Cập nhật nội dung chi tiết về Thẩm Quyền Ban Hành Văn Bản Trong Doanh Nghiệp mới nhất trên website Athena4me.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Doanh nghiệp hỏi: Hiện tại Luật Việt Nam có hướng dẫn cụ thể về thẩm quyền và thể thực ban hành văn bản trong nội bộ doanh nghiệp không? Ví dụ như quy chế quản trị doanh nghiệp?
Luật sư trả lời:
Theo quy định của Luật Doanh nghiệp và Điều lệ Công ty thì Chủ tịch HĐTV hoặc Tổng Giám đốc trong quá trình hoạt động quản trị Doanh nghiệp có quyền ban hành các quyết định cá biệt hoặc ban hành quy chế quản lý nội bộ Doanh nghiệp.
Hiện nay chưa có văn bản pháp luật nào quy định hay hướng dẫn việc ban hành các Quyết định của người có thẩm quyền của Doanh nghiệp trong hoạt động quản trị Doanh nghiệp.
Thông thường hiện nay các Doanh nghiệp khi thực hiện hoạt động quản trị Công ty thường ban hành Quyết định cá biệt và ban hành Quyết định ban hành văn bản thông thường.
Quyết định cá biệt thường được hiểu: Là văn bản được ban hành để giải quyết các công việc cụ thể đối với đối tượng cụ thể. Đó là Quyết định lên lương, khen thưởng, kỹ luật, bổ nhiệm, miễn nhiệm, phê duyệt…
Văn bản thông thường được hiểu: là văn bản chứ đựng các quy phạm để quy định, hướng dẫn, giải quyết những vẫn đề chung của quản trị doanh nghiệp như Điều lệ, quy chế, quy định, kế hoạch, quy hoạch, chương trình, chiến lược…
Như vậy khi chưa có văn bản pháp luật quy định về thể thức, hình thức ban hành các quy định của Tổng Giám đốc thì Doanh nghiệp có toàn quyền trong việc lựa chon thể thức văn bản.
Doanh nghiệp chỉ cần quan tâm đến Người ký có đúng thẩm quyền hay không, Nội dung quy định có trái pháp luật Điều lệ Công ty hay các Quy chế khác.
Nhiều Văn Bản Ban Hành Sai Về Nội Dung Và Thẩm Quyền
Một biếm họa cho thấy văn bản bất hợp lý vẫn tồn tại. Không ít thách thức
Theo thống kê của Bộ Tư pháp, kết quả rà soát văn bản của các bộ, ngành, địa phương trong 3 năm 2016, 2017, 2018 (trừ Bộ Kế hoạch – Đầu tư; Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội; Bộ Ngoại giao; Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; Bộ Tài chính, Bộ Thông tin và Truyền thông) tại các bộ, cơ quan ngang bộ đã rà soát được 21.952/21.952 văn bản; số văn bản kiến nghị xử lý: 4.394 văn bản; trong đó số văn bản đã xử lý là 3.856; chưa xử lý là 538 văn bản. Tại địa phương, tổng số văn bản phải được rà soát là 146.811 văn bản; số văn bản được rà soát 144.281 văn bản; số văn bản kiến nghị xử lý là 26.112 văn bản; số văn bản được xử lý là 23.322; số văn bản chưa xử lý là 3.790 văn bản. Bên cạnh việc rà soát thường xuyên, nhiều cơ quan cấp bộ, địa phương đã tổ chức rà soát văn bản theo chuyên đề, lĩnh vực.
Riêng Bộ Tư pháp đã kiểm tra hơn 17.000 văn bản của cấp bộ và các địa phương. Qua đó, phát hiện 507 văn bản có quy định chưa phù hợp về nội dung và thẩm quyền, trong đó có hơn 400 văn bản của chính quyền cấp tỉnh. Đến nay, đã xử lý dứt điểm 412 văn bản, nhưng cũng có những văn bản mà cơ quan ban hành chưa có phương án xử lý, giải trình thuyết phục.
Cần thẳng thắn nhìn nhận là hệ thống pháp luật của chúng ta vẫn còn những tồn tại, hạn chế, trong đó có những tồn tại, hạn chế chậm được khắc phục dẫn đến thay vì tạo thuận lợi lại làm chậm hoặc cản trở những nỗ lực tốt đẹp. “Sự chồng chéo, mâu thuẫn, thiếu đồng bộ, thậm chí mâu thuẫn với văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn là những vấn đề đã được nói tới nhiều trong thời gian qua. Nếu chúng ta làm tốt, làm đúng Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật và Nghị định 34/2016/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật này thì chắc bức tranh đã khác, doanh nghiệp và người dân đã không phải than phiền nhiều về pháp luật, Chính phủ và Thủ tướng đã không phải có nhiều chỉ đạo, giao nhiệm vụ cụ thể để làm tốt hơn công tác hậu kiểm văn bản quy phạm pháp luật”- Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Khánh Ngọc nói.
Tăng cường trách nhiệm
Công tác kiểm tra, rà soát đã có tác động rất tích cực tới tinh thần trách nhiệm của các cơ quan. Sau mỗi lần trao đổi về các văn bản sai sót thì tình hình chuyển biến tốt hơn, kịp thời ngăn chặn hậu quả của nhiều quy định chưa phù hợp, có những văn bản vừa ban hành đã phát hiện ra sai sót.
Tuy nhiên, công tác kiểm tra, rà soát văn bản cũng có những điểm yếu. Hiện cả nước có khoảng 23.000 cơ quan có trách nhiệm làm việc này nhưng hoạt động cả hệ thống chưa đều, nhiều bộ, ngành, địa phương chưa thể hiện đầy đủ trách nhiệm của mình. Việc phát hiện một số văn bản có quy định trái pháp luật chưa kịp thời, có trường hợp gây ra hậu quả rồi mới xem xét xử lý và xử lý cũng không kịp thời. Việc xác định và khắc phục hậu quả còn gặp khó khăn, việc xử lý trách nhiệm nhìn chung mới dừng lại ở mức nhắc nhở.
Một trong những khó khăn là các bộ, ngành khi kiểm tra theo thẩm quyền và phát hiện văn bản trái pháp luật không chủ động được việc xử lý triệt để các văn bản này do các văn bản đó phải được cơ quan ban hành văn bản sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ.
Từ thực tế này, Bộ Xây dựng đề xuất, đối với các văn bản trái pháp luật của địa phương ban hành đã được đôn đốc, nhắc nhiều xử lý nhiều lần nhưng chưa ban hành văn bản sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ thì sẽ báo cáo Thủ tướng Chính phủ quyết định đình chỉ việc thi hành, bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản trái pháp luật theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật và các văn bản hướng dẫn. Các bộ, ngành, địa phương tăng cường trách nhiệm đối với công tác kiểm tra, xử lý, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật; phối hợp chặt chẽ với Bộ Tư pháp để tham mưu cho Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ bãi bỏ một số văn bản đang không rõ về hiệu lực; hướng dẫn cụ thể hơn về xử lý trách nhiệm đối với việc ban hành văn bản trái pháp luật; tham mưu giao một cơ quan đầu mối quản lý, vận hành thống nhất Cơ sở Dữ liệu quốc gia về pháp luật.
Điểm Mới Về Thẩm Quyền Ban Hành Văn Bản Quy Phạm Pháp Luật
Điểm mới về thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Nội dung ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Điểm mới về thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Nội dung ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 được xây dựng trên cơ sở hợp nhất hai luật, đó là Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008 và Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân 2004 để áp dụng thống nhất việc xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật trên phạm vi cả nước. Luật mới này có hiệu lực kể từ ngày 01/07/2016, gồm 17 chương, 173 điều với nhiều điểm mới quan trọng; cụ thể như về thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật có sự thay đổi so với luật cũ:
Trên cơ sở quy định của Hiến pháp năm 2013 và các luật về tổ chức bộ máy nhà nước, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 đã xác định lại nội dung ban hành văn bản quy phạm pháp luật của nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền. Cụ thể:
– Đối với luật, nghị quyết của Quốc hội:
Điều 15 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 đã quy định rõ ràng, cụ thể những nội dung Quốc hội phải ban hành luật và những nội dung Quốc hội ban hành nghị quyết. Theo đó, Quốc hội ban hành luật để quy định về tổ chức, bộ máy nhà nước, quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, chính sách cơ bản về tài chính, tiền tệ quốc gia…Quốc hội ban hành nghị quyết để quy định việc thực hiện thí điểm một số chính sách mới thuộc thẩm quyền quyết định của Quốc hội nhưng chưa có luật điều chỉnh hoặc khác với quy định của luật hiện hành; tạm ngưng hoặc kéo dài thời hạn áp dụng toàn bộ hoặc một phần luật, nghị quyết của Quốc hội đáp ứng các yêu cầu cấp bách về phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quyền con người, quyền công dân…
– Đối với pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội:
Nếu như Khoản 1 Điều 12 quy định Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008:”Pháp lệnh của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định những vấn đề được Quốc hội giao, sau một thời gian thực hiện trình Quốc hội xem xét, quyết định ban hành luật”, thì nay, Điều 16 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 đã không còn quy định việc pháp lệnh sau một thời gian thực hiện phải trình Quốc hội xem xét, quyết định ban hành luật nữa. Đồng thời, bổ sung một số nội dung Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành nghị quyết gồm: Tạm ngưng hoặc kéo dài thời hạn áp dụng toàn bộ hoặc một phần pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội đáp ứng các yêu cầu cấp bách về phát triển kinh tế – xã hội; Bãi bỏ pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội…
– Đối với lệnh, quyết định của Chủ tịch nước:
Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008 quy định:
“Điều 13. Lệnh, quyết định của Chủ tịch nước
Lệnh, quyết định của Chủ tịch nước được ban hành để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước do Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, Pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định”
Còn Luật mới quy định tại Điều 17 như sau:
“Chủ tịch nước ban hành lệnh, quyết định để quy định:
1. Tổng động viên hoặc động viên cục bộ, công bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp căn cứ vào nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội; công bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương trong trường hợp Ủy ban thường vụ Quốc hội không thể họp được;
2. Vấn đề khác thuộc thẩm quyền của Chủ tịch nước”
Như vậy, so với Luật năm 2008 thì Luật mới năm 2015 đã có quy định rõ ràng hơn về thẩm quyền ban hành lệnh, quyết định của Chủ tịch nước.
– Đối với nghị định của Chính phủ:
Theo Điều 19 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015:
“Chính phủ ban hành nghị định để quy định:
1. Chi tiết điều, khoản, điểm được giao trong luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước;
3. Vấn đề cần thiết thuộc thẩm quyền của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội nhưng chưa đủ điều kiện xây dựng thành luật hoặc pháp lệnh để đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước, quản lý kinh, tế, quản lý xã hội. Trước khi ban hành nghị định này phải được sự đồng ý của Ủy banthường vụ Quốc hội”
– Đối với văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh:
“Điều 27. Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
Hội đồng nhân dân cấp tỉnh ban hành nghị quyết để quy định:
1. Chi tiết điều, khoản, điểm được giao trong văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên;
2. Chính sách, biện pháp nhằm bảo đảm thi hành Hiến pháp, luật, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên;
3. Biện pháp nhằm phát triển kinh tế – xã hội, ngân sách, quốc phòng, an ninh ở địa phương;
4. Biện pháp có tính chất đặc thù phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế – xã hội của địa phương.
Điều 28. Quyết định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ban hành quyết định để quy định:
1. Chi tiết điều, khoản, điểm được giao trong văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên;
2. Biện pháp thi hành Hiến pháp, luật, văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp về phát triển kinh tế – xã hội, ngân sách, quốc phòng, an ninh ở địa phương;
3. Biện pháp thực hiện chức năng quản lý nhà nước ở địa phương”.
Ngoài ra, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 cũng quy định rõ ràng hơn thẩm quyền ban hành lệnh, quyết định của Chủ tịch nước tại Điều 17; bổ sung một số nội dung Chính phủ ban hành Nghị định tại Điều 19; giới hạn nội dung ban hành văn bản quy phạm pháp luật của một số chủ thể như Ủy ban Thường vụ Quốc hội (Điều 18). Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (Điều 25), Hội đồng nhân dân cấp huyện, Hội đồng nhân dân cấp xã (Điều 30).
Thẩm Quyền Ký Văn Bản Trong Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước
Văn bản hành chính là văn bản hình thành trong quá trình chỉ đạo, điều hành, giải quyết công việc của các cơ quan, tổ chức, bao gồm nghị quyết, quyết định cá biệt, thông báo, hợp đồng, công văn, công điện…có giá trị pháp lý nhất định, được sử dụng trong hoạt động của các cơ quan quản lý Nhà nước. Văn bản do một cơ quan ban hành chỉ có giá trị pháp lý khi được ký ban hành bởi người có thẩm quyền và được đóng dấu của đơn vị đó. Tuy nhiên, thực tế trong công tác tham mưu, khi ban hành văn bản không phải loại văn bản nào cũng được Thủ trưởng đơn vị trực tiếp ký, mà có thể thực hiện ký thừa lệnh và ký thừa ủy quyền từ cấp phó của đơn vị.
Ngày 16/4/2013 Bộ Nội vụ ban hành Thông tư số 04/2013/TT-BNV hướng dẫn xây dựng Quy chế công tác văn thư, lưu trữ của các cơ quan, tổ chức trong đó có quy định về thẩm quyền ký văn bản.
Ngày 05/3/2020 Chính phủ ban hành Nghị định số 30/2020/NĐ-CP quy định về công tác văn thư, quy định cụ thể hơn về thẩm quyền ký ban hành văn bản cũng như cách trình bày chức vụ, họ tên và chữ ký của người có thẩm quyền, cụ thể như sau:
1. Thẩm quyền ký ban hành văn bản:
Nghị định 30/2020/NĐ-CP khẳng định một nguyên tắc chung là ở các cơ quan, tổ chức làm việc theo chế độ thủ trưởng, người đứng đầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền ký tất cả các văn bản do cơ quan, tổ chức ban hành; có thể giao cấp phó ký thay các văn bản thuộc lĩnh vực được phân công phụ trách và một số văn bản thuộc thẩm quyền của người đứng đầu. Trường hợp cấp phó được giao phụ trách, điều hành thì thực hiện ký như cấp phó ký thay cấp trưởng.
Đối với cơ quan, tổ chức làm việc theo chế độ tập thể thì người đứng đầu cơ quan, tổ chức thay mặt tập thể lãnh đạo ký các văn bản của cơ quan, tổ chức. Cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức được thay mặt tập thể, ký thay người đứng đầu cơ quan, tổ chức những văn bản theo ủy quyền của người đứng đầu và những văn bản thuộc lĩnh vực được phân công phụ trách.
Bên cạnh đó Nghị định cũng quy định thêm những người có thẩm quyền ký ban hành văn bản như sau:
– Trong trường hợp đặc biệt, người đứng đầu cơ quan, tổ chức có thể ủy quyền cho người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị thuộc cơ cấu tổ chức của mình ký thừa ủy quyền một số văn bản mà mình phải ký. Việc giao ký thừa ủy quyền phải được thực hiện bằng văn bản, giới hạn thời gian và nội dung được ủy quyền. Người được ký thừa ủy quyền không được ủy quyền lại cho người khác ký. Văn bản ký thừa ủy quyền được thực hiện theo thể thức và đóng dấu hoặc ký số của cơ quan, tổ chức ủy quyền.
– Người đứng đầu cơ quan, tổ chức có thể giao người đứng đầu đơn vị thuộc cơ quan, tổ chức ký thừa lệnh một số loại văn bản. Người được ký thừa lệnh được giao lại cho cấp phó ký thay. Việc giao ký thừa lệnh phải được quy định cụ thể trong quy chế làm việc hoặc quy chế công tác văn thư của cơ quan, tổ chức.
Như vậy, so với khoản 4, Điều 10 của Nghị định 110/2004/NĐ-CP ngày 08/4/2004 của Chính phủ về công tác văn thư (hết hiệu lực từ ngày 05/3/2020), Nghị định mới đã sửa đổi quy định “giao quyền ký thừa lệnh cho Chánh Văn phòng, Trưởng phòng Hành chính hoặc trưởng một số đơn vị” thành “giao người đứng đầu đơn vị thuộc cơ quan, tổ chức ký thừa lệnh một số loại văn bản”.
2. Trách nhiệm khi ký văn bản:
Khoản 5, Điều 13 của Nghị định 30/2020/NĐ-CP quy định trách nhiệm khi ký văn bản như sau: người ký văn bản phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về văn bản do mình ký ban hành. Người đứng đầu cơ quan, tổ chức phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về toàn bộ văn bản do cơ quan, tổ chức ban hành.
3. Cách ghi quyền hạn, chức vụ, chức danh và họ tên của người ký: Chức vụ ghi trên văn bản là chức vụ lãnh đạo chính thức của người ký văn bản trong cơ quan, tổ chức; không ghi những chức vụ mà Nhà nước không quy định.
Trường hợp ký thay mặt tập thể thì phải ghi chữ viết tắt “TM.” vào trước tên tập thể lãnh đạo hoặc tên cơ quan, tổ chức.
Trường hợp được giao quyền cấp trưởng thì phải ghi chữ viết tắt “Q.” vào trước chức vụ của người đứng đầu cơ quan, tổ chức.
Trường hợp ký thay người đứng đầu cơ quan, tổ chức thì phải ghi chữ viết tắt “KT.” vào trước chức vụ của người đứng đầu. Trường hợp cấp phó được giao phụ trách hoặc điều hành thì thực hiện ký như cấp phó ký thay cấp trưởng.
Trường hợp ký thừa lệnh thì phải ghi chữ viết tắt “TL.” vào trước chức vụ của người đứng đầu cơ quan, tổ chức.
Trường hợp ký thừa uỷ quyền thì phải ghi chữ viết tắt “TUQ.” vào trước chức vụ của người đứng đầu cơ quan, tổ chức.
Họ và tên người ký văn bản bao gồm họ, tên đệm (nếu có) và tên của người ký văn bản. Trước họ tên của người ký, không ghi học hàm, học vị và các danh hiệu danh dự khác. Việc ghi thêm quân hàm, học hàm, học vị trước họ tên người ký đối với văn bản của các đơn vị vũ trang nhân dân, các tổ chức sự nghiệp giáo dục, y tế, khoa học do người đứng đầu cơ quan quản lý ngành, lĩnh vực quy định.
4. Hình thức chữ ký: Đối với chữ trên văn bản giấy: khi ký tên trên văn bản giấy phải dùng bút có mực màu xanh, không dùng các loại mực dễ phai để ký văn bản. Đối với chữ ký trên văn bản điện tử: người có thẩm quyền thực hiện ký số, vị trí, hình ảnh chữ ký số theo Quy định tại Phụ lục I của Nghị định 30/2020/NĐ-CP. Cụ thể: Hình ảnh, vị trí chữ ký số của người có thẩm quyền là hình ảnh chữ ký của người có thẩm quyền trên văn bản giấy, màu xanh, định dạng Portable Network Graphics (.png) nền trong suốt; đặt canh giữa chức vụ của người ký và họ tên người ký. 5. Quy định về chữ ký nháy văn bản:
Ký nháy hay còn được gọi là ký tắt là chữ ký mà người ký không ký đầy đủ chữ ký của mình như ký thông thường mà chỉ ký vắn tắt chữ ký tại một số vị trí yêu cầu ký nháy. Chữ ký nháy thường nằm ở cuối nội dung văn bản (sau dấu ./.) hoặc ở vị trí cuối cùng của “Nơi nhận” thuộc phần ghi tên đơn vị nhận văn bản.
Đối với chữ ký nháy nằm ở cuối nội dung văn bản (sau dấu ./.), đây là chữ ký của người đứng đầu đơn vị chủ trì soạn thảo văn bản nhằm xác định đã kiểm tra và chịu trách nhiệm về độ chính xác của nội dung văn bản trước khi trình lãnh đạo cơ quan, tổ chức ký chính thức ban hành văn bản.
Đối với chữ ký nháy nằm ở vị trí cuối cùng của “Nơi nhận” thuộc phần ghi tên đơn vị nhận văn bản, đây là chữ ký của Chánh văn phòng ký xác nhận đã kiểm tra lần cuối và chịu trách nhiệm về thể thức, kỹ thuật trình bày, thủ tục ban hành văn bản của cơ quan, tổ chức.
+ Trong lĩnh vực về quyền tác giả: tại khoản 1, Điều 19 của Nghị định số 131/2013/NĐ-CP ngày 16/10/2013 của Chính phủ quy định phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng đối với hành vi giả mạo chữ ký của tác giả trên tác phẩm đồng thời buộc tiêu hủy tang vật phi phạm.
+ Trong lĩnh vực tư pháp: điểm a, khoản 3, Điều 45 của Nghị định 110/2013/NĐ-CP ngày 24/9/2013 của Chính phủ quy định phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối hành vi giả chữ ký của người có quyền yêu cầu đăng ký trong đơn yêu cầu đăng ký hoặc văn bản thông báo đối với đăng ký giao dịch bảo đảm đồng thời áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả là hủy bỏ giấy tờ giả.
+ Điều 24 của Nghị định 67/2015/NĐ-CP ngày 14/8/2015 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 110/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy định phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với hành vi giả mạo chữ ký của người thực hiện chứng thực.
+ Trong lĩnh vực kiểm toán: Nghị định số 41/2018/NĐ-CP ngày 12/3/2018 của Chính phủ quy định phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với hành vi kiểm toán viên ký báo cáo kiểm toán không đúng thẩm quyền theo quy định, ký báo cáo kiểm toán trước ngày ký báo cáo tài chính được kiểm toán; phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với hành vi kiểm toán viên ký báo cáo kiểm toán khi không phải là kiểm toán viên hành nghề, ký báo cáo kiểm toán quá ba năm liên tục cho một đơn vị được kiểm toán; phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với doanh nghiệp kiểm toán lập báo cáo kiểm toán không có đầy đủ chữ ký của kiểm toán viên hành nghề theo quy định; phạt cảnh cáo đối với hành vi doanh nghiệp kiểm toán thực hiện bản báo cáo minh bạch khi công bố không có chữ ký của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp kiểm toán hoặc người được ủy quyền.
Điểm c, khoản 1, Điều 359 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định người nào vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác mà lợi dụng chức vụ, quyền hạn thực hiện hành vi giả mạo chữ ký của người có chức vụ, quyền hạn thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm, có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng.
Như vậy, mọi người nên có ý thức cảnh giác khi được người khác nhờ ký hộ giấy tờ, không nên giả mạo chữ ký bởi hành vi này là vi phạm pháp luật.
Bạn đang đọc nội dung bài viết Thẩm Quyền Ban Hành Văn Bản Trong Doanh Nghiệp trên website Athena4me.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!