Đề Xuất 5/2023 # Tiếp Tục Tạo Môi Trường Kinh Doanh Công Bằng, Minh Bạch # Top 6 Like | Athena4me.com

Đề Xuất 5/2023 # Tiếp Tục Tạo Môi Trường Kinh Doanh Công Bằng, Minh Bạch # Top 6 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Tiếp Tục Tạo Môi Trường Kinh Doanh Công Bằng, Minh Bạch mới nhất trên website Athena4me.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Sau hơn 2 năm, Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 3.6.2017 Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, được ban hành và triển khai vào cuộc sống đã có nhiều sự đổi thay rõ rệt của nền kinh tế, trong đó có vai trò rất lớn của hệ thống kinh tế tư nhân.

Quyền của khu vực tư nhân đã được mở rộng tương đối tốt

Sự ra đời của Nghị quyết 10-NQ/TW đã được cộng đồng doanh nghiệp tư nhân tin tưởng và đón nhận rất tích cực với những kỳ vọng lớn lao.

Nói về hiệu quả của Nghị quyết số 10, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Kinh tế trung ương Nguyễn Văn Bình nhận định: “Khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam, nhất là sau 2 năm thực hiện Nghị quyết số 10-NQ/TW đã có bước phát triển mới cả về số lượng, chất lượng và có những đóng góp ngày càng tăng đối với sự phát triển của nền kinh tế và xã hội. Khu vực kinh tế tư nhân hiện chiếm khoảng 40% GDP cả nước”.

TS. Nguyễn Đình Cung – Nguyên viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương, Thành viên Tổ tư vấn Chính phủ nhận định, nền kinh tế tư nhân từ chỗ được coi là không hợp pháp trở thành hợp pháp, từ chỉ làm những việc được pháp luật cho phép tới làm những gì pháp luật không cấm, từ chỗ không được thừa nhận tới được thừa nhận đã thể hiện quyền tự do kinh doanh của khu vực tư nhân đã được mở rộng tương đối tốt.

Tuy nhiên, cho tới hiện tại dù có nhiều kỳ tích song vẫn còn nhiều giới hạn nên chưa đủ để tạo đột phá. Có nhiều lý do cả khách quan và chủ quan dẫn tới hạn chế này, bởi vậy, ông Cung cho rằng vẫn còn gì đó “lấn cấn”, chưa cân bằng.

Tiếp tục gỡ bỏ nhiều rào cản

Trực tiếp thụ hưởng những lợi ích từ Nghị quyết số 10 – NQ/TW, Chủ tịch Tập đoàn Phú Thái Phạm Đình Đoàn cho rằng, Nghị quyết số 10 đã giúp cho các doanh nghiệp tư nhân, đặc biệt là những doanh nghiệp tư nhân lớn dần thể hiện được vai trò và bứt phá phát triển. Nhiều thương hiệu cũng như sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp tư nhân khẳng định được mình và quốc tế hóa. Giá trị xuất khẩu cũng như GDP của chúng ta đều có sự tăng trưởng trong đó có đóng góp không nhỏ của khu vực kinh tế tư nhân. “Về dài hạn, tôi nghĩ chúng ta cần xem xét lại một loạt hệ thống luật cũng như những văn bản giấy tờ đang chồng chéo khiến doanh nghiệp hoạt động rất khó khăn và những điều này lại chưa được tháo gỡ hoàn toàn” – ông Đoàn nói.

Theo ông Đoàn, “Để doanh nghiệp Việt Nam phát triển, chúng ta phải có một môi trường kinh doanh bình đẳng, tiếp cận các nguồn lực của xã hội một cách minh bạch, tránh nhóm lợi ích. Nếu tiếp tục để các mối quan hệ thiếu minh bạch trong hoạt động kinh doanh làm cản trở cạnh tranh lành mạnh thì sẽ ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế Việt Nam khi hội nhập” – ông Đoàn nói.

Đồng quan điểm ghi nhận Nghị quyết 10 – NQ/TW đã mang lại luồng sinh khí mới cho doanh nghiệp tư nhân, song vẫn cần tiếp tục chỉnh sửa hạn chế để đáp ứng nhu cầu, tạo đà “bung” hết tiềm năng, sức mạnh của doanh nghiệp Việt, bà Hương Trần Kiều Dung – Phó Chủ tịch HĐQT, Tổng Giám đốc Tập đoàn FLC đánh giá: “Vẫn nhìn thấy sự bất bình đẳng giữa doanh nghiệp tư nhân với doanh nghiệp nhà nước và FDI. Về cơ chế, chính sách doanh nghiệp tư nhân khó khăn hơn rất nhiều trong việc tiếp cận các nguồn lực như vốn, đất đai… Đặc biệt là trong công tác cải cách hành chính mới chỉ là cắt giảm về mặt số lượng, còn thời gian thực hiện thủ tục hành chính vẫn chưa được cải thiện”.

* Trưởng ban Kinh tế T.Ư Nguyễn Văn Bình nhấn mạnh: “Những kết quả đạt được đã ngày càng khẳng định tính đúng đắn và sự phù hợp với xu hướng phát triển chung của Nghị quyết 10-NQ/TW với tư cách là sự kế thừa và phát triển đường lối lớn về phát triển KTTN của Đảng ta kể từ khi Đổi mới đến nay”.

* Ông Bùi Tất Thắng – Thành viên thường trực Tiểu ban kinh tế – xã hội phục vụ Đại hội XIII của Đảng, nguyên Viện trưởng Viện Chiến lược phát triển (Bộ Kế hoạch và Đầu tư): “Chúng ta bước vào hội nhập quốc tế trong điều kiện cạnh tranh rất khốc liệt. vì vậy để hình thành và gia nhập vào chuỗi giá trị toàn cầu là một thách thức rất lớn với các doanh nghiệp. Để một quốc gia thịnh vượng thì không có cách nào khác là chúng ta phải cổ vũ và hình thành ra một đội ngũ doanh nhân Việt Nam đủ bản lĩnh, trí tuệ và năng lực. Ở giai đoạn vừa qua, tôi thấy rằng cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam đã rất khởi sắc. Ngoài sự cổ vũ của nhà nước, doanh nghiệp được hỗ trợ bởi bối cảnh quốc tế thuận lợi, đó là thời đại cách mạng công nghiệp 4.0”.

Môi Trường Pháp Lý Kinh Doanh Ở Mỹ Và Singapore

(Pháp lý) – Việc tìm hiểu pháp luật về điều kiện kinh doanh của các quốc gia trên thế giới là rất cần thiết để có thể rút ra bài học kinh nghiệm đáng quý trong quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật về đầu tư kinh doanh ở Việt Nam.

Thường xuyên lọt vào danh sách top những nền kinh tế dễ kinh doanh nhất thế giới, đứng đầu vẫn là Newzeland, nơi mà các nhà đầu tư chỉ cần nửa ngày để bắt đầu kinh doanh. Còn Hàn Quốc có một hệ thống pháp luật về đầu tư kinh doanh đồ sộ, khá đồng bộ và hoàn thiện, tạo môi trường thuận lợi cho các hoạt động đầu tư kinh doanh. Nhưng “thiên đường” cho các nhà đầu tư kinh doanh chính là Đan Mạch. Là thành viên của EU, pháp luật và các quy định về đầu tư kinh doanh của Đan Mạch phù hợp với hầu hết các tiêu chuẩn của Liên minh này.

Vậy môi trường pháp lý kinh doanh ở Mỹ – cường quốc số 1 về kinh tế thế giới và môi trường kinh doanh ở Singapore – “con rồng” kinh tế ở châu Á có gì đặc biệt? Kỳ này, Pháp lý sẽ tiếp tục thông tin tới bạn đọc.

Mỹ: hết sức coi trọng doanh nghiệp vừa và nhỏ

Đa số các nhà nghiên cứu đều đánh giá rằng, việc bắt đầu một doanh nghiệp (DN) ở Mỹ tương đối dễ dàng vì những quy định rất đơn giản, gọn nhẹ về thủ tục đăng ký kinh doanh. Bên cạnh hệ thống đăng ký kinh doanh, nhà nước thiết lập cơ chế xin giấy phép và chấp thuận của cơ quan có thẩm quyền rất rõ ràng và cụ thể để kiểm soát chặt chẽ hoạt động kinh doanh của các DN.

Hệ thống pháp luật của Mỹ bao gồm hệ thống pháp luật liên bang, hệ thống pháp luật bang. Do đó, khi thực hiện hoạt động kinh doanh ở quốc gia này, doanh nghiệp (DN) phải tuân thủ một loạt các quy định của địa phương, tiểu bang và của liên bang. Pháp luật DN Mỹ cũng có những quy định về điều kiện kinh doanh gắn liền với loại hình DN hoặc một số loại ngành nghề nhất định.

Ở Mỹ có hai hệ thống cấp phép: Giấy phép và sự chấp thuận của Liên bang; Giấy phép và sự chấp thuận của tiểu bang. Hai hệ thống này song song tồn tại và chi phối đến hoạt động kinh doanh của DN.

Ngoài những điều kiện kinh doanh này, ở mỗi bang, tùy từng thời kỳ khác nhau, DN sẽ phải đáp ứng các điều kiện khác mà cơ quan quản lý đưa ra chẳng hạn như: chứng minh vốn pháp định (bang Delaware, bang NewYork), chứng minh khoản nợ của DN (ở Columbia)…

Tuy có sự khác biệt giữa các bang tuy nhiên việc thành lập công ty ở Mỹ tương đối dễ dàng và nhanh chóng. Cơ quan chịu trách nhiệm đăng ký kinh doanh ở các bang cũng khác nhau, có thể là sở thương mại hoặc văn phòng phát triển doanh nghiệp…, hoặc thậm chí được phân cấp cho quận.

Vậy, thành lập công ty ở Mỹ có những điểm gì khác so với Việt Nam hay các nước khác như Singapore, Anh, Pháp…?

Tại Mỹ, không có một quy định chung về việc thành lập công ty được áp dụng chung cho cả nước mà ở mỗi bang lại có những quy định khác nhau. Tại Mỹ không có loại hình văn phòng đại diện như ở Việt Nam. Hầu hết các bang đều không yêu cầu vốn tối thiểu để thành lập doanh nghiệp. Thủ tục thành lập doanh nghiệp ở các bang đều đơn giản và nhanh chóng. Các công ty có vốn đầu tư nước ngoài chịu sự điều tiết của pháp luật giống như các công ty trong nước.

Tại Mỹ, không có một quy định chung về việc thành lập công ty được áp dụng chung cho cả nước mà ở mỗi bang lại có những quy định khác nhau. Tại Mỹ không có loại hình văn phòng đại diện như ở Việt Nam. Hầu hết các bang đều không yêu cầu vốn tối thiểu để thành lập doanh nghiệp. Thủ tục thành lập doanh nghiệp ở các bang đều đơn giản và nhanh chóng. Các công ty có vốn đầu tư nước ngoài chịu sự điều tiết của pháp luật giống như các công ty trong nước.

Đáng chú ý, tuy Mỹ là một quốc gia có nền kinh tế phát triển bậc nhất trên thế giới, nhưng Chính phủ nước này vẫn hết sức coi trọng sự tồn tại và phát triển của DN nhỏ và vừa, rất đáng để các nước khác học tập kinh nghiệm.

Hầu hết chính quyền các bang đều có bộ phận hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ. Doanh nghiệp nước ngoài cũng có thể tìm đến tổ chức này để được giúp đỡ trong đó có việc hướng dẫn thủ tục và giúp đỡ đăng ký doanh nghiệp. Những dịch vụ do tổ chức này cung cấp thường là miễn phí hoặc với giá cả phải chăng.

Cục Phát triển doanh nghiệp nhỏ (Small Business Administration – SBA) là một tổ chức độc lập để hỗ trợ, bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp nhỏ ở Mỹ. Thông qua việc hỗ trợ vốn và tạo cơ hội ký hợp đồng, SBA giúp doanh nghiệp nhỏ phát triển và tạo việc làm bền vững. Để giảm thiểu rủi ro cho khoản vay, SBA sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp nhỏ tiếp cận nguồn vốn bằng cách đảm bảo cho các khoản vay, doanh nghiệp sẽ không vay vốn trực tiếp từ nhà đầu tư mà thông qua SBA.

Chính phủ liên bang Mỹ được biết đến là người mua lớn nhất thế giới. Hàng năm, những hợp đồng hàng trăm tỷ USD được sử dụng mua hàng hóa và dịch vụ cho cơ quan liên bang. SBA sẽ đóng vai trò giám sát cơ quan liên bang để đạt được 23% giá trị hợp đồng của chính phủ liên bang sẽ được ký kết với doanh nghiệp nhỏ. Cơ quan chính phủ liên bang công khai danh sách những hợp đồng và một số hợp đồng được đưa vào danh sách đặc biệt dành cho doanh nghiệp nhỏ.

Tuy Mỹ là một quốc gia có nền kinh tế phát triển bậc nhất trên thế giới, nhưng Chính phủ nước này vẫn hết sức coi trọng sự tồn tại và phát triển của DN nhỏ và vừa, rất đáng để các nước khác học tập kinh nghiệm. Tại Mỹ, 30 triệu doanh nghiệp nhỏ là động lực chính của nền kinh tế, tạo ra hai phần ba việc làm mới của khu vực tư nhân và sử dụng hơn 50% nguồn lao động quốc gia.

Singapore: quan tâm bảo vệ tài sản trí tuệ

Singapore tuy là một quốc đảo nhỏ ở Đông Nam Á với số dân khoảng 4 triệu người nhưng lại là một trong những “Con Rồng” kinh tế của Châu Á. Pháp luật doanh nghiệp của Singapore chịu ảnh hưởng nhiều của pháp luật Anh (trừ những nội dung mang tính địa phương) và được đánh giá có nhiều điểm tiến bộ đem lại hiệu quả hiệu chỉnh cao đối với hoạt động kinh doanh của các DN trong và ngoài nước.

Chủ thể khi muốn thành lập DN thì nộp hồ sơ thông báo đến cơ quan có thẩm quyền về đăng ký kinh doanh, đó là Cơ quan quản lý kế toán và DN của Singapore (ACRA). Thủ tục này có thể được thực hiện hoàn toàn qua hệ thống đăng ký trực tuyến của ACRA.

Cũng như nhiều nước trên thế giới, để thực hiện việc đảm bảo lợi ích nền kinh tế và yêu cầu của quá trình quản lý nhà nước, bên cạnh cơ chế đăng ký thành lập, Singapore đặt ra quy định về điều kiện kinh doanh trong một số những ngành nghề nhất định . Theo pháp luật Singapore, để có thể đăng ký kinh doanh hoặc thực hiện kinh doanh trong một số ngành nghề cụ thể, DN phải được cấp giấy phép hoặc được sự cho phép của cơ quan có thẩm quyền.

Tại Singapore có 3 loại giấy phép phổ biến, đó là: Giấy phép bắt buộc; Giấy phép nghề nghiệp và Giấy phép hoạt động kinh doanh.

Theo Luật thành lập doanh nghiệp tại Singapore, các thành viên sẽ là những người có quyền lực nhất. Việc điều hành, bộ máy quản lý hoạt động cũng phải thông qua và chịu trách nhiệm trước các thành viên trong công ty. Với tư cách là chủ sở hữu cũng như là các thành viên góp vốn vào công ty, các thành viên cũng có quyền, lợi ích và nghĩa vụ gắn với tư cách của chủ sở hữu.

Thủ tục thành lập doanh nghiệp tại Singapore là khá nhanh, chỉ từ 01 đến 02 ngày làm việc và thường có 02 bước: chứng thực tên công ty và hợp nhất công ty.

Các điều kiện kinh doanh đều được Chính phủ Singapore công khai trên các trang thông tin điện tử chính thức, các DN có thể sử dụng dịch vụ cấp phép EnterpriseOne kinh doanh trực tuyến (OBLS) để thực hiện việc xin những giấy phép cần thiết trong thành lập và hoạt động. Điều này rất hữu ích, các DN không phải mất thời gian để đến trực tiếp gặp các cơ quan có thẩm quyền.

Ở Singapore có các loại hình DN: DN tư nhân (DN một chủ); Hợp danh; Công ty. Theo Luật Cty, các Cty nước ngoài cũng có thể chọn việc thành lập chi nhánh công ty để kinh doanh thay việc phải thành lập một Cty.

Tại Singapore, không có những quy định riêng cho chủ doanh nghiệp cá nhân như ở Việt Nam. Tài sản của doanh nghiệp tư nhân không tách bạch với các tài sản khác của chủ doanh nghiệp. Khi tham gia các hoạt động kinh tế hay dân sự thì chủ doanh nghiệp được đối xử như một thể nhân. Khi chủ DN tư nhân chết thì DN đương nhiên chấm dứt sự tồn tại.

Đáng chú ý, Singapore có khung pháp lý tốt về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Đối với nhãn hiệu thương mại, theo Luật của Singapore, nhãn hiệu hàng hóa là bất cứ dấu hiệu, hình ảnh nào có thể phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ cùng loại của người khác và những dấu hiệu đó có thể bao gồm chữ cái, từ ngữ, tên gọi, chữ ký, chữ số, hình mẫu bao gói, nhãn hàng, hình mô phỏng, mầu sắc hoặc tổng hợp các yếu tố đó.

Nhãn hiệu hàng hóa được bảo hộ tại Singapore có thể xác lập thông qua đăng ký hoặc thông qua sử dụng. Việc đăng ký nhãn hiệu hàng hóa tại Singapore là không bắt buộc. Tuy nhiên, đối với nhãn hiệu hàng hóa chưa đăng ký, việc bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa phải dựa trên thông luật về chống mạo danh- quá trình này sẽ tốn kém và chiếm nhiều thời gian hơn so với các biện pháp thực thi áp dụng đối với quá trình bảo hộ quyền đối với nhãn hiệu đã đăng ký.

Việc chuyển nhượng quyền sở hữu công nghiệp đối với đơn nhãn hiệu đang trong thời gian xử lý đơn hoặc nhãn hiệu đang có hiệu lực phải được ghi nhận tại Cơ quan đăng ký thì mới có giá trị pháp lý. Đạo luật nhãn hiệu hàng hóa quy định chủ sở hữu mới có nghĩa vụ đăng ký việc chuyển nhượng.

Hành vi sử dụng nhãn hiệu hàng hóa trùng hoặc tương tự đối với hàng hóa/dịch vụ cùng loại gây nhầm lẫn bị coi là hành vi xâm phạm quyền của chủ sở hữu nhãn hiệu hàng hóa. Việc sử dụng nhãn hiệu gây nhầm lẫn với nhãn hiệu nổi tiếng cũng bị coi là hành vi xâm phạm quyền của chủ sở hữu nhãn hiệu nổi tiếng. Khi có dấu hiệu bị xâm phạm,chủ sở hữu có thể yêu cầu cơ quan có thẩm quyền Singapore bảo vệ quyền của mình. Các biện pháp thực thi bao gồm các biện pháp hành chính, dân sự, hình sự và biện pháp kiểm soát biên giới.

Nếu ở Việt Nam chưa chú trọng vấn đề bảo vệ tài sản trí tuệ , thì ở Singapore, vấn đề này lại được chính phủ quan tâm nhiều. Đất nước của start-up có ban hành khá nhiều điều luật xoay quanh vấn đề này như đăng ký nhãn hiệu độc quyền, hợp đồng độc quyền,…

Một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Việc tìm hiểu pháp luật về điều kiện kinh doanh của các quốc gia trên thế giới là rất cần thiết để có thể rút ra bài học kinh nghiệm đáng quý trong quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật về đầu tư kinh doanh ở Việt Nam.

Thứ hai, phải xác định rõ căn cứ thiết lập các điều kiện kinh doanh.

Ở Việt Nam, việc đưa ra căn cứ thiết lập điều kiện kinh doanh còn chưa thực hiện được. Theo Luật Đầu tư năm 2014, Việt Nam có 243 ngành nghề kinh doanh có điều kiện, việc xác định tại sao các ngành nghề này phải đáp ứng điều kiện mà pháp luật đặt ra và những điều kiện đó cụ thể là gì sẽ thực sự quan trọng. Nếu không làm tốt việc này rất có thể sẽ tạo ra những rào cản cho các chủ thể kinh doanh khi gia nhập thị trường và làm giảm hiệu quả quản lý vốn có của điều kiện kinh doanh.

Thứ ba, qua nghiên cứu kinh nghiệm của Mỹ trong chính sách hỗ trợ DNNVV tiếp cận vốn cho thấy rằng, dù đối với nền kinh tế phát triển hay đang phát triển thì vai trò của DNNVV là hết sức quan trọng. Tuy nhiên, đứng trước những biến động kinh tế và sự cạnh tranh khốc liệt của các loại hình kinh tế khác, chính sách hỗ trợ tích cực của nhà nước cùng với sự nỗ lực của doanh nghiệp có thể khắc phục được những hạn chế, tồn tại và tạo điều kiện cho DNNVV phát triển.

Văn Thư – Lê Phúc

Cần Công Khai, Minh Bạch Quy Hoạch

Trong Văn bản số 693/TTg-CN, ký ngày 9/6/2020, Thủ tướng Chính phủ đã có ý kiến về việc bổ sung các dự án điện gió vào quy hoạch phát triển điện lực. Văn bản cho hay, do chậm tiến độ đầu tư xây dựng nhiều nhà máy nhiệt điện than có quy mô hiệu suất lớn được quy hoạch với tiến độ đưa vào vận hành đến năm 2023 nên hệ thống điện quốc gia dự kiến đối mặt với nguy cơ thiếu điện rất lớn nếu không có giải pháp điều hành thích hợp và kịp thời. Vì thế, Chính phủ đồng ý chủ trương bổ sung quy hoạch điện gió như đề nghị của Bộ Công Thương.

Thủ tướng cũng yêu cầu Bộ Công Thương chịu trách nhiệm thực hiện việc rà soát, cập nhật các dự án điện gió vào quy hoạch điện lực theo quy hoạch, cam kết yêu cầu công khai, minh bạch, chặt chẽ, khoa học, đồng bộ nguồn và lưới điện, hiệu quả kinh tế chung, kiên quyết chống tiêu cực, không để xẩy ra tình trạng “xin-cho” các dự án.

Văn bản 693/TTg-CN cũng yêu cầu, Bộ Công Thương khẩn trương xử lý các kiến nghị bổ sung quy hoạch điện gió của các địa phương đã gửi Thủ tướng Chính phủ, các cơ quan Trung ương và Quốc hội để rà soát, xem xét, bổ sung quy hoạch khi đủ điều kiện theo quy định với các dự án điện gió thích hợp ở những địa phương có tiềm năng và thuận tiện phát triển điện gió, có khả năng giải tỏa hiệu suất Tuy nhiên hiện có ít dự án và có thể triển khai thực hiện nhanh bổ sung nguồn cung ứng điện cho Tổ quốc.

“Bộ Công Thương khẩn trương báo cáo Thủ tướng Chính phủ về xử lý các kiến nghị của Ban kinh tế Trung ương, Ủy ban Kinh tế của Quốc hội về các vấn đề có tính cấp bách về phát triển năng lượng và bổ sung quy hoạch điện gió của các địa phương”, văn bản nêu.

Về việc phát triển dự án điện gió ở các địa phương, trước đó, Bộ Công thương đã có các Văn bản số 1931/BCT-ĐL và 3299/BCT-ĐL đề nghị bổ sung tổng cộng 7.000 MW điện gió vào quy hoạch điện hiện hành. Đáng chú ý, trước 7.000 MW điện gió đang được đề nghị bổ sung bây giờ, các cơ quan tác dụng đã bổ sung đến 4.800 MW điện gió vào quy hoạch điện hiện hành.

Lý giải cho việc đề xuất bổ sung 7.000 MW điện gió vào quy hoạch điện, Bộ Công Thương cho hay, nhiều dự án điện hiện có trong quy hoạch bị chậm tiến độ khiến việc đáp ứng nhu cầu tiêu thụ điện công đoạn 2021-2025 gặp nhiều khó khăn. Các số liệu được đưa ra cho thấy, dự báo năm 2023, Việt Nam có thể thiếu trên 13 tỷ kWh điện. Nếu không triển khai ngay một số giải pháp đẩy mạnh phát triển năng lượng tái tạo như điện gió, điện mặt trời hay tăng cường mua điện từ các nước trong khu vực, tình trạng thiếu điện sẽ rất nguy cấp

“Tổng hiệu suất nguồn điện ở thời điểm năm 2020 này là 56.000 MW, trong đó điện mặt trời chiếm khoảng 10%. Tuy nhiên, sản lượng điện mặt trời đóng góp cho hệ thống chỉ chiếm 4%”, Bộ Công Thương cho hay.

Ồ ạt đầu tư điện gió vì giá đang được ưu đãi

Về việc gỡ khó cho các dự án điện gió, từ đầu năm 2020, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) đã có nhiều cuộc họp với các nhà đầu tư. Các cuộc làm việc với các chủ đầu tư cho thấy, từ sau khi có Quyết định 39 với giá mua điện (giá FIT) mới lên mức tương đương 8,5 Uscents/kWh cho các dự án trên đất liền và 9,8 Uscents/kWh cho dự án trên biển, số lượng các dự án điện gió đã tăng vọt. Các nhà đầu tư ráo riết xin triển khai để bổ sung các dự án vào quy hoạch vì tháng 11/2021 sẽ là thời điểm cuối cho việc được hưởng giá điện gió ưu đãi của Chính phủ.

Tại cuộc họp này, ông Trần Đình Nhân, Tổng giám đốc EVN cho rằng, thời điểm cuối năm 2020 và năm 2021, ngành điện sẽ đối mặt với việc các dự án điện gió ồ ạt hoà lưới kéo theo nguy cơ quá tải lưới truyền tải lặp lại như xảy ra với các dự án điện mặt trời hồi năm 2019, khi mà chỉ trong một thời gian vài tháng có đến gần 90 nhà máy đồng loạt hòa lưới điện.

Theo ông Trần Đăng Khoa, trưởng ban Thị trường điện EVN, nếu 99 dự án điện gió được duyệt quy hoạch bổ sung cùng vào trong năm 2020 thì sẽ xuất hiện quá tải lưới truyền tải ở khu vực Ninh Thuận, Bình Thuận. Cùng với đó tại Phú Yên, Quảng Trị, Trà Vinh cũng sẽ quá tải nhẹ. Còn lại các khu vực khác cam kết giải tỏa tốt. Nếu phần lớn số này đưa vào vận hành trong năm 2021 thì chỉ xuất hiện quá tải khu vực Bình Thuận và Ninh Thuận.

“Từ kinh nghiệm điện mặt trời cho thấy, không có gì cam kết giá FIT cho các dự án điện gió sẽ được duy trì sau tháng 11/2021”, ông Khoa cảnh báo.

Số liệu của Trung tâm điều độ hệ thống điện quốc gia (A0) tính đến đầu năm 2020 cho thấy, ngoài 9 dự án điện gió đã đi vào vận hành thương mại, đã có 31 dự án có tổng hiệu suất là 1.645 MW hoàn tất ký hợp đồng mua bán điện (PPA) và đang được các chủ đầu tư đẩy mạnh việc xây dựng để đưa vào vận hành thương mại. Ngoài các dự án đã ký hợp đồng PPA, có tổng cộng 59 dự án khác đã được chấp thuận bổ sung quy hoạch Tuy nhiên chưa ký PPA với tổng hiệu suất khoảng 2.700 MW.

Theo kế hoạch, đến tháng 10/2020, Bộ Công Thương sẽ phải trình Chính phủ Quy hoạch phát triển Điện VIII (Tổng sơ đồ 8).

– Nguồn lấy từ: Cafef –

Dự Thảo Nghị Quyết Về Cải Thiện Môi Trường Kinh Doanh Năm 2022

Xét đề nghị của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư,

Tuy vậy, chất lượng môi trường kinh doanh và năng lực cạnh tranh của nước ta vẫn tiếp tục xếp vào loại thấp và trung bình thấp; và chỉ xếp thứ 5 hoặc thứ 6 trong các nước ASEAN; đòi hỏi phải tiếp tục nỗ lực cải cách mạnh mẽ để đạt mục tiêu trong nhóm 4 nước đứng đầu ASEAN .

Tiếp tục thực hiện mục tiêu tổng quát và các mục tiêu cụ thể định hướng đến năm 2021 theo Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 01/01/2019 về tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2019 và định hướng đến năm 2021. Trong đó, năm 2020 phấn đấu đạt mục tiêu cải thiện thứ bậc trên các bảng xếp hạng như sau:

– Cải thiện điểm số và duy trì thứ hạng chỉ số Cấp phép xây dựng (A3); rút ngắn thời gian cấp phép xây dựng trên thực tế xuống còn

Tiếp tục thực hiện đầy đủ, nhất quán và hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp theo từng bộ ngành, địa phương với các mục tiêu, chỉ tiêu cụ thể tương ứng trong Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 01/01/2019 về tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.

– Rà soát và hoàn thiện tài liệu hướng dẫn; tổ chức tập huấn, hướng dẫn để đảm bảo các Bộ, cơ quan, địa phương có cách hiểu đúng, đầy đủ, thống nhất về mục tiêu, các bộ chỉ số, nhóm chỉ số, chỉ số thành phần, mẫu biểu báo cáo. Kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết của Bộ, cơ quan, địa phương phải đảm bảo nội dung chi tiết về: nhiệm vụ, giải pháp thực thi và cơ quan, đơn vị chủ trì, chịu trách nhiệm; thời gian thực hiện và kết quả dự kiến đạt được. Ban hành Tài liệu hướng dẫn hoặc Kế hoạch hành động (bổ sung, nếu cần thiết) trong quý I năm 2020.

– Bộ Tài chính trong Quý I/2020 kiến nghị sửa đổi Nghị định số 139/2016/NĐ-CP ngày 04/10/2016 của Chính phủ quy định về lệ phí môn bài, trong đó, bãi bỏ thủ tục khai lệ phí môn bài, chuyển yêu cầu nộp lệ phí môn bài chậm nhất là ngày 30 tháng 01 của năm kế tiếp. Giám sát việc thực thi quy định về tự in/ mua hóa đơn đảm bảo đúng thời hạn 02 ngày theo quy định. Đẩy mạnh việc sử dụng hóa đơn điện tử theo Nghị định số 119/2018/NĐ-CP về hóa đơn điện tử.

– Trong Quý II/2020, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội sửa đổi Thông tư số 23/2014/TT-LĐTBXH ngày 29/8/2014 và kiến nghị sửa đổi Nghị định số 03/2014/NĐ-CP, trong đó, theo hướng bãi bỏ thủ tục đăng ký lao động lần đầu trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày bắt đầu hoạt động như hiện nay. Hoàn thành trong quý II năm 2020.

– Bộ Kế hoạch và Đầu tư tiếp tục hoàn thiện dự thảo Luật Doanh nghiệp (sửa đổi) theo hướng bãi bỏ hoặc đơn giản hóa các thủ tục không cần thiết, không phù hợp nhằm rút ngắn thời gian và chi phí gia nhập thị trường.

+ Chủ trì, phối hợp với Bộ Công an đề xuất ban hành quy chế phối kết hợp giải quyết các thủ tục hành chính cấp Giấy chứng nhận thẩm duyệt thiết kế về phòng cháy và chữa cháy, Văn bản chấp thuận địa điểm xây dựng, Văn bản về giải pháp phòng cháy và chữa cháy, Kế hoạch bảo vệ môi trường với cấp Giấy phép xây dựng;

+ Rà soát lại quy trình thủ tục cấp giấy phép xây dựng nhằm rút ngắn thời gian cấp giấy phép và thanh tra, kiểm tra xây dựng không quá 50 ngày.

– Nghiên cứu, đề xuất áp dụng phương pháp quản lý rủi ro trong hoạt động đầu tư xây dựng nhằm giảm số lượng các cuộc kiểm tra, số lần phê duyệt; hoàn thành trong quý III năm 2020.

– Ngân hàng Nhà nước chủ trì, tiếp tục triển khai hiệu quả các giải pháp duy trì chỉ số chiều sâu thông tin tín dụng; chỉ đạo các tổ chức tín dụng tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp được tiếp cận tín dụng công bằng, minh bạch.

+ Nghiên cứu, đề xuất ban hành mới hoặc sửa đổi, bổ sung Nghị định hướng dẫn các quy định của Bộ luật dân sự 2015 về giao dịch bảo đảm (thay thế các Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm; Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22/2/2012 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 163/2006/NĐ-CP; sửa đổi, bổ sung Nghị định số 102/2017/NĐ-CP ngày 01/9/2017 của Chính phủ về đăng ký biện pháp bảo đảm), trong đó hoàn thiện các quy định về đăng ký giao dịch bảo đảm, thứ tự ưu tiên thanh toán… theo hướng đơn giản hóa quy định về hồ sơ và thực hiện triển khai đăng ký, sửa đổi, bổ sung, xóa đăng ký biện pháp bảo đảm theo phương thức trực tuyến.

đ) Về Giải quyết tranh chấp hợp đồng và phá sản doanh nghiệp

Bộ Tư pháp chủ trì thực hiện các giải pháp cần thiết cải thiện chỉ số Giải quyết tranh chấp hợp đồng và phá sản doanh nghiệp; nghiên cứu, kiến nghị đề xuất sửa đổi Luật Thi hành án dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành nhằm đơn giản hoá thủ tục, rút ngắn thời gian và giảm chi phí thi hành án dân sự. Thực hiện triển khai thu án phí qua hình thức không dùng tiền mặt. Hoàn thành trong năm 2020.

4. Tiếp tục bãi bỏ, đơn giản hóa thực chất các quy định về điều kiện kinh doanh; thực thi đầy đủ, triệt để những cải cách về điều kiện kinh doanh đã thực hiện năm 2018 – 2019.

– Tiếp tục lập và báo cáo phương án bãi bỏ, đơn giản hóa các điều kiện kinh doanh được quy định tại các luật chuyên ngành. Báo cáo phương án, tình hình và kết quả cải cách về điều kiện kinh doanh gửi về Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương) và Văn phòng Chính phủ trong quý II năm 2020.

6) Đẩy mạnh thanh toán điện tử và cung cấp dịch vụ công trực tuyến cấp độ 4

– Tổng hợp, đánh giá kết quả thực hiện Đề án phát triển thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam giai đoạn 2016 – 2020 ban hành theo Quyết định số 2545/QĐ-TTg ngày 30/12/2016 của Thủ tướng Chính phủ; nghiên cứu biện pháp thúc đẩy thanh toán điện tử trong thời gian tới. Hoàn thành trong năm 2020.

– Chỉ đạo đẩy mạnh thực hiện phương thức tiếp nhận hồ sơ, trả kết quả giải quyết thủ tục hành chính qua dịch vụ bưu chính công ích.

Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh:

Bạn đang đọc nội dung bài viết Tiếp Tục Tạo Môi Trường Kinh Doanh Công Bằng, Minh Bạch trên website Athena4me.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!