời người và sự mong manh bền chặt của tình yêu
– Khổ 9: Ước nguyện chân thành được hòa mình vào biển lớn, tình yêu và cuộc đời
+ Khát vọng sống hết mình cho tình yêu với sự hi sinh, dâng hiến
Câu 3 (trang 156 sgk ngữ văn 12 tập 1):
Sóng và em có quan hệ tương đồng, sóng ẩn dụ cho tình yêu cũng như tâm hồn nhân vật “em”
+ Sóng và em lúc hòa hợp, lúc tách rời
+ Kết cấu song hành làm tăng hiệu quả của nhận thức, khám phá chủ thể trữ tình, tình yêu thủy chung, bất diệt
– Kết cấu bài thơ là kết cấu liền mạch của suy nghĩ, cảm xúc: cô gái nhìn ra biển cả, quan sát và suy ngẫm về tình yêu, những biến chuyển tinh tế
Người phụ nữ đang yêu tìm thấy sự tương đồng giữa các trạng thái tâm hồn, với những con sóng
+ Sự đa dạng muôn màu sắc, trạng thái: dữ dội và dịu êm/ Ồn ào và lặng lẽ
+ Không rõ cội nguồn, không thể định nghĩa, lý giải được
+ Sự mãnh liệt, sâu sắc trong khát khao sống, yêu thương
+ Sự chung thủy, gắn bó bền chặt
→ Sóng và em là sự cộng hưởng trọn vẹn trong suốt bài thơ, trải qua nhiều cung bậc tình yêu để hòa quyện vào nhau
→ Hình tượng sóng là ước vọng đời thường trong tình yêu của người phụ nữ
Câu 4 (trang 157 sgk ngữ văn 12 tập 1):
Bài thơ là lời tự bộc bạch của một tâm hồn phụ nữ đang yêu:
– Tâm hồn sôi nổi, mạnh mẽ, khao khát yêu thương
– Là người thấu hiểu, chung thủy với tình yêu
– Tâm hồn bộc trực, thành thực bày tỏ tình yêu nhưng vẫn đầy nữ tính, chung thủy
Luyện tập
Có nhiều bài thơ so sánh tình yêu với sóng và biển, những câu thơ, bài thơ đó:
+ Khúc thơ tình người lính biển (Trần Đăng Khoa)
+ Biển ( Xuân Diệu)
+ Hai nửa vầng trăng (Hoàng Hữu)
Bài giảng: Sóng (Xuân Quỳnh) – Cô Nguyễn Ngọc Anh (Giáo viên VietJack)
Ngân hàng trắc nghiệm miễn phí ôn thi THPT Quốc Gia tại chúng tôi
Đọc Hiểu Văn Bản Sóng (Xuân Quỳnh) Gắn Liền Với Đời Sống Thực Tiễn
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN
======
NGÔ THỊ HỒNG NGỌC
ĐỌC HIỂU VĂN BẢN “SÓNG” (XUÂN QUỲNH) GẮN LIỀN VỚI ĐỜI SỐNG THỰC TIỄN
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Phƣơng pháp dạy học Ngữ văn
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học ThS. NGUYỄN THỊ MAI HƢƠNG
HÀ NỘI – 2015
LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành khóa luận này, tôi xin trân trọng bày tỏ lòng biết ơn tới Ban giám hiệu trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã tạo điều kiện cho tôi có cơ hội học tập, rèn luyện và có cơ hội được thực hành nghiên cứu khoa học tại trường. Đồng thời tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong tổ Phương pháp dạy học Ngữ văn cùng toàn thể các thầy cô trong khoa Ngữ văn đã nhiệt tình giảng dạy. Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Thạc sĩ Nguyễn Thị Mai Hƣơng, người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ và truyền đạt cho tôi những kinh nghiệm khoa học quý báu giúp tôi hoàn thành khóa luận đúng thời hạn. Cuối cùng, tôi xin được gửi lời cảm ơn chân thành tới gia đình, người thân, bạn bè đã động viên, chia sẻ và tạo mọi điều kiện để tôi hoàn thành khóa luận này. Tôi xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, ngày 26 tháng 4 năm 2015 Tác giả khóa luận
Ngô Thị Hồng Ngọc
LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan khóa luận này là kết quả nghiên cứu của cá nhân tôi, dưới sự hướng dẫn của Thạc sĩ Nguyễn Thị Mai Hƣơng, chưa được công bố trong bất kì công trình nghiên cứu nào. Nếu có gì sai sót, tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm theo đúng quy định của việc nghiên cứu khoa học. Hà Nội, ngày 26 tháng 4 năm 2015 Tác giả khóa luận
Ngô Thị Hồng Ngọc
DANH MỤC KÍ HIỆU VIẾT TẮT
Kí hiệu
Ý nghĩa
THPT
Trung học phổ thông
HS
Học sinh
GV
Giáo viên
GS
Giáo sư
TS
Tiến sĩ
SGK
Sách giáo khoa
Nxb GD
Nhà xuất bản giáo dục
MỤC LỤC MỞ ĐẦU …………………………………………………………………………………………….. 1 1. Lý do chọn đề tài …………………………………………………………………………… 1 2. Lịch sử vấn đề ……………………………………………………………………………….. 2 3. Mục đích nghiên cứu ……………………………………………………………………… 3 4. Nhiệm vụ nghiên cứu……………………………………………………………………… 4 5. Đối tượng nghiên cứu …………………………………………………………………….. 4 6. Phạm vi nghiên cứu ……………………………………………………………………….. 4 7. Phương pháp nghiên cứu ………………………………………………………………… 4 8. Dự kiến đóng góp ………………………………………………………………………….. 5 9. Bố cục khóa luận …………………………………………………………………………… 5 NỘI DUNG …………………………………………………………………………………………. 6 Chương 1.CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN …………………………….. 6 1.1. Cơ sở lí luận ……………………………………………………………………………….. 6 1.2. Cơ sở thực tiễn ……………………………………………………………………………. 9 1.2.1. Đọc hiểu văn bản trữ tình gắn liền với đời sống thực tiễn …………. 11 1.2.2. Thực trạng tiếp nhận văn bản “Sóng” (Xuân Quỳnh) trong trường THPT ………………………………………………………………………………………….. 11 Chương 2. CÁC BIỆN PHÁP DẠY HỌC ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN “SÓNG” (NGỮ VĂN 12) GẮN LIỀN VỚI ĐỜI SỐNG THỰC TIỄN ………………….. 14 2.1. Đặc trưng của văn bản trữ tình ……………………………………………………. 14 2.1.1. Khái niệm văn bản trữ tình ……………………………………………………. 14 2.1.2. Đặc trưng của văn bản trữ tình ………………………………………………. 15 2.1.2.1. Lấy việc bộc lộ nội tâm con người làm mục đích, nội dung biểu đạt………………………………………………………………15 2.1.2.2. Chủ thể trữ tình…………………………………………………………16 2.1.2.3. Ngôn ngữ trữ tình……………………………………………19
2.2. Các biện pháp dạy học đọc – hiểu văn bản “Sóng” (Ngữ văn 12) gắn liền với đời sống thực tiễn ………………………………………………………………… 21 2.2.1. Biện pháp chung ………………………………………………………………….. 21 2.2.1.1. Đọc tiếp cận văn bản “Sóng” (Xuân Quỳnh)…………………21 2.2.1.2.Tái hiện hình tượng nhân vật trữ tình: Sóng và Em…………..23 2.2.1.3. Đọc hiểu văn bản “Song” (Xuân Quỳnh)…………………….23 2.2.2. Phương hướng dạy học đọc – hiểu văn bản “Sóng” (Ngữ văn 12) gắn liền với đời sống thực tiễn ……………………………………………………….. 25 2.2.2.1. Dạy đọc hiểu văn bản “Sóng” (Xuân Quỳnh) trong trường THPT gắn liền với đời sống thực tiễn…………………………………..25 2.2.2.2. Quan niệm nhân sinh mới mẻ trong văn bản “Sóng” (Xuân Quỳnh)…………………………………………………………………..35 Chương 3. GIÁO ÁN THỰC NGHIỆM ………………………………………………… 41 KẾT LUẬN ……………………………………………………………………………………….. 54 TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC
MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Môn Ngữ văn là một trong những môn quan trọng trong trường THPT và vấn đề giảng dạy Ngữ văn luôn là vấn đề được mọi người quan tâm. Bởi kiến thức trong môn học có vai trò đặc biệt đối với đời sống con người. Trong đó, tri thức trong văn học đem lại giá trị sống phong phú, giúp con người hoàn thiện mình hơn. Tuy nhiên với giới trẻ hiện nay và đặc biệt là học sinh THPT thì việc học văn cũng như tiếp nhận các tác phẩm văn học ngày càng trở nên khó khăn. Học sinh thờ ơ với các văn bản trữ tình vì xa rời hiện thực cuộc sống. Do vậy, việc học văn càng trở nên nhàm chán vô vị, học sinh học với thái độ học đối phó. Việc học sinh trong nhà trường THPT quay lưng lại với các tác phẩm trữ tình nói riêng và bộ môn Ngữ văn nói chung nguyên nhân không chỉ là thái độ vô cảm của các em trong việc cảm thụ hay tiếp nhận một tác phẩm văn học. Có thể văn học trữ tình còn xa lạ với các em do khoảng cách, thời gian tâm lí càng khiến học sinh không tiếp nhận. Bên cạnh đó là phương pháp dạy học của một số giáo viên vẫn dạy văn theo lối truyền thống, chưa thực sự có ý thức đổi mới trong phương pháp dạy cũng như cách truyền đạt nên không tạo ra cho học sinh sự hứng thú khi học. Từ những nguyên nhân trên, chúng tôi thiết nghĩ cần phải tạo tâm thế hứng thú cho học sinh khi học bộ môn Ngữ văn, đặc biệt là các văn bản trữ tình, người dạy cần phải tích cực đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn trong nhà trường THPT. Ý thức được vấn đề đó, người dạy học sẽ có cái nhìn toàn diện tích cực về văn học và vai trò của bộ môn Ngữ văn trong đời sống. Nâng cao chất lượng dạy học nhằm truyền đạt những kiến thức không thể thiếu mang giá trị nhân văn là cách chúng ta mang đến cho học sinh những
1
hành trang tinh thần quý giá với đời sống tình cảm phong phú để các em trưởng thành làm người, hiểu cuộc đời, từ đó biết yêu thương, biết chia sẻ để sống có ý nghĩa hơn cho bản thân, gia đình và cho xã hội. Trên tinh thần đổi mới của Bộ Giáo dục về dạy – học Ngữ văn, chúng tôi chọn đề tài: Đọc – hiểu văn bản “Sóng” (Xuân Quỳnh) gắn liền với đời sống thực tiễn với mong muốn đi tiếp con đường mà các nhà giáo dục quan tâm. Nghiên cứu này chúng tôi muốn đóng góp một phần nhỏ vào việc dạy học với hi vọng tác phẩm sẽ đến gần hơn và trở nên thiết thực hơn với học sinh THPT. 2. Lịch sử vấn đề Bàn về vấn đề phương pháp dạy học và dạy học Ngữ văn có từ rất sớm, xuất phát đầu tiên ở các nước phương Tây. Xuất hiện với một số cuốn sách như: “Phương pháp dạy học văn” của IA Rex. Trình bày phương pháp học một cách rất cụ thể, nhấn mạnh vai trò đọc sáng tạo. Coi đó là phương pháp đặc thù nhằm phát triển năng lực cảm thụ văn học trên phương diện nghệ thuật thông qua Đọc – hiểu. “Phương pháp dạy học văn ở trường THPT” V.A Nhiconxki (Ngọc Toàn và Bùi Lê dịch) cho rằng dạy học văn có vị trí và vai trò chủ đạo của người học trong nhà trường và hoạt động đọc diễn cảm trong quá trình tiếp nhận. Ở Việt Nam những năm 80, những cuốn sách bàn về đọc văn và văn học như:”Cảm thụ văn học giảng dạy văn học” của GS Phan Trọng Luận: Tầm quan trọng của việc đọc, đọc từng câu, từng chữ không thể nhảy cóc. Đọc không chỉ dừng lại ở việc quan sát bề mặt câu chữ mà phải thấy được bề sâu từng ý nghĩa mà nhà văn gửi gắm trong tác phẩm: “Văn học và nhân cách” GS Nguyễn Thanh Hùng cũng nhấn mạnh đến sự phát triển của quá trình đọc
2
được hoạt động liên tưởng, tưởng và giới thiệu nghệ thuật. Ngoài ra còn có nhiều bài báo, chuyên đề, chuyên luận như: Báo văn nghệ (14.2.1988)”Môn văn như thực trạng và giải pháp”, GS Trần Đình Sử. Đề cập tới ba mục tiêu của việc dạy văn, rèn luyện khả năng đọc hiểu, bám sát tác phẩm không suy đoán tùy tiện. Trong bài viết: “Dạy đọc hiểu là tạo nên nền tảng văn hóa cho người đọc”, GSTS Nguyễn Thanh Hùng chỉ ra việc đọc hiểu giúp hình thành và củng cố, phát triển năng lực, nắm vững và sử dụng Tiếng Việt một cách thành thạo. Từ bình diện văn hóa ấy, bài viết xác định: Đọc là một hoạt động có văn hóa, có ý nghĩa cơ bản cho sự phát triển của nhân cách. Chuyên đề: “Đọc và tiếp nhận văn chương”, GSTS Nguyễn Thanh Hùng khẳng định: Tiếp nhận tác phẩm văn học là một quá trình vì nó chỉ diễn ra một hoạt động duy nhất là hoạt động đọc văn. GS Phan Trọng Luận trong chuyên đề: “Cảm thụ văn học, giảng dạy văn học” đã phân tích tầm quan trọng của hoạt động đọc. Đọc từ chữ đầu đến chữ cuối, đọc để tri giác bằng mắt, tai tất cả các hình ảnh, chi tiết, từ ngữ. Quá trình đọc là quá trình thâm nhập từng bước vào nội dung ý nghĩa của tác phẩm. Tất cả các nghiên cứu trên của văn chương cho rằng đọc là hoạt động đầu tiên của tiếp nhận văn chương. Dựa vào nghiên cứu trên khóa luận này chúng tôi tiến hành tổ chức: Đọc – hiểu văn bản “Sóng” (Xuân Quỳnh) trong nhà trường THPT gắn liền với đời sống thực tiễn. 3. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu đề tài này chúng tôi nhằm mục đích: Xác lập các hoạt động các bước dạy văn bản “Sóng” (Xuân Quỳnh) theo hướng đọc hiểu. Làm rõ các vấn đề xung quanh gắn với đời sống thực tiễn. Khóa luận sẽ đi nghiên cứu đặc điểm của thể loại trữ tình góp phần xây dựng quy trình dạy
3
văn gắn liền với đời sống. Góp phần nâng cao chất lượng dạy và học văn ở trường THPT theo hướng dạy văn là dạy học sinh biết cách làm người – con người không chỉ có tri thức mà còn có khả năng thích ứng cao, biết giao tiếp, ứng xử trong đời sống. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu Khóa luận thực hiện các nhiệm vụ sau: Tìm hiểu cơ sở của dạy học Ngữ văn với đời sống và quy trình dạy học đọc – hiểu văn bản trữ tình ở trường THPT gắn với đời sống thực tiễn. Vận dụng những hiểu biết trên để đọc – hiểu văn bản “Sóng” của Xuân Quỳnh (SGK Ngữ văn lớp 12 tập 1 Nxb GD) trong trường THPT gắn với đời sống thực tiễn. 5. Đối tƣợng nghiên cứu Chúng tôi tập trung nghiên cứu: Lí thuyết đọc – hiểu, đọc – hiểu văn bản gắn với đời sống thực tiễn. Vận dụng và hướng dẫn HS biết cách đọc hiểu văn bản “Sóng” của Xuân Quỳnh (SGK Ngữ văn lớp 12 tập 1 Nxb GD) trong trường THPT gắn liền với đời sống thực tiễn. 6. Phạm vi nghiên cứu Đề tài nghiên cứu trong phạm vi các đặc trưng chung của thể loại trữ tình mà cụ thể là các đặc trưng của thơ trữ tình. Đặc biệt, đi sâu vào hoạt động đọc – hiểu văn bản “Sóng” (Xuân Quỳnh) trong trường THPT gắn liền với đời sống thực tiễn. 7. Phƣơng pháp nghiên cứu Phương pháp lí thuyết: phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp so sánh đối chiếu. Phương pháp thực nghiệm: vận dụng lí thuyết đọc – hiểu vào thiết kế bài giảng “Sóng” của Xuân Quỳnh (SGK Ngữ văn 12 tập 2, Nxb GD) trong trường THPT gắn liền với đời sống thực tiễn.
4
8. Dự kiến đóng góp Định hướng việc dạy học văn bản trữ tình trong trường THPT gắn liền với đời sống thực tiễn. Chúng tôi muốn góp một phần nhỏ vào việc đổi mới phương pháp dạy học. Đồng thời, bản thân có dịp nâng cao kiến thức, trau dồi kinh nghiệm phục vụ sự nghiệp trong tương lai. Bên cạnh đó, khóa luận góp phần hình thành và phát triển khả năng tìm tòi và nghiên cứu khoa học của người viết. 9. Bố cục khóa luận Khóa luận gồm 3 phần: – Mở đầu – Nội dung – Kết luận
5
NỘI DUNG
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN 1.1. Cơ sở lí luận Trong thời đại công nghệ thông tin hiện đại như ngày nay, con người có rất nhiều cách để tiếp cận một tác phẩm văn học. Trong đó đọc – hiểu là phương pháp phổ biến nhất để gần hơn với các tác phẩm văn học vì văn chương là nghệ thuật ngôn từ. Theo SGK Ngữ văn nâng cao lớp 10: Đọc là “hoạt động nắm bắt ý nghĩa trong các kí hiệu của văn bản, khác với nghe là hoạt động nắm bắt ý nghĩa từ tín hiệu âm thanh”. Đọc ở đây đòi hỏi hiểu nội dung từ ngữ, tình cảm, cái đẹp của văn bản và có thể sử dụng văn bản đó vào đời sống cá nhân và xã hội. Hiểu là nắm được những thông tin chính của văn bản và ý nghĩa mà tác giả muốn gửi gắm, bên cạnh đó giải thích và biểu đạt được cái hay của văn bản. Hiểu là ngộ ra, nhận ra những triết lý nhân sinh mà tác giả gửi gắm qua từng văn bản. Đồng thời thời cũng là sự bổ sung những ý kiến mới tăng thêm giá trị cho tác phẩm. Theo chúng tôi Nguyễn Thanh Hùng thì “Đọc – hiểu là đọc cái chủ quan của người viết bằng cách đồng hóa tâm hồn, tình cảm, suy nghĩ của mình vào trang sách. Đọc – hiểu không chỉ là tái tạo âm thanh, từ và chữ viết mà còn là quá trình nhuần thấm tín hiệu nghệ thuật chưa mã hóa đồng thời với việc huy động vốn sống, kinh nghiệm cá nhân của người đọc để lựa chọn giá trị tư tưởng thẩm mĩ và ý nghĩa vốn có của văn chương. Đọc – hiểu là đón đầu những gì đang đọc qua từng từ, từng câu, từng đoạn rồi mới quay về với những gì đã đọc để kiểm chứng và đi tìm sự hợp sức của tác giả để tác phẩm được tái tạo trong tính cụ thể và giàu tưởng tượng”. [5,tr.5] Trong cuốn “Hiểu văn dạy văn” chúng tôi Nguyễn Thanh Hùng khẳng
6
định: Đọc – hiểu không những là những hình thức tiếp nhận nội dung, vẻ đẹp thẩm mĩ của văn bản đó mà còn là hoạt động tâm sinh lí, có tính trực giác và khái quát. Nó hàm chứa trong đó kinh nghiệm cá nhân của bạn đọc. Đây là mối quan hệ giữa chủ thể sáng tác và chủ thể tiếp nhận, tạo ra quá trình giao tiếp ngầm giữa nhà văn và bạn đọc. Người đọc chính là người đồng sáng tạo trong văn chương. Còn theo GS Nguyễn Thái Hòa: Đọc – hiểu là một phương pháp: “Nói một cách khái quát dù đơn giản hay phức tạp đều là hành vi ngôn ngữ, sử dụng linh hoạt một thủ pháp, thao tác bằng cơ quan thị giác và thính giác để tiếp nhận và phân tích, giải mã và ghi nhớ nội dung thông tin, cấu trúc văn bản”. GS đã chỉ ra đọc – hiểu là một hành vi ngôn ngữ và coi đó là một thao tác dùng thị giác và thình giác. Người đọc đi tìm hiểu nội dung và nghệ thuật của văn bản, không chỉ vậy đọc – hiểu còn là quá trình ghi nhớ nội dung thông tin và cấu trúc văn bản. Sách giáo viên Ngữ văn 6 đã nêu ra khái niệm đầu tiên về đọc – hiểu, về phương pháp đọc – hiểu: “Cách làm chủ yếu vẫn là bằng hình thức nêu các câu hỏi hướng dẫn nhưng nhấn mạnh phương châm đề cao công việc hoạt động của học sinh, nhằm tìm hiểu văn bản theo 3 hướng sau: Đọc – hiểu; suy nghĩ – vận dụng; liên tưởng – tích lũy các phương pháp dạy học hiện đại”. Từ những ý kiến và hiểu biết trên, chúng tôi đi đến xác lập khái niệm về phương pháp đọc – hiểu trên tinh thần tham khảo, học hỏi: Theo nghĩa rộng: Đọc – hiểu là thuật ngữ chỉ chung cho phương thức và mục đích của việc lĩnh hội tri thức và nắm bắt thông tin. Đó là hoạt động nhận thức nói chung thông qua con đường giải mã văn bản bằng ngôn từ. Theo nghĩa hẹp: Đọc – hiểu là hoạt động thưởng thức nghệ thuật ngôn từ, hưởng thụ thẩm mĩ của con người. Nó bao gồm nhiều hành động thể chất và thao tác tư duy (tưởng tượng, liên tưởng, phán đoán…) để đi đến đích là
7
8
9
Những tác phẩm được lựa chọn trong nhà trường có một giá trị tiêu biểu “quý hồ tinh bất quý hồ đa”. Nội dung đã được sàng lọc, xác định qua thời gian nên mang tính thời sự và có giá trị thực tiễn. Xã hội càng phát triển, đặc biệt trong thời đại hội nhập, nhu cầu vươn tới một nền giáo dục chất lượng cao, đào tạo ra những con người có khả năng thích nghi với cuộc sống, giải quyết những vấn đề thiết thực của cuộc sống ngày càng cấp thiết. Đó là cái đích hướng của giáo dục, trong đó Ngữ văn là một môn học có vai trò rất quan trọng. Từ trước tới nay, môn Ngữ văn được coi là môn học đặc thù với rất nhiều đặc tính: Vừa rèn luyện về ngôn ngữ, rèn luyện tư duy hình tượng cũng như khả năng sáng tạo của học sinh, vừa rèn luyện khả năng cảm thụ văn chương lại vừa tăng khả năng giáo dục nhân cách, đạo đức. Mục đích của việc dạy văn trong nhà trường là đào tạo ra những con người có tư duy độc lập, sáng tạo, có kĩ năng đọc, kĩ năng viết và kĩ năng đáp ứng các nhu cầu trong cuộc sống. Tuy nhiên, do những nguyên nhân chủ quan và khách quan, việc dạy và học Ngữ văn trong nhà trường hiện nay chưa đáp ứng được những nhu cầu trên. Theo điều tra của nhiều công trình nghiên cứu về việc dạy – học văn hiện nay, kết quả học tập môn Ngữ văn rất đáng báo động. Nhiều học sinh không biết cách viết như thế nào cho hợp lí một bài văn, không biết cách hành văn thậm chí còn không chịu tìm hiểu văn bản trong chương trình cũng như các sách tham khảo bên ngoài. Đáng nói hơn là nhiều học sinh, sinh viên ra trường vẫn không biết cách viết một lá đơn xin việc, không trình bày được ý tưởng trong công viêc một cách mạch lạc…tức là đã thiếu đi những kĩ năng sống cơ bản lẽ ra phải được trang bị và môn Ngữ văn là yếu tố giúp hình thành những kĩ năng cơ bản đấy. Vì vậy, dạy học Ngữ văn trong nhà trường THPT gắn liền với đời sống thực tiễn là vấn đề cần thiết.
10
1.2.1. Đọc hiểu văn bản trữ tình gắn liền với đời sống thực tiễn Như đã trình bày ở lí do chọn đề tài: Đối với những văn bản văn chương thuộc thể loại trữ tình, học sinh thường có quan niệm chúng quá lãng mạn, xa rời thực tế cuộc sống và cho rằng đó chỉ là cảm nhận của giới văn nghệ sĩ nên tiếp nhận văn bản trữ tình theo hướng “học cho xong”. Trong thực tế, những văn bản trữ tình lại mang giá trị nhân sinh tích cực mà học sinh chưa thật sự khám phá hoặc chưa muốn khám phá. Người giáo viên với vai trò hướng dẫn tổ chức hoạt động học của học sinh chính là chiếc cầu nối giúp học sinh nhận ra và tiếp thu những giá trị đó qua phương pháp đọc – hiểu văn bản. Nếu như trong những giờ dạy học đọc – hiểu văn bản trữ tình giáo viên có thể dẫn dắt học sinh tới những giá trị nhân sinh thực tiễn, học sinh có thể áp dụng vào trong cuộc sống của mình thì chắc chắn sẽ không còn khô khan với các em nữa mà thay vào đó học sinh sẽ hào hứng hơn, tiếp thu hiệu quả hơn. Trong giờ học giáo viên giúp học sinh biết rung cảm với nhịp đập trái tim con người trước cuộc sống muôn màu, bồi đắp lòng tin yêu con người và cuộc sống, biết căm ghét những gì hạ thấp nhân phẩm và ngăn cản sự phát triển toàn diện của con người. Nếu không gắn với lợi ích thực tiễn đặc biệt trong môi trường xã hội công nghiệp hóa – hiện đại hóa hiện nay thì việc dạy đọc – hiểu văn bản trữ tình trong nhà trường THPT sẽ trở nên nặng nề, giáo điều và không đạt được hiệu quả như mong muốn. 1.2.2. Thực trạng tiếp nhận văn bản “Sóng” (Xuân Quỳnh) trong trƣờng THPT Việc đổi mới phương pháp dạy học trong nhà trường phổ thông trong đó có việc đổi mới phương pháp dạy học văn theo tinh thần khoa học hiện đại đã và đang diễn ra phổ biến và thu được kết quả khả quan. Việc chúng tôi chọn đề tài này xuất phát từ yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học đã được quy định tại Luật giáo dục của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 14
11
tháng 6 năm 2005 ở Khoản 2 Điều 5: “Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học, bồi dưỡng cho người học khả năng tự học, lòng say mê tự học và ý chí vươn lên”. Đặc điểm cấu trúc chương trình THPT hiện nay quan tâm đến việc dạy tác phẩm văn học theo thể loại. Nhiều văn bản mới như văn bản nhật dụng được đưa vào chương trình. Vì vậy, nghiên cứu cảm thụ không chỉ đóng khung một cách phiến diện vào vấn đề hứng thú mà cần chú ý nhiều hơn vào giá trị thực tiễn (gắn liền với tâm lí, sinh lí, xã hội, mĩ học…). Không thể dạy văn theo cách tĩnh và thiếu mối liên hệ biện chứng giữa văn học và thực tế cuộc sống, khuynh hướng khoa học ngày nay yêu cầu một cách nghiêm ngặt về khảo nghiệm thực tiễn trữ tình. Bởi những đặc trưng rất riêng của văn bản trữ tình so với các loại văn bản khác, đòi hỏi học sinh phải có năng lực cảm thụ văn chương mới có thể phân tích, cắt nghĩa, bình giá những chi tiết, hình ảnh trong văn bản. Trong khi trên thực tế, học sinh không có hứng thú với những bài thơ trung đại bởi chúng khó hiểu, công thức, cũng không có hứng thú với thơ hiện đại bởi cho rằng đó là những văn bản xa rời thực tế và không phù hợp với tâm lí đương thời. Giáo viên với tư cách là người hướng dẫn, tổ chức các hoạt động của học sinh nhằm giúp học sinh chủ động chiếm lĩnh tri thức. Trong quá trình dạy, đôi lúc còn gặp phải lúng túng khi truyền tải những kiến thức, cảm xúc thẩm mĩ mà văn bản trữ tình đem lại. Nguyên nhân một phần do giáo viên chưa liên hệ thực tế vào bài dạy khiến học sinh thấy mơ hồ và không hứng thú, tạo ra một khoảng trống không có sự liên hệ giữa học sinh và văn bản dẫn đến tình trạng “học cho xong”. Mặc dù trên thực tế, văn bản trữ tình có được viết ở thời đại nào cũng tái hiện cuộc sống, tái hiện hiện thực. Vậy nên sẽ khô khan nếu dạy đọc – hiểu văn bản trữ tình mà không gắn liền với thực tiễn. Văn bản “Sóng” của Xuân Quỳnh là nhịp sóng lòng được nhà thơ hóa
12
thân và dành tặng cho đời nhiều cảm xúc, là một văn bản trữ tình trong chương trình SGK Ngữ văn THPT lớp 12. Đây là “một câu chuyện cổ tích về tình yêu được nhà thơ kể lại”, là “đứa con tinh thần” thể hiện rõ nhất hồn thơ của nữ thi sĩ. Trong chương trình Ngữ văn THPT, khi tiếp cận văn bản “Sóng” – một văn bản trữ tình của một tác giả nổi tiếng được đánh giá là nét mới mẻ trong thi ca Việt Nam vì một nữ nhân làm thơ về tình yêu của phụ nữ, học sinh có thể thấy văn bản này hay, thấy thích những vần thơ lạ nhưng chưa hiểu về văn bản, hiểu về tình yêu mà Xuân Quỳnh muốn gửi gắm cũng như quan niệm nhân sinh mới mẻ chứa đựng trong đó. Điều gì đã làm cho văn bản “Sóng” có sức sống trường tồn trong gần thế kỉ qua? Nhìn nhận thực trạng này và với mục đích nâng cao chất lượng dạy học văn nói chung. Trong khuôn khổ của một khóa luận tốt nghiệp, chúng tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu: “Đọc – hiểu văn bản “Sóng” (Xuân quỳnh) gắn liền với đời sống thực tiễn” với mục đích giúp học sinh tiếp nhận văn bản trữ tình và nhận thức được quan niệm nhân sinh mới mẻ. Chúng tôi muốn góp một phần nhỏ vào việc đổi mới dạy học với hi vọng tác phẩm văn học sẽ gần gũi, thiết thực và hứng thú hơn với học sinh trong trường THPT.
13
Chƣơng 2. CÁC BIỆN PHÁP DẠY HỌC ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN “SÓNG” (NGỮ VĂN 12) GẮN LIỀN VỚI ĐỜI SỐNG THỰC TIỄN 2.1. Đặc trƣng của văn bản trữ tình 2.1.1. Khái niệm văn bản trữ tình Thể loại văn học là dạng thức của tác phẩm văn học được hình thành và phát triển tương đối ổn định trong quá trình phát triển của lịch sử văn học thể hiện sự giống và khác nhau về cách tổ chức tác phẩm, về các loại đặc điểm của hiện tượng đời sống và tính chất của mối quan hệ giữa nhà văn và các loại hiện tượng đời sống ấy. Mỗi thể loại văn học lại có những đặc điểm riêng về nội dung và hình thức nhằm đáp ứng và phản ánh phù hợp với hiện tượng đời sống, quan điểm tư tưởng mà mà văn học muốn gửi gắm, phản ánh. Chính vì thế, sự phân chia thể loại là một yêu cầu không thể thiếu. Nhìn chung, đến nay còn rất nhiều sự tranh luận xung quanh vấn đề phân chia thể loại nhưng với giới hạn của đề tài về vấn đề dạy học đọc – hiểu văn học theo đặc trưng thể loại gắn liền với đời sống thực tiễn nên bài viết này chỉ đi sâu vào thể loại trữ tình mà cụ thể là văn bản trữ tình. Về nội dung, có thể thấy những tác phẩm trữ tình thường đi sâu vào khám phá thế giới nội tâm, cảm xúc bên trong – những cảm xúc rất đa dạng, mơ hồ. Đó có thể là niềm vui, nỗi buồn, sự chia li, hi vọng hay đau đớn… Đặc biệt, cảm xúc của nhân vật trữ tình trong những tác phẩm trữ tình thường bộc lộ một cách trực tiếp, có thể thiên về tình cảm cá nhân, có khi suy tư về nhân tình thế thái, về số phận con người, về thăng trầm xã hội, về cảm xúc thời đại…. Về hình thức, tác phẩm trữ tình thường có hình thức ngắn gọn mang tính chất tâm tình, giàu nhạc điệu, ngôn ngữ mang tính cách điệu hàm súc, tư tưởng được mã hóa vào những biểu tượng nghệ thuật đầy ý nghĩa.
14
Soạn Bài Sóng Của Xuân Quỳnh
Soạn văn 12 tập 1 bài Sóng
Soạn bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh
1. Soạn bài Sóng của Xuân Quỳnh mẫu 1
1.1. Tìm hiểu chung
1. Tác giả
a. Cuộc đời
Xuân Quỳnh tên đầy đủ là Nguyễn Thị Xuân Quỳnh (1942-1988)
Quê ở làng La Khê- Hà Đông- Hà Tây
Xuân Quỳnh có một tuổi thơ thiếu thốn tình thương
Ban đâu Xuân Quỳnh chưa đến sự nghiệp văn chương mà là một diễn viên múa. Bà yêu một người bạn đồng nghiệp sau đó họ chia tay vì không hợp nhau.
Sau này Xuân Quỳnh chuyển sang làm thơ và nên duyên vợ chồng với nhà viết kịch nổi tiếng lưu Quang Vũ. Cả hai người đã có những phút giây hạnh phúc bên nhau mặc dù cả hai đều có con riêng. Thế nhưng hạnh phúc chẳng được bao lâu thì gia đình họ gặp phải một tai nạn kinh hoàng. Và tai nạn ấy đã cướp đi tính mạng của tất cả gia đình họ.
Xuân Quỳnh là một người phụ nữ có cuộc đời đa đoan nhiều lo âu vậy nên bà rất biết quý trọng và nâng niu hạnh phúc gia đình.
b. Sự nghiệp
Xuân Quỳnh là một nhà thơ trẻ tiêu biểu thời kì kháng chiến chống Mỹ cứu nước
Tác phẩm chính của bà: tự hát, hoa dọc chiến hào, tiếng gà trưa…
Phong cách nghệ thuật thơ Xuân Quỳnh: Thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng của người phụ nữ giàu tình yêu thương, vừa hồn nhiên tươi tắn, vừa chân thành đằm thắm, đầy mãnh liệt và khát khao trong tình yêu. Vừa lo âu về sự tàn phai đỗ vỡ cũng như dự cảm bất trắc.
2. Bài thơ
a. Hoàn cảnh sáng tác
Bài thơ được sáng tác vào năm 1967 trong chuyến đi công tác vùng biển Diêm Điền. Bài thơ ra đời khi nhà thơ đã phải nếm trải những đỗ vỡ của cuộc hôn nhân thứ nhất. Đây là một bài thơ biểu hiện cho phong cách nghệ thuật của Xuân Quỳnh.
Bài thơ được in trong tập thơ Hoa dọc chiến hào.
b. Bố cục: 3 phần
c. Hình tượng
1.2. Đọc hiểu chi tiết
1. Sóng biển và tình yêu
– Nhà thơ mở đầu bằng những đối lập của sóng biển:
2. Tình yêu gắn liền với nỗi nhớ
Đã yêu là phải nhớ nhà thơ Xuân Diệu đã từng viết:
“Đố ai sống được mà không yêu không nhớ không thương một kẻ nào”
Xuân Quỳnh đã mượn hình ảnh của sóng để cắt nghĩa tình yêu tuy nhiên nhà thơ lại không thể lí giải được. Nhà thơ tự mình đặt ra hàng loạt những câu hỏi tu từ nhưng cuối cùng lại trả lời trong một cái lắc đầu đáng yêu “em cũng không biết nữa khi nào ta yêu nhau”.
Tình yêu gắn liền với nỗi nhớ, con sóng ngoài kia ngày đêm vỗ vào bờ, dù là con sóng dưới lòng sông, con sóng trên mặt nước, dẫu có muôn với cách trở thì con sóng vẫn nhớ bờ mà vỗ về tha thiết, còn người con gái thì nhớ đến anh cả trong mơ vẫn cứ tưởng là vẫn thức.
Nhà thơ chọn cách nói ngược để thấy được sự yêu thương ấy. dẫu tình yêu có ngang trái đến mức nào thì em cũng chỉ nghĩ về phương anh mà thôi.
3. Tình yêu và khát vọng
Bằng thủ pháp nghệ thuật đối lập nhà thơ đã khẳng định sự hữu hạn nhỏ bé của đời người, sự ngắn ngủi mong manh như sương khói của tình yêu. Nó đối lập với sự vĩnh hằng của thiên nhiên.
Và từ hình ảnh sóng vỗ bờ thi sĩ thể hiện ước nguyện của mình làm sao có thể tan ra để trở thành những con sóng vĩnh cữu đó mãi mãi hòa vào đại dương tình yêu đến muôn đời.
1.3. Tổng kết
Nhà thơ Xuân Quỳnh đã mang đến cho chúng ta một bài thơ giàu cảm xúc. Không những thế nó còn mang tính triết lý khi nói về quy luật của tình yêu. Đã yêu là phải nhớ mà đã nhớ thì đến khi mơ vẫn cứ nghĩ là mình còn thức. Với việc sử dụng thủ pháp nghệ thuật linh hoạt nhà thơ đã thành công trong việc diễn đạt tình yêu.
2. Soạn bài Sóng của Xuân Quỳnh mẫu 2
2.1. Câu 1 trang 156 SGK Ngữ văn 12 tập 1
Nhận xét về âm điệu, nhịp điệu bài thơ. Âm điệu, nhịp điệu đó được tạo nên bởi những yếu tố nào?
Trả lời:
– Âm điệu, nhịp điệu bài thơ: nhịp thơ là nhịp sóng lúc dạt dào sôi nổi, lúc thì thầm sâu lắng.
– Âm hưởng nhịp nhàng đó được tạo nên bằng thể thơ ngũ ngôn với những câu thơ thường là không ngắt nhịp và được nối vần qua các khổ thơ liên kết. Tả nhịp điệu bên ngoài của sóng cũng là để tả nhịp điệu bên trong của tâm hồn nhà thơ, một tâm hồn sôi nổi, thiết tha, khát khao.
2.2. Câu 2 trang 156 SGK Ngữ văn 12 tập 1
Hình tượng bao trùm xuyên suốt bài thơ là hình tượng sóng. Mạch liên kết các khổ thơ là những khám phá liên tục về sóng. Hãy phân tích hình tượng này.
Trả lời:
Hình tượng bao trùm, xuyên suốt bài thơ là hình tượng sóng:
– Lớp nghĩa tả thực: sóng ở đây là những đợt sóng biển miên man vô hạn.
– Sóng là những hình ảnh ẩn dụ của tâm trạng, trạng thái, những cung bậc tình cảm, cảm xúc của người phụ nữ đang rạo rực, khao khát yêu thương. Mỗi trạng thái, tâm hồn đều có sự tương đồng với một khía cạnh, một đặc tính của sóng.
2.3. Câu 3 trang 156 SGK Ngữ văn 12 tập 1
Giữa sóng và em trong bài thơ có quan hệ như thế nào? Anh/chị có nhận xét gì về kết cấu bài thơ? Người phụ nữ đang yêu tìm thấy sự tương đồng giữa các trạng thái tâm hồn mình với những con sóng. Hãy chỉ ra sự tương đồng đó.
Trả lời:
– Mối quan hệ giữa sóng và em: Xuân Quỳnh không so sánh em như sóng mà trực tiếp hóa thân vào sóng. Vì thế, sóng với em tuy 2 mà 1, sóng đã mang sẵn vẻ đẹp của tâm hồn em trong tình yêu.
– Nghệ thuật kết cấu của bài thơ: Con sóng của biển cả và con sóng của tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu song hành với nhau, từ đó tạo nên kết cấu song hành trong toàn bộ bài thơ.
– Sự tương đồng giữa sóng và em:
+ Sóng luôn tìm ra bể cũng như em luôn tìm đến tình yêu đích thức
+Sóng luôn dạt vào bờ cũng như em luôn nhớ tới anh
+ Sóng luôn tan ra giữa đại dương cũng như luôn hi sinh, dâng hiến trong tình yêu.
2.4. Câu 4 trang 157 SGK Ngữ văn 12 tập 1
Bài thơ là lời tự bạch của một tâm hồn phụ nữ đang yêu. Theo cảm nhận của anh/ chị, tâm hồn đó có những đặc điểm gì?
Trả lời:
Bài thơ là lời tự bạch của tâm hồn người phụ nữ đang yêu. Mượn hình ảnh sóng, nhà thơ diễn tả tình yêu, thể hiện trái tim dữ dội và dịu êm vừa phong phú, phức tập vừa tha thiết, sôi nổi, rạo rực và khao khát yêu thương của một tâm hồn phụ nữ chân thành, nồng hậu, dám bày tỏ khát vọng của mình trong tình yêu, trong hạnh phúc đời thường.
Bạn đang đọc nội dung bài viết Tìm Hiểu Văn Bản: Sóng – Xuân Quỳnh trên website Athena4me.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!