Cập nhật nội dung chi tiết về Tác Động Của Luật Quốc Tế Tới Quá Trình Hoàn Thiện Các Văn Bản Luật Của Việt Nam Trong Lĩnh Vực Bảo Vệ Quyền Trẻ Em mới nhất trên website Athena4me.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Trân trọng cảm ơn người dùng đã đóng góp vào hệ thống tài liệu mở. Chúng tôi cam kết sử dụng những tài liệu của các bạn cho mục đích nghiên cứu, học tập và phục vụ cộng đồng và tuyệt đối không thương mại hóa hệ thống tài liệu đã được đóng góp.
Many thanks for sharing your valuable materials to our open system. We commit to use your countributed materials for the purposes of learning, doing researches, serving the community and stricly not for any commercial purpose.
“Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai” là câu nói bao hàm đầy đủ ý nghĩa về Trẻ em. Trẻ em hôm nay là tương lai của nhân loại, của thế giới, của mỗi dân tộc, mỗi cộng đồng, mỗi họ tộc và mỗi gia đình mai sau.
Ngày 26 tháng 1 năm 1990, Việt Nam đã ký Công ước về quyền trẻ em 1989 và phê chuẩn Công ước ngày ngày 20 tháng 2 năm 1990, mà không kèm theo bảo lưu nào. Việt Nam là quốc gia thứ hai trên thế giới và cũng là quốc gia đầu tiên ở Châu Á phê chuẩn Công ước này. Việc phê chuẩn Công ước đã tạo cơ sở pháp lý quốc tế cho việc bảo vệ trẻ em ở Việt Nam, đồng thời cũng đặt ra những nghĩa vụ ràng buộc Việt Nam đối với việc thực thi Công ước. Tuy nhiên việc đảm bảo và thực hiện quyền trẻ em cũng còn nhiều hạn chế, tình trạng xâm hại trẻ em thực sự đáng báo động, rất nhiều hành vi vi phạm quyền trẻ em mà chưa chịu sự trừng trị của pháp luật. Vì những lí do trên em xin được chọn đề tài: (Phân tích tác động của Luật quốc tế tới quá trình hoàn thiện các văn bản luật của Việt Nam trong lĩnh vực bảo vệ quyền trẻ em) để làm bài tập lớn học kì. Tuy nhiên do hiểu biết của em còn hạn chế nên không thể tránh khỏi những thiếu sót, vì vậy em rất mong nhận được sự đóng góp của quý thầy cô để bài làm của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cám ơn!
Điều 1 Công ước về quyền trẻ em đã ghi nhận “Trẻ em là bất kỳ người nào dưới 18 tuổi, trừ trường hợp pháp luật có thể được áp dụng với trẻ em đó quy định tuổi thành niên sớm hơn”. Trung quốc: Điều 2, luật Bảo vệ người chưa thành niên quy định, trẻ em còn được gọi là trẻ chưa thành niên, là công dân dưới 18 tuổi. Nhật Bản: Điều 4, luật Phúc lợi trẻ em năm 1947 cũng quy định trẻ em là người dưới 18 tuổi. Pháp luật tôn trọng và thực thi toàn bộ những quy định để đảm bảo mọi phúc lợi cho trẻ em. Theo Điều 1 Luật liên bang Nga số 124-FZ ngày 21/7/1998 (sửa đổi), thì trẻ em được hiểu là người ở độ tuổi dưới 18.
Từ những quy định về độ tuổi của người chưa thành niên trong các văn bản pháp luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Luật Hôn nhân gia đình, Bộ luật Lao động hiện hành… trên chúng ta có thể hiểu và đưa ra một khái niệm về trẻ em như sau “Trẻ em là người dưới 18 tuổi”, khái niệm này phù hợp với Công ước quốc tế quyền trẻ em và pháp luật Việt Nam.
Quyền trẻ em chính là quyền của con người được cụ thể hóa cho phù hợp với nhu cầu, đặc trưng phát triển và tính chất cuộc sống trẻ em.
Công ước về quyền trẻ em năm 1989 đã bao quát được tất cả các khía cạnhcủa quyền trẻ em bao gồm: Quyền sống còn; quyền được phát triển; quyền được bảovệ quyền được tham gia và một số biện pháp bảo vệ dành cho các trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt.
Hiến pháp 1992, Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 đã nói rõ quyền cơ bản và bổn phận của trẻ em. Bộ luật Dân sự năm 2005 có những quy định riêng nhằm xác định địa vị pháp lý của trẻ em trong lĩnh vực dân sự, gồm quyền, nghĩa vụ và những đảm bảo pháp lý. Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2005 đã có những quy định trẻ em như là một thành viên đặc biệt của gia đình, cần có sự bảo hộ pháp lý đặc biệt. Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 xác định trẻ em với tư cách là một cá nhân, nên quyền có quốc tịch là một trong những quyền cơ bản và thiêng liêng nhất của trẻ em.
Quan hệ pháp luật quốc tế về bảo vệ quyền trẻ em, về bản chất thì đó chính là các quan hệ pháp luật điều chỉnh các quyền con người. Nguyên tắc chung của việc thực hiện điều ước quốc tế về quyền trẻ em là nguyên tắc tận tâm thực hiện cam kết quốc tế (nguyên tắc Pacta sutservanda) đòi hỏi các quốc gia có nghĩa vụ thực thi các điều ước quốc tế một các tự nhiên và nghiêm chỉnh. Đối tượng điều chỉnh của các thỏa thuận đó là các quyền trẻ em bao gồm quyền sống còn, quyền được bảo vệ, quyền được phát triển và quyền được tham gia. Công ước về quyền trẻ em ràng buộc nghĩa vụ của các quốc gia đã phê chuẩn hoặc gia nhập trong việc thực hiện các quyền trẻ em.
Quyền trẻ em được ghi nhận là các quyền cơ bản của công dân (chương V Hiến pháp 1992) mà nội dung của quyền này chủ yếu là các quyền dân sự, bao gồm: quyền sống còn, quyền được bảo vệ, quyền được phát triển và quyền được tham gia.
Việt Nam đã xây dựng một bộ máy các cơ quan Nhà nước để đảm bảo việc thực hiện quyền trẻ em.
Pháp luật quốc tế có tác động tích cực đến sự phát triển và hoàn thiện pháp luật Việt Nam về bảo vệ quyền trẻ em.
Tính chất tác động của luật quốc tế đối với luật quốc gia được đánh giá bằng thực tiễn thực thi nghĩa vụ thành viên điều ước quốc tế của quốc gia, thể hiện ở những hoạt động cụ thể: Sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các quy định của luật quốc gia phù hợp với cam kết quốc tế của chính quốc gia đó.
Các văn bản pháp luật Việt Nam hiện nay đều thể hiện quan điểm của Nhà nước Việt Nam trong việc nghiêm chỉnh tuân thủ và tôn trọng các nghĩa vụ cũng như các cam kết quốc tế mà Việt Nam chính thức ràng buộc, trên cơ sở bình đẳng, có đi có lại, hợp tác phát triển.
Hiến pháp năm 1992 đã khẳng định Nhà nước Việt Nam tôn trọng các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội trong đó có quyền trẻ em.
– Quyền sống còn
Điều 32, 37 Bộ luật Dân sự năm 2005: Cá nhân có quyền được đảm bảo an toàn về tính mạng, sức khoẻ, thân thể. Danh sự, nhân phẩm, uy tín của cá nhâ được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ. Bộ luật Hình sự cũng đã góp phần bảo vệ quyền sống còn của trẻ em. Luật Bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004: “1. Trẻ em có quyền được chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ; 2. Trẻ em dưới sáu tuổi được chăm sóc sức khoẻ ban đầu, được khám bệnh, chữa bệnh không phải trả tiền tại các cơ sở y tế công lập.”
– Quyền được bảo vệ
Trong pháp luật Việt Nam, quyền được bảo vệ bao gồm các quyền: Trong lĩnh vực Dân sự; Hành chính; Hình sự; Lao động; Bảo vệ khỏi bị xâm hại tình dục, tệ nạn ma tuý, trẻ em có hoàn cảnh khó khăn.
– Quyền được phát triển
– Quyền được tham gia
Trẻ em cần có một môi trường thuận lợi để thực hiện quyền được tham gia một cách đầy đủ. Người lớn có nghĩa vụ tạo điều kiện cho trẻ em thực hiện quyền tham gia: Quyền được bày tỏ ý kiến; Quyền tham gia lao động và ký kết hợp đồng lao động; Quyền khiếu nại tố cáo
Hệ thống pháp luật còn tản mạn dẫn tới những quy định không thống nhất. Tình trạng buông lỏng giáo dục từ trong đời sống gia đình. Nền giáo dục còn nhiều hạn chế. Các cơ quan chuyên trách, tổ chức có trách nhiệm trong việc thực hiện quyền trẻ em chưa phát huy được vai trò của mình. Nhận thức của cộng đồng xã hội về việc chăm sóc và bảo vệ trẻ em chưa được nâng cao. Vì vậy cần thực hiện một số biện pháp sau đây để nhằm hoàn thiện hơn pháp luật về bảo vệ quyền của trẻ em.
– Cần ban hành quy định cụ thể về công tác làm Báo cáo quốc gia về quyền trẻ em, yêu cầu các quốc gia thành viên phải được thực hiện đúng và đầy đủ các công việc để thống nhất và có báo cáo trung thực, chính xác nhất về tình hình trẻ em ở mỗi nước.
– Cần đẩy mạnh và kiện toàn cơ chế về bảo vệ và phát triển quyền trẻ em. Công tác giám sát, đánh giá, điều tra việc thực hiện quyền trẻ em ở các quốc gia luôn phải kiện toàn để thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ quyền trẻ em một cách thường xuyên và đồng đều ở các quốc gia trên thế giới.
– Phải rà soát và hệ thống hóa các văn bản pháp luật có quy định về quyền trẻ em. Hoạt động này nhằm phát hiện những nội dung văn bản pháp luật mâu thuẫn, chồng chéo, không phù hợp với thực tiễn. Tiến hành ban hành các văn bản pháp luật mới, luật hóa quyền tiếp cận thông tin của công dân. Việc sửa đổi, bổ sung và ban hành các văn bản pháp luật về quyền trẻ em cần phải được tiến hành ngay nhưng về lâu dài có thể nghiên cứu để xây dựng Luật về bảo vệ quyền trẻ em một cách chi tiết, cụ thể hơn.Các quy phạm pháp luật quy định về quyền được bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em còn tản mạn ở nhiều ngành luật, nhiều văn bản pháp luật khác nhau.
– Cần tuyên truyền và giáo dục đối với quyền trẻ em bởi, việc tuyên truyền, giáo dục đóng góp rất lớn vào việc thực hiện, tuân thủ pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật của người dân.
– Cần tăng cường vai trò Nhà nước bởi, nhà nước có vai trò to lớn trong việc thực hiện quyền trẻ em ở Việt Nam, Nhà nước phải xác định mục tiêu trẻ em và đảm bảo quyền trẻ em luôn được đặt trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội, cần tăng cường hơn nữa vai trò của Nhà nước với những giải pháp thiết thực.
– Cần nâng cao vai trò, trách nhiệm của gia đình vì đây là yếu tố quyết định đảm bảo cho quyền trẻ em được thực hiện tốt ngay từ trong mái ấm gia đình.
– Cần thành lập Toà án vị thành niên pháp luật Tố tụng Hình sự Việt Nam hiện nay có quy định một số thủ tục tố tụng riêng dành cho những người phạm tội là người chưa thành niên nhưng thực tế cho thấy nhiều toà án đã xem nhẹ các quy định này. Vì thế cùng với quá trình cải cách tư pháp cần thiết phải thành lập Toà án vị thành niên và quan trọng hơn là tạo điều kiện tốt nhất, giáo dục các em trở thành những công dân có ích cho gia đình và xã hội.
1. Hiến pháp nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.
2. Luật Quốc tịch.
3. Luật Lao động
4. Luật bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em 2004.
5. Công ước quốc tế quyền trẻ em 1989.
6. Pháp luật Quốc tế về lao động tre em – Khóa luận tốt nghiệp – Bùi Thi Quyên Quyên – Đại học Luậtt Hà Nội – 2012.
Hoàn Thiện Pháp Luật Về Quyền Trẻ Em Theo Tinh Thần Pháp Luật Quốc Tế
Hoàn thiện pháp luật về quyền trẻ em theo tinh thần pháp luật quốc tế. Pháp luật quốc tế có tác động thế nào tới hoàn thiện pháp luật về trẻ em?
Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, Nhà nước Việt Nam đặt con người ở vị trí trung tâm của các chính sách phát triển kinh tế xã hội, trong đó thúc đẩy và bảo vệ quyền con người là nhân tố quan trọng để phát triển bền vững, để thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Hơn thế nữa, đối tượng trẻ em là đối tượng rất dễ bị tổn thương, bị ảnh hưởng bởi môi trường, hoàn cảnh. Vì vậy, việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền trẻ em phải được xem là vấn để cấp thiết.
Về quyền sống còn: Quyền sống còn của trẻ em xuất phát từ các quy định về bảo vệ sức khỏe người phụ nữ trong quá trình mang thai, sinh đẻ và chăm sóc trẻ sơ sinh. Quyền này của người phụ nữ được quy định trong Điều 63 Hiến pháp 1992. Theo Luật Bảo vệ và Chăm sóc sức khỏe nhân dân năm 1989 thì phụ nữ được khám bệnh, được theo dõi sức khỏe trong thời kì thai nghén… mặt khác theo Bộ luật Lao động, phụ nữ trong thời kì mang thai và nuôi con không phải làm các công việc nặng nhọc, độc hại ảnh hưởng tới sức khỏe sinh sản. Theo Công ước về quyền trẻ em, quyền sống là quyền đầu tiên trẻ em được hưởng và phải bảo vệ. Với ý nghĩa như vậy, Việt Nam đã có sự kế thừa và xây dựng những quy định chặt chẽ việc bảo vệ quyền sống còn nói chung, quyền sống của trẻ em nói riêng.
Trong Công ước về quyền trẻ em, khái niệm “Bảo đảm sự sống cho trẻ em” được mở rộng không chỉ bao gồm việc bảo đảm không bị tước đoạt về tính mạng mà còn bao gồm việc bảo đảm cho trẻ em được cung cấp dinh dưỡng và sự chăm sóc y tế cao nhất. Quan điểm này cũng được Luật Bảo vệ và Chăm sóc sức khỏe nhân dân và Điều 15 Luật Bảo vệ Chăm sóc và Giáo dục trẻ em năm 2004 quy định. Trẻ em phát triển toàn diện và hài hòa phụ thuộc vào việc chăm sóc sức khỏe, từ khi sinh ra cho đến khi trường thành.
Về quyền được bảo vệ: quyền này chiếm vị trí quan trọng nhằm tạo ra một hàng rào pháp lí cho sự sống và phát triển của trẻ em. Nó bao gồm các quyền cơ bản như:
Quyền có quốc tịch: Theo Luật quốc tịch năm 1998 việc hưởng quốc tịch của trẻ em dựa trên 2 nguyên tắc: Nguyên tắc huyết thống và nguyên tắc nơi sinh. Hai nguyên tắc này đảm bảo quyền có quốc tịch của trẻ em được quy định trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1996 và Công ước về quyền trẻ em 1989, đồng thời tránh tình trạng trẻ có nhiều quốc tịch hoặc không quốc tịch.
Quyền thừa kế: theo Bộ Luật Dân sự, người thừa kế là cá nhân còn sống vào thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thao trước khi người đẻ lại di sản chết. Trẻ em được hưởng thừa kế theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Ngoài ra, còn có quyền được khai sinh (Nghị định 83/1998/NĐ CP ngày 10/10/1998 quy định về đăng kí khai sinh cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt như trẻ em sinh ra ngoài giá thú, trẻ bị bỏ rơi, trẻ me sinh ra mới chết) hay các quyền dân sự theo quy định trong Bộ Luật Dân sự. Một số quy định trong “Bộ luật hình sự 2015” cũng hướng tới đối tượng là trẻ em như : người chưa thành niên phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự đối với tội ít nghiêm trọng, … Không xử phạt tù chung thân hoặc tử hình đối với người chưa thành niên phạm tội… Các quy định về xâm phạm quyền trẻ em. Trong kinh tế, lao động: Pháp luật Việt Nam có nhiều quy định về vấn đề bảo vệ trẻ em trong lĩnh vực kinh tế, lao động thông qua việc hạn chế tuổi lao động, học nghề.
Về quyền được phát triển.
Môi trường đầu tiên và cũng là quan trọng nhất cho sự phát triển của trẻ em đó là gia đình. Vì vậy trách nhiệm của gia đình đối với sự phát triển của trẻ em được xác định trong các văn bản pháp luật Việt Nam như Hiến pháp (Điều 64, Điều 65), Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014. Với quan điểm “Giáo dục là quốc sách hàng đầu” Nhà nước ta đã cụ thể hóa thông qua các quy định như:
Theo Điều 59 Hiến pháp 1992 thì giáo dục tiểu học là bắt buộc không phải trả học phí. Đây là quy định nền tảng cho quyền học tập của trẻ em. Điều 21 và 24 Luật giáo dục năm 2005.
Pháp luật về trẻ em nói chung và về quyền trẻ em nói riêng có vị trí rất quan trọng trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Các văn bản pháp luạt hiện hành rất phù hợp với tinh thần của Công ước về quyền trẻ em năm 1989, không chỉ ghi nhận quyền mà còn xây dựng cơ chế đảm bảo việc thực hiện các quyền đó, quy định trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, gia đình và mọi công dân trong việc bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em, bảo vệ quyền trẻ em.
Tiểu Luận Phân Tích Tác Động Của Wto Đối Với Kinh Tế Việt Nam Trong Quá Trình Hội Nhập Kinh Tế Quốc Tế
Tiểu luận Môn: chính sách thương mại quốc tế Đề tài: Từ bối cảnh quốc tế và khu vực và kiến thức chung về thương mại quốc tế. Hãy phân tích tác động của WTO đối với kinh tế Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế Hà Nội – 2006 Tiểu luận Từ bối cảnh quốc tế và khu vực và kiến thức chung về thương mại quốc tế. Hãy phân tích tác động của WTO đối với kinh tế Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế Bài viết Toàn cầu hóa kinh tế là một xu thế lớn, khách quan của thế giới đương đại đang tác động mạnh mẽ đến mọi lĩnh vực đời sống nhân loại cũng như mỗi quốc gia. Sự hình thành và phát triển tổ chức thương mại thế giới (WTO) là sự thể hiện của xu thế toàn cầu hóa đồng thời thúc đẩy sự phát triển của xu thế đó. Công cuộc đổi mới đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo đã đạt được những thành tựu lớn lao, đưa đất nước bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Để thực hiện mục tiêu trên, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra đường lối chính sách vừa phát huy sức mạnh toàn dân tộc vừa tích cực chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc và thời đại. Việc Việt Nam gia nhập WTO phản ánh một xu thế lớn của thời đại và khẳng định chính sách hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng và Nhà nước ta. Tổ chức thương mại thế giới (WTO) là tổ chức kinh tế đa phương, nhằm thúc đẩy tự do hóa thương mại, hội nhập kinh tế trên phạm vi toàn cầu. WTO hiện có 148 thành viên chiếm 85% tổng thương mại hàng hóa và 90% thương mại dịch vụ toàn cầu. Hiện còn 27 nước trong đó có Việt Nam đang đàm phán gia nhập. WTO được tổ chức chặt chẽ hoạt động theo 5 nguyên tắc: – Thương mại không phân biệt đối xử. – Tạo dựng một nền tảng ổn định cho phát triển thương mại. – Đảm bảo thương mại ngày càng tự do thông qua đàm phán. – Tạo môi trường cạnh tranh ngày càng bình đẳng. – Dành điều kiện đặc biệt cho các nước đang phát triển. Xác định vị thế quốc tế của Việt Nam là thành viên bình đẳng trong WTO cùng các nước đang phát triển xây dựng quy định, luật lệ của WTO. Hưởng quyền lợi của một thành viên đang phát triển của WTO. Hàng hóa và dịch vụ nước ta sẽ được đối xử bình đẳng trong WTO và có cơ sở pháp lý để đấu tranh khi bị đối xử không công bằng. Tiếp cận hệ thống giải quyết tranh chấp thương mại công bằng và hiệu quả của WTO. Việc Việt Nam gia nhập WTO có cơ hội mở rộng xuất khẩu các mặt hàng nông sản, thủy sản, may mặc, giầy da, thủ công mỹ nghệ, các hàng hóa sử dụng nhiều lao động. Từ đó tăng trưởng xuất khẩu làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế, mở rộng sản xuất, tạo công ăn việc làm. Khi gia nhập WTO thì Việt Nam phải tuân thủ luật lệ WTO làm cho môi trường kinh doanh của nước ta phù hợp với thông lệ quốc tế, tăng sự hỗ trợ quốc tế về tài chính, tín dụng cho phát triển kinh tế Việt Nam và cũng tạo cơ hội tiếp thu khoa học công nghệ, kỹ năng quản lý, tăng cường đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý kinh doanh và nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Khi Việt Nam gia nhập WTO sẽ có những thách thức lớn như: – Hệ thống luật pháp, chính sách cơ chế quản lý kinh tế phải sửa đổi điều chỉnh cho phù hợp với luật lệ của WTO và các cam kết quốc tế đã được ký kết. – Cơ cấu kinh tế cũng phải chuyển dịch cho phù hợp với một nền kinh tế thị trường mở cửa hội nhập, đòi hỏi một cơ cấu đầu tư đúng đắn và hiệu quả. – Năng lực cạnh tranh của hàng hóa và dịch vụ yếu kém, năng lực cạnh trnah của doanh nghiệp thấp có nguy cơ thua thiệt trước mắt là rất lớn, mặc dù về lâu dài chúng ta có thể khắc phục và triển vọng tốt lên. Điều đó đòi hỏi phải có sự thay đổi quyết liệt từ cơ chế quản lý của nhà nước đến cung cách quản trị của doanh nghiệp. – Lao động và việc làm có nhiều biến động đòi hỏi được đào tạo nghề nghiệp được tự do di chuyển theo cung – cầu trên thị trường. Đó là những thách thức nặng nề mang tính chất ngắn hạn. Thách thức to lớn nhưng không phải không vượt qua được. Suy cho cùng vượt qua thách thức đó cũng chính là vượt qua chính mình để phát triển cùng thế giới hiện đại. Yếu tố quyết định hội nhập thành công hay thất bại tùy thuộc vào năng lực cạnh tranh của nền kinh tế nước ta, mà trước hết là năng lực cạnh tranh của hàng hóa và dịch vụ. Vì vậy, cần tổ chức lại hệ thống các doanh nghiệp theo ngành hàng, theo các quan hệ liên kết về kinh tế, kỹ thuật thuộc mọi thành phần kinh tế nhằm hình thành doanh nghiệp đầu tàu hoặc công ty mẹ tập hợp được sức mạnh cộng đồng các doanh nghiệp đủ sức làm đối tác cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài. Đẩy mạnh cải cách hệ thống các doanh nghiệp nhà nước theo hướng tích cực, tháo gỡ những vướng mắc để thực hiện bằng được chương trình cổ phần hóa, bán, khoán, cho thuê hoặc giải thể các doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ. Nâng cao năng lực quản trị kinh doanh choc ác doanh nghiệp trong bối cảnh hội nhập. Doanh nghiệp cần có chiến lược kinh doanh, chiến lược sản phẩm xây dựng thương hiệu, quảng bá sản phẩm. Tập trung khai thác lợi thế trong cạnh tranh, nghiên cứu phát triển sản phẩm mới, hiện đại hóa công nghệ, chọn lựa hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến. Nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa, dịch vụ chính là nâng cao năng suất lao động, giảm chi phí, hạ giá thành, nâng cao chất lượng của hàng hóa và dịch vụ. Đó là cuộc cải cách toàn diện về tổ chức và quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mà yếu tố quyết định là con người. Thực tế mở cửa hội nhập những năm qua cho thấy Việt Nam có một số ngành phát triển tốt có thế mạnh để nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường thế giới. Đó là sức mạnh của ngành nông nghiệp với các sản phẩm như gạo, cà phê, cao su, hồ tiêu, điều và thủy sản. Chúng ta có cơ hội tốt để xây dựng ngành chế biến nông sản, chế biến thực phẩm. Trong công nghiệp cũng có một số ngành hàng như điện tử, công nghệ thông tin, chế biến gỗ, sản xuất xe đạp, đóng tàu biển. Để tăng sức cạnh tranh cần phải cải cách quản lý kinh tế vĩ mô nhằm tạo môi trường và điều kiện cho doanh nghiệp cạnh tranh có hiệu quả hơn. Lĩnh vực dịch vụ có năng lực cạnh tranh cao sẽ tạo tiền đề cho phát triển kinh tế. Năng lực cạnh tranh hiện nay của lĩnh vực dịch vụ ở Việt Nam còn thấp. Muốn nâng cao năng lực cạnh tranh của lĩnh vực này trước hết cần có những điều chỉnh mang tính chiến lược để tốc độ tăng trưởng của lĩnh vực dịch vụ phải cao hơn tốc độ tăng trưởng GDP và tỷ trọng của dịch vụ trong GDP tăng dần. Để nâng cao khả năng của lĩnh vực dịch vụ trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế cần: – Nhận thức rõ và quán triệt vai trò cực kỳ quan trọng của dịch vụ trong việc tạo ra môi trường thuận lợi cho phát triển toàn bộ nền kinh tế, đóng góp lớn cho GDP và lĩnh vực tạo ra nhiều việc làm có kỹ năng. – Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đến năm 2020 nước ta trở thành nước công nghiệp, cầu dịch vụ chuyển mạnh cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động. Tăng tỷ trọng của dịch vụ trong GDP là nhân tố quan trọng để đạt được mục tiêu đó. – Trong các chiến lược phương hướng phát triển kinh tế của Đảng và Quốc hội trong những năm tới cần đề ra rõ ràng và nhất quán những nhiệm vụ và mục tiêu đảm bảo cho tỷ trọng của dịch vụ trong GDP ngày càng tăng nhanh. – Cần đề ra mục tiêu tốc độ tăng trưởng dịch vụ cao hơn tốc độ tăng trưởng của GDP. Khi Việt Nam gia nhập WTO sẽ có những tác động đến kinh tế của Việt Nam như: * Việc làm là vấn đề kinh tế – xã hội phức tạp trong xã hội hiện đại, gia nhập WTO tức là chúng ta phải chấp nhận các luật lệ, các quy chế của WTO. Hiện nay, theo nhận xét của các chuyên gia kinh tế Việt Nam tuy có nguồn lao động dồi dào nhưng trình độ và chất lượng còn thấp. Thợ có trình độ tay nghề cao, lành nghề rất ít, tác phong công nghiệp yếu, sức cạnh tranh kém so với các nước trong khu vực và quốc tế. Như vậy, khi gia nhập WTO tác động tới việc làm có thể là tích cực trong dài hạn nhưng cũng không tránh khỏi các tác động tiêu cực trong thời gian đầu khi trở thành thành viên WTO. + Tác động tích cực: tác động khi gia nhập WTO tới việc làm biểu hiện ở 3 khu vực. Thứ nhất ở khu vực đầu tư nước ngoài dưới tác động của các điều khoản về đầu tư, thứ hai là ở khu vực các doanh nghiệp sản xuất và chế biến hàng xuất khẩu, đặc biệt là những ngành sử dụng nhiều lao động dưới tác động của các điều khoản về thương mại; thứ ba là ở các khu vực do tăng giao thương quốc tế nên có tác động kích cầu nội địa về hàng hóa, dịch vụ kéo theo tăng lao động tạo thêm việc làm mới, tăng thu nhập cho người lao động. Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay hoạt động của các công ty đa quốc gia thực sự mang tính toàn cầu. Các công ty được thành lập ở nhiều quốc gia khác nhau, nguyên liệu đầu vào có thể được nhập khẩu từ nhiều nước khác nhau trên thế giới, các linh kiện có thể được gia công ở nhiều quốc gia như vậy, lao động của các công ty cũng được luân chuyển giữa các chi nhánh và các công ty con ở các quốc gia. Trong điều kiện đó nếu gia nhập WTO chúng ta sẽ tiếp nhận lao động từ bên ngoài vào Việt Nam và cũng có thể đưa lao động của ta ra nước ngoài. Cả hai trường hợp nếu có chính sách phù hợp chúng ta đều tiếp thu được kinh nghiệm quản lý, công nghệ mới, tăng lao động, tăng việc làm. Lao động và việc làm mới có thể được cải thiện rõ hơn trong các ngành nghề xuất khẩu, trong đó có các ngành chiếm tỷ lệ kim ngạch dệt may, giày dép, thủy sản, thủ công mỹ nghệ, trồng các cây công nghiệp như cà phê, hồ tiêu, cao su… Khi gia nhập WTO, mở cửa thương mại và không phân biệt đối xử theo nguyên tắc cơ bản của WTO. Việt Nam sẽ chịu tác động của ba chủ thể: Nhà nước, doanh nghiệp và người lao động theo hai chiều thuận nghịch. Riêng đối với người lao động sẽ có những tác động nhất định. Trong lĩnh vực tiêu dùng người lao động được lợi do giá rẻ và phong phú về chủng loại mặt hàng, đồng thời họ có quyền lựa chọn hàng hóa. Việc mở cửa thương mại, khuyến khích phát triển kinh tế, cùng với sự bùng nổ thông tin đang diễn ra mạnh mẽ tạo điều kiện, cơ hội thuận lợi để người lao động tiếp xúc, giao lưu với các nền văn minh trên thế giới. Trong kinh tế thị trường để có được hàng hóa chất lượng cao với giá cạnh tranh thìc ần có những dây chuyền sản xuất hiện đại, với quy trình công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến. Những ngành nghề mới đòi hỏi phải có lực lượng lao động trẻ, năng động, có sức khỏe, có trình độ học vấn và tay nghề cao. Chính trong môi trường đó sẽ tạo điều kiện và cơ hội để người lao động vươn lên nâng cao trình độ học vấn, tay nghề, ngoại ngữ, vi tính. Cũng chính từ sự tiếp cận với kỹ thuật, công nghệ, kinh nghiệm quản lý tiên tiến và hiện đại mà tư duy, hành động của người lao động luôn được đổi mới và nâng cao. Người lao động tỏ ra năng động hơn, có tác phong lao động công nghiệp hơn. Do đó, chất lượng lao động sẽ được nâng lên, toàn bộ kết cấu nguồn lực sẽ tiến dần đến trình độ quốc tế nhanh hơn. Tác động tiêu cực: Tuy nhiên khi tham gia WTO, sức ép đối với lao động và việc làm là rất lớn. Tự do hóa thương mại và đầu tư là nguyên nhân của việc cắt giảm việc làm, xu hướng người lao động rời khỏi dây chuyền sản xuất sẽ diễn ra thường xuyên. Trong cơ chế thị trường thay đổi cơ cấu kinh tế, cơ cấu ngành, cơ cấu sản xuất mặt hàng, áp dụng công nghệ mới, cơ cấu chuyển dịch từ ngành này sang ngành khác là đương nhiên. Vì vậy, gia nhập WTO góp phần làm tăng tiền lương thực tế trong một số ngành này nhưng cũng có thể dẫn tới nguy cơ gia tăng tỷ lệ thất nghiệp và giảm tiền lương ở một số ngành nghề khác. Gia nhập WTO, Việt Nam phải tham gia sâu rộng vào hệ thống phân công lao động quốc tế, chuyên môn hóa sản xuất. Như vậy, đòi hỏi chất lượng lao động của Việt Nam phải được nâng lên về mọi mặt. Dưới sức ép cạnh tranh khắc nghiệt của kinh tế thị trường các doanh nghiệp có thể thực hiện cắt giảm chi phí bằng các biện pháp bóc lột sức lao động, nợ lương cắt, giảm các tiện nghi làm việc tối thiểu, vi phạm các quy định về vệ sinh an toàn lao động, không đảm bảo các điều kiện lao động cần thiết, tối thiểu. Đây là những tác động tiêu cực có thể xảy ra, làm tăng nguy cơ đối với người lao động. * Khi gia nhập WTO sẽ tạo thế và lực cho kinh tế Việt Nam trên trường quốc tế: Xác định vị thế quốc tế của Việt Nam là thành viên bình đẳng trong WTO góp tiếng nói cùng các nước đang phát triển để xây dựng quy định, luật lệ của WTO. Hưởng quyền lợi của một thành viên đang phát triển của WTO. Tránh sự áp đặt đơn phương bất bình đẳng của các nước đối với ta về kinh tế, về xã hội, lao động, môi trường. Hàng hóa và dịch vục ủa Việt Nam sẽ được đối xử bình đẳng trong WTO và có cơ sở pháp lý để đấu tranh khi bị đối xử không công bằng. Tiếp cận hệ thống giải quyết tranh chấp thương mại công bằng và hiệu quả của WTO. Thực tế mở cửa hội nhập những năm qua cho thấy Việt Nam có một số ngành phát triển tốt, có thế mạnh để nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường thế giới. Đó là thế mạnh của ngành nông nghiệp với các sản phẩm như gạo, cà phê, cao su, hồ tiêu, hạt điều, thuỷ sản. Về hàng dệt may Việt Nam vẫn phải chịu chế độ hạn ngạch dệt may do chưa trở thành thành viên của WTO. Khiến Việt Nam phải cạnh tranh gay gắt hơn với các nước thành viên của WTO như Trung Quốc và Inđônêxia… Mặt khác do thiếu nguồn nguyên liệu (50% nguyên liệu của ngành dệt may và 80% bông phải nhập khẩu từ nước ngoài) làm cho ngành công nghiệp này phải đương đầu với nhiều khó khăn. Tuy nhiên, theo đánh giá của các chuyên gia quốc tế dù chưa tham gia WTO Việt Nam đã thiết lập khá ổn định sự có mặt trong thị trường hàng dệt may toàn cầu. Hàng dệt may của Việt Nam có sức cạnh tranh. Do vậy, vẫn có nhiều cơ hội để vươn lên giành vị trí xuất khẩu dệt may thứ 2 sau Trung Quốc. Vì các nước nhập khẩu sẽ đa dạng hóa nguồn hàng chứ không chịu lệ thuộc vào nguồn cung cấp duy nhất từ Trung Quốc. Ngoài ra sản phẩm dệt may Việt Nam cũng đã tạo được sự tin cậy của các nhà bán lẻ quốc tế về chất lượng hàng và thời gian giao hàng. Do vậy, ngành dệt may Việt Nam cần tiếp tục phát huy thế mạnh của mình, nâng cao hơn nữa sức cạnh tranh bằng các biện pháp tích cực như đổi mới công nghệ, đa dạng hóa mẫu mã, nâng cao chất lượng sản phẩm, kiểm soát chi phí, giảm giá thành. Với việc bãi bỏ hạn ngạch của WTO để đạt được mục tiêu đạt khoảng 8-9 tỷ USD vào năm 2010 thì các doanh nghiệp dệt may Việt Nam phải đẩy mạnh lợi thế cạnh tranh nếu như họ muốn duy trì phát triển lâu dài ở các khu vực thị trường như Mỹ, EU, Canada… thông qua công tác tiếp thị, thiết kế mẫu mã và công tác quảng bá, xây dựng thương hiệu hình ảnh ngành dệt may Việt Nam ra thị trường thế giới. Hợp tác tốt hơn với các quốc gia láng giềng châu á cũng có thể góp phần phát triển ngành dệt may của Việt Nam thông qua việc để các bên tận dụng tiềm lực của nhau, giảm chi phí cho sản phẩm dệt may trong khu vực và tăng tính cạnh tranh. * Khi gia nhập WTO, Việt Nam sẽ tăng thu hút đầu tư nước ngoài. Do tuân thủ luật lệ WTO làm cho môi trường kinh doanh Việt Nam phù hợp với thông lệ quốc tế tăng sức hấp dẫn các nhà đầu tư quốc tế, tăng sự hỗ trợ quốc tế về tài chính, tín dụng cho phát triển kinh tế Việt Nam. Vậy, gia nhập WTO là đòi hỏi cấp bách của Việt Nam. Cần tạo sự nhất trí về chủ trương, chính sách hội nhập. Từ lãnh đạo quốc gia, các ngành, các cấp đến các doanh nghiệp và người dân. Đẩy mạnh điều chỉnh luật pháp cho phù hợp, phát triển đồng bộ thể chế kinh tế thị trường, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp khả năng cạnh tranh của hàng hóa và dịch vụ xây dựng chiến lược và lộ trình nhằm chủ động, tích cực hội nhập.
Hoàn Thiện Pháp Luật Lao Động Của Vương Quốc Campuchia Với Việc Bảo Vệ Quyền Và Lợi Ích Hợp Pháp Của Người Sử Dụng Lao Động
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
KEO MENG HONG
PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG CAMPUCHIA VỚI VẤN ĐỀ BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA NGƯỜI SỬ DỤNG LAO ĐỘNG CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ MÃ SỐ: 603850
LUẬT VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN: TIẾN SĨ TRẦN THỊ THÚY LÂM
HÀ NỘI – 2011
LỜI CẢM ƠN
KEO MENGHONG
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Tổ chức Lao động quốc tế
: ILO
Người lao động
: NLĐ
Người sử dụng lao động
: NSDLĐ
Pháp luật lao động
: PLLĐ
MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU
1
Chương 1 . MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA NGƯỜI SỬ DỤNG LAO ĐỘNG TRONG PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG
5
1.1. Khái niệm, vai trò của người sử dụng lao động và sự cần thiết phải bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NSDLĐ 5 1.1.1. Khái niệm người sử dụng lao động………………………………………….5 1.1.2. Vai trò người sử dụng lao động……………………………………………….6 1.1.3. Sự cần thiết phải bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao động trong pháp luật lao động…………………………………………….8 1.2. Điều chỉnh pháp luật về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao động
11
1.2.1 Nội dung bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao động……………………………………………………………………………………………11 1.2.2. Biện pháp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao động……………………………………………………………………………………………16 1.3. Sơ lược lịch sử pháp luật bảo vệ người sử dụng lao động ở Campuchia.
21
1.3.1. Từ 1953 đến năm 1997…………………………………………………………21 1.3.2. Từ năm 1997 đến nay…………………………………………………………..22 Chương 2. PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG HIỆN HÀNH CỦA VƯƠNG QUỐC CAMPUCHIA VỚI VIỆC BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA SỬ DỤNG LAO ĐỘNG VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG 26
2.1. Quy định của pháp luật lao động Campuchia về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao động trong tuyển dụng lao động và thực tiễn áp dụng.
26
2.2. Quy định của pháp luật lao động Campuchia về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao động trong quản lý lao động và thực tiễn áp dụng.
33
2.3. Quy định của pháp luật lao động Campuchia về bảo vệ tài sản cho người sử dụng lao động và thực tiễn áp dụng. 40 2.4. Quy định của pháp luật lao động Campuchia về các phương thức bảo vệ NSDLĐ và thực tiễn áp dụng.
46
Chương 3 . HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG CỦA VƯƠNG QUỐC CAMPUCHIA VỚI VIỆC BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA NGƯỜI SỬ DỤNG LAO ĐỘNG
52
3.1. Yêu cầu của việc hoàn thiện pháp luật lao động Vương Quốc Campuchia với việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NSDLĐ 52 3.1.1. Mở rộng hơn nữa việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NSDLĐ trong mối tương quan với việc bảo vệ quyền lợi của NLĐ……52 3.1.2. Đảm bảo việc hoàn thiện pháp luật lao động về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NSDLĐ trong giải pháp tổng thể với việc hoàn thiện các quy định của pháp luât khác……………………………………………..55 3.1.3. Đảm bảo sự hội nhập kinh tế quốc tế và phù hợp với điều kiện thực tế của thị trường lao động Campuchia……………………………………..57 3.2. Những giải pháp để hoàn thiện pháp luật lao động Campuchia với việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp của NSDLĐ KẾT LUẬN
59
66
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
67
LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Hệ thống pháp luật của bất kỳ một nước nào cũng phản ánh những chuẩn mực, thông lệ và giá trị về kinh tế, chính trị, xã hội của nước đó tại thời điểm luật pháp được ban hành. Ở Campuchia, trong giai đoạn nền kinh tế tập trung thì người sử dụng lao động chỉ là người nhân danh Nhà nước trong quản lý tài sản mà không có quyền quyết định bất cứ một vấn đề gì về tổ chức quản lý doanh nghiệp. Vì vậy, vai trò của người sử dụng lao động rất mờ nhạt. Chính sự bao bọc một cách toàn diện tuyệt đối của Nhà nước đối với quyền lợi của người sử dụng lao động đã tạo ra sự trì trệ, thói quen ỷ lại, không phát huy được năng lực tự chủ, tính năng động sáng tạo của bản thân người lao động cũng như người sử dụng lao động. Thực tế, người ta thường quan tâm và bảo vệ “quyền và lợi ích người lao động” hơn bởi quan niệm người lao động là đối tượng yếu thế, dễ bị bất lợi hơn trong tương quan với người sử dụng lao động. Trong những năm gần đây, các tranh chấp lao động xảy ra nhiều hơn, thường xuyên hơn, trong đó quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao động bị xâm hại cũng chiếm một phần tương đối lớn trong tổng số các vụ án lao động. Đã đến lúc phải nhận thấy việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao động cũng cần được coi trọng trong mối tương quan với việc bảo vệ quyền và lợi ích của người lao động. Trên thực tế, có những tranh chấp lao động xảy ra mà nguyên nhân chủ yếu là do trình độ chuyên môn của người lao động kém, tính kỷ luật thấp và trình độ hiểu biết luật pháp hạn hẹp dẫn đến việc gây thiệt hại không nhỏ cho người sử dụng lao động trong việc ổn định và phát triển doanh nghiệp. Do đó việc nghiên cứu về vấn đề bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao động dưới góc độ pháp luật lao động là hết sức cần thiết. 2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Chương III: Hoàn thiện pháp luật lao động của Vương quốc Campuchia với việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao động.
cung cấp các lợi ích và các chính sách khác cho nhân viên theo quy định của pháp luật, quy định và hợp đồng việc làm”. Vì vậy, họ có quyền trở thành NSDLD trong quá trình tự do kinh doanh của mình. Điều 2 Luật Lao động Campuchia thì quy định: “NSDLĐ có nghĩa là tất cả các cá nhân, pháp nhân, công cộng hay tư nhân được coi là sử dụng lao động khi người đó tạo nên một doanh nghiệp và sử dụng một hoặc nhiều công nhân, thậm chí không liên tục”. Như vậy, dù theo khái niệm nào, đứng trên quan điểm nào thì NSDLĐ được hiểu là tổ chức, đơn vị cá nhân có nhu cầu sử dụng lao động, có thể đảm bảo các điều kiện lao động và điều kiện sử dụng lao động và thực hiện nhiệm vụ đối với người lao động. 1.1.2. Vai trò người sử dụng lao động Trong bất kỳ giai đoạn nào thì lao động vẫn luôn là một nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển kinh tế – xã hội ở giai đoạn đó. Tuy nhiên, chỉ có người lao động không thì không đủ, vì khi đó sẽ dẫn đến tình trạng hoạt động sản xuất và kinh doanh diễn ra một cách tự phát, không có khoa học, không được chuyên môn hóa và rất khó khăn trong việc tiêu thụ hàng hóa được sản xuất ra do sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, khối lượng ít, không đủ để xuất khẩu hay đáp ứng các đơn đặt hàng lớn. Mặt khác, hầu hết NLĐ thường hạn chế về hiểu biết pháp luật trong việc tổ chức sản xuất, kinh doanh, nên chưa biết tự tạo cho mình một việc làm, chưa có sự “động não” một cách thực sự trong khi làm việc, điều đó dẫn đến một nghịch lý rằng, nguồn lao động tuy nhiều nhưng không biết làm gì cho hiệu quả và ổn định. Thêm vào đó sẽ tồn tại sự di chuyển lao động từ miền này sang miền khác, từ nông thôn lên thành thị, từ miền núi xuống đồng bằng, từ đó sẽ tạo ra làn sóng quá tải lao động ở một số nơi, nhưng lại thưa thớt lao động ở một số nơi khác mà ở đó sản xuất, kinh doanh gặp nhiều khó khăn.
Tuy nhiên, khi có NSDLĐ phân bố lao động sẽ hợp lý hơn bởi NSDLĐ tạo ra việc làm cho người lao động. Thêm vào đó con người và xã hội được hình thành, tồn tại và phát triển nhờ quá trình hoạt động sản xuất và nhất là sản xuất vật chất {20, tr.36}. Sản xuất vật chất là quá trình con người sử dụng công cụ lao động tác động vào giới tự nhiên, nhằm cải biến các dạng vật chất trong giới tự nhiên để tạo ra các loại sản phẩm. Như vậy, xã hội tồn tại và phát triển trước hết là nhờ sản xuất vật chất. C. Mác viết “Những thời đại kinh tế – xã hội khác nhau không phải ở chỗ chúng ta sản xuất ra cái gì mà là ở chỗ chúng ta sản xuất bằng cách nào, với những tư liệu lao động nào”, đó chính là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Trong đó, lực lượng sản xuất cơ bản là toàn bộ nhân loại, là công nhân, là người lao động có vai trò quyết định, còn quan hệ sản xuất là quan hệ lao động do NSDLĐ tạo ra. Như vậy, nếu không có NSDLĐ thì sẽ không có quan hệ sản xuất hiện đại và như vậy sẽ làm cho xã hội không phát triển được. Trải qua các cuộc cách mạng khoa học, cùng với sự phát triển của sản xuất, khoa học ngày càng đóng vai trò quan trọng trong sản xuất kinh doanh. Sự phát triển của khoa học công nghệ này thường được những NSDLĐ nắm bắt nhanh và rất tốt, họ biết cách vận dụng một cách khéo léo vào thực tế hoạt động của công ty mình và truyền tải tới người lao động. NSDLĐ là người quản lý và sử dụng các máy móc, thiết bị và công nghệ hiện đại ấy để có thể đảm bảo hiệu quả cao về kinh tế, kể cả việc sửa chữa, chăm sóc và bảo dưỡng chúng. Cùng với điều kiện về tài chính và trách nhiệm với khối tài sản đầu tư vào kinh doanh, NSDLĐ có sức mạnh, sự hiểu biết, kỹ năng lao động và ngày càng trở nên có trí tuệ. Trí tuệ của NSDLĐ là sản phẩm tự nhiên của lao động và ngày càng phát triển nhờ kinh nghiệm quản lý và điều hành lao động. Trong điều kiện của khoa học công nghệ hiện đại đã làm cho NSDLĐ càng trở thành một nguồn lực đặc biệt của sản xuất {12, tr.10}. Bởi để đáp ứng
được nhu cầu phong phú và vô tận của con người trong sự phát triển đời sống kinh tế – xã hội, thì bản thân các nguyên vật liệu tự nhiên chưa thể đáp ứng được mà cần có sự kết tinh của lao động. Với việc đầu tư tài chính máy móc, công nghệ, thông qua sản xuất, với việc sử dụng sức lao động của NLĐ, NSDLĐ và tạo ra sản phẩm có giá trị sử dụng tăng lên như: giá trị thẩm mỹ, sử dụng, các tính năng… Như vậy, NSDLĐ có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc phát triển kinh tế – xã hội, họ là những người am hiểu luật pháp, luôn tìm ra các phương hướng, lĩnh vực sản xuất kinh doanh mới nhằm tạo ra nhiều việc làm cho người lao động, để từ đó tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội và nâng dần mức sống của NLĐ góp phần vào sự tồn tại và phát triển, ổn định của một quốc gia dân tộc {13, tr.31}. Ở đâu có lực lượng NSDLĐ hùng mạnh, thì ở đó NLĐ có nhiều việc làm, có thu nhập cao và ở đó kinh tế và xã hội được đảm bảo phát triển một cách ổn định và thịnh vượng. 1.1.3. Sự cần thiết phải bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao động trong pháp luật lao động. Quan hệ lao động được hình thành trên cơ sở sự thương lượng thỏa thuận giữa hai bên, NLĐ và NSDLĐ. Trong quan hệ này, NSDLĐ thường ở vị thế mạnh hơn so với NLĐ bởi họ là người có tài sản, có quyền sở hữu đối với tài sản trong doanh nghiệp. Thêm vào đó họ lại là người có quyền tổ chức và quản lý lao động, có quyền kiểm tra giám sát quá trình lao động của người lao động. Vì thế, trong luật lao động, bảo vệ NLĐ là nguyên tắc được đặt lên hàng đầu. Song bên cạnh đó, pháp luật lao động cũng phải bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NSDLĐ. Việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NSDLĐ xuất pháp từ một số lý do sau: – Một là, trong quan hệ pháp luật, khi đứng trước pháp luật không có chủ thể nào mạnh hơn hay yếu hơn mà họ đều phải chịu sự điều chỉnh đã được quy
định của pháp luật. Do vậy, với tư cách là một bên chủ thể trong quan hệ pháp luật lao động, NSDLĐ cũng cần phải được bảo đảm những quyền và lợi ích chính đáng. Theo điều 75 của bộ luật lao động nước Campuchia về các biện pháp xử lý vi phạm: “Bất kỳ cá nhân, thể nhân hoặc pháp nhân vi phạm pháp luật này sẽ được tái đào tạo, cảnh cáo, phạt tiền, phải tạm đình chỉ kinh doanh”. Như vậy, có thể nói, khi có sự vi phạm trong quan hệ lao động, bất kỳ bên nào khi có sự vi phạm cũng đều bị áp dụng những biện pháp xử lý thích đáng. Ngược lại, quyền và lợi ích hợp pháp của mỗi bên cũng sẽ luôn được bảo vệ. – Hai là, việc bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của NSDLD là tiền đề, điều kiện để đảm bảo quyền và lợi ích của NLD. Trong QHLD, quyền của chủ thể bên này bao giờ cũng tương ứng với nghĩa vụ của chủ thể bên kia tạo thành mối liên hệ pháp lý thống nhất {22, tr.41}. Chính vì vậy, không có chủ thể nào chỉ có quyền hoặc chỉ có nghĩa vụ. Nhiều khi, chúng ta có quan niệm: quyền của chủ thể bên này và nghĩa vụ của chủ thể bên kia là hai mặt đối lập, mâu thuẫn. Sự suy nghĩ, nhận định như vậy là phiến diện, thiếu cái nhìn biện chứng. Thực ra, quan hệ giữa quyền và nghĩa vụ đó là quan hệ của một thể thống nhất, quan hệ khép kín không thể chia tách của “một phương trình có hai vế” mà nếu thiếu một vế thì không giải mã được bài toán đó. Hơn nữa, quyền lợi của NLĐ là do NSDLĐ đảm bảo thực hiện vì vậy khi người sử dụng lao động được đối xử công bằng, quyền và lợi ích trong doanh nghiệp được bảo vệ thì họ mới có thể tạo ra môi trường lao động đảm bảo mọi điều kiện tốt nhất cho người lao động. – Ba là, khi quyền và lợi ích hợp pháp của NSDLĐ được bảo vệ thì sẽ tạo điều kiện ổn định, hài hòa mối quan hệ lao động, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, khi đó sẽ làm phát triển thị trường lao động. Một thị trường lao động được coi là phát triển và ổn định khi có sự cân bằng giữa cung lao động và cầu lao động. Nếu cung về lao động thừa sẽ gây ra tình trạng dư thừa lao
động, tăng tỷ lệ thất nghiệp của NLĐ, làm thị trường lao động bị mất sự ổn định và cân đối. Nhưng nếu cầu lao động thừa sẽ gây ra tình trạng thiếu lao động, làm giá lao động lên cao, có nhiều ngành nghề, lĩnh vực khan hiếm lao động, không có lao động vào sản xuất, khi đó sẽ không tạo ra của cải cho xã hội. Mặt khác, khi cầu lao động tăng nhanh mà thiếu lao động giỏi thì thị trường lao động cũng không thể ổn định, phát triển được. Đó là điều chắc chắn vì cung và cầu chỉ có thể nằm trong một thể thống nhất của thị trường lao động. Như vậy, trong mối quan hệ với NLĐ thì NSDLĐ có một vai trò hết sức quan trọng. Nếu không có sự tổ chức, quản lý và điều hành tốt của NSDLĐ thì NLĐ chỉ là những cá nhân riêng lẻ, không có môi trường làm việc trong một tập thể có phân công lao động ở trình độ cao. Khi đó, hoạt động của mỗi người mang tính tự phát, thiếu chuyên nghiệp, không thể tạo ra được những dây chuyền sản xuất có hiệu quả. Thực tế đã chứng minh, nếu nơi nào mà có một môi trường lao động được tổ chức tốt, quản lý của NSDLĐ tốt, tính kỷ luật cao thì NLĐ sẽ làm việc hết năng suất, tạo ra nhiều sản phẩm, của cải. Khi đó lợi ích của NSDLĐ cũng được tăng lên và họ sẽ có điều kiện trả công cho NLĐ cao hơn, đảm bảo cho NLĐ làm việc trong điều kiện tốt hơn. Lợi ích của NLĐ và NSDLĐ vừa mâu thuẫn nhau cũng vừa thống nhất với nhau. Sự mâu thuẫn nhau thể hiện ở việc NLĐ bao giờ cũng muốn lương cao, thời gian làm việc ít điều kiện lao động thuận lợi. Còn NSDLĐ, do muốn có nhiều lợi nhuận nên tìm cách tiết kiệm chi phí trong đó có chi phí cho NLĐ . Lợi ích của hai chủ thể này hướng tới là khác nhau, đối lập nhau, nhưng xét về căn nguyên thì nó lại có quan hệ tương hỗ. Không có lợi ích của NSDLĐ thì cũng không có lợi ích của NLĐ. Cụ thể là: Khi NLĐ không tăng năng suất, tạo ra nhiều sản phẩm tốt trong quá trình sản xuất, khi đó NSDLĐ sẽ không có thu nhập và lợi nhuận sẽ không có hoặc không cao. Trong trường
hợp đó, NSDLĐ cũng không có nguồn tài chính để có thể trả công cao cho người lao động và tạo ra các điều kiện tốt cho người lao động. Như vậy, trong trường hợp này thì tiền công của NLĐ và lợi nhuận của NSDLĐ đều giảm sút. Từ những phân tích ở trên cho thấy: Việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp của NSDLĐ là hết sức cần thiết và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người sử dụng lao động sẽ khuyến khích đầu tư, phát triển sản xuất, phát triển thị trường lao động, tạo nhiều việc làm cho NLĐ và nguồn thu thuế cho Nhà nước, thông qua đó, có thể đảm bảo lợi ích cho NLĐ và phát triển kinh tế xã hội. 1.2. Điều chỉnh pháp luật về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao động 1.2.1 Nội dung bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao động. Trên cơ sở phân tích sự cần thiết phải bảo đảm các quyền và lợi ích của người sử dụng lao động, xuất phát từ nhu cầu của người sử dụng lao động, theo thông lệ quốc tế (theo quan điểm của Tổ chức Lao động quốc tế và quan điểm của một số nước), việc bảo vệ các quyền và lợi ích của người sử dụng lao động thể hiện ở các nội dung sau:
NSDLĐ được quyền tuyển dụng lao động, sử dụng lao động
theo nhu cầu SXKD Đây là một trong những quyền phổ biến của NSDLĐ, vì khi NSDLĐ có được quyền này, họ mới chủ động được trong việc tuyển dụng lao động nhằm đáp ứng được nhu cầu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tuyển dụng lao động là một hiện tượng xã hội phát sinh từ sự mua bán một loại hàng hóa đặc biệt trong xã hội, đó là hàng hóa sức lao động. NLĐ (người bán) sẽ bán sức lao động mà họ có, còn NSDLĐ (người mua) sẽ mua sức lao động của NLĐ để tiến hành SXKD. Sức lao động là một loại hàng hóa đặc biệt không thể mua ngay và sử dụng ngay trong một lần mua, bán, mà nó đòi hỏi phải có một quá trình, một
thời gian nhất định. Chính vì vậy, quá trình sử dụng lao động được diễn ra, đây là khâu quan trọng để tồn tại quan hệ lao động. Việc tuyển dụng rất có ý nghĩa đối với NSDLĐ, vì NSDLĐ có được một số lượng và chất lượng NLĐ tốt thì sẽ đảm bảo cho sự phát triển của doanh nghiệp, đồng thời nó cũng tạo cho NLĐ có việc làm ổn định, góp phần giải quyết sự thất nghiệp trong xã hội, làm giảm bớt sự nghèo đói và tệ nạn xã hội. Mặt khác, khi được quyền tuyển dụng lao động vào hoạt động sản xuất, kinh doanh thì NSDLĐ cần phải có quyền được sử dụng lao động sao cho hợp lý nhất để phù hợp với công việc hiện tại của đơn vị, sắp xếp được đúng người, đúng việc nhằm phát huy cao nhất năng suất lao động của mỗi người lao động. Khi doanh nghiệp mở rộng sản xuất kinh doanh thì sẽ cần sử dụng thêm lao động, ngược lại khi doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả thì khi đó doanh nghiệp có thể phải giảm bớt lao động… Chính vì vậy, NSDLĐ cần có quyền tuyển chọn, sử dụng lao động theo nhu cầu sản xuất, kinh doanh. Bộ luật lao động của Việt Nam quy định: NSDLĐ có quyền tuyển dụng lao động, bố trí điều hành lao động theo nhu cầu sản xuất kinh doanh (khoản 1 Điều 8). Luật lao động của hầu hết các nước cũng đều có quy định tương tự.
NSDLĐ có quyền quản lý lao động
Quản lý và điều hành lao động là hình thức mà NSDLĐ có thể bố trí lao động làm việc theo một mô hình mà NSDLĐ đã thiết lập, nhằm mục đích phù hợp với sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Việc điều hành này có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc sử dụng lao động. Vì, NSDLĐ quản lý và sử dụng sức lao động của con người, chứ không phải quản lý một vật dụng nào khác. Mặt khác, trong một tổ chức phải có nội quy, quy định cụ thể, nó được xem như là chuẩn mực trong hoạt động để NLĐ vào nề nếp. Trong một đơn vị, nhiều người cùng thực hiện một kế hoạch sản xuất, kinh doanh thống
nhất, nên cần phải có người quản lý để hướng hoạt động của nhiều người vào kế hoạch chung. Vị trí quản lý phải là NSDLĐ vì họ là người sở hữu hoặc quản lý tài sản của đơn vị (ở đây thể hiện quan hệ sở hữu chi phối quan hệ quản lý và quan hệ phân phối), do đó họ có trách nhiệm sử dụng hiệu quả khối tài sản đó. Việc thực hiện quyền quản lý phải tuân thủ pháp luật, các quy định, quy chế mới đảm bảo tính công bằng và tinh thần trách nhiệm trong quan hệ lao động. Do vậy, trong quản lý, điều hành NSDLĐ có quyền điều chuyển NLĐ, có quyền đưa ra những chế độ khen, thưởng và kỷ luật một cách đúng mức nhằm khích lệ người lao động làm việc. Khoản 1, Điều 8 bộ luật lao động nước Việt Nam có quy định: “Người sử dụng lao động có quyền tuyển chọn lao động, bố trí, điều hành lao động theo nhu cầu sản xuất, kinh doanh; có quyền khen thưởng và xử lý các vi phạm kỷ luật lao động theo quy định của pháp luật lao động”. Pháp luật hầu hết các nước cũng đều quy định vấn đề này. NSDLĐ có thể phối hợp với tổ chức công đoàn trong quản lý lao động và kí kết thoả ước lao động tập thể phù hợp với điều kiện của đơn vị. Tổ chức công đoàn là một tổ chức được thành lập khi có quan hệ lao động được thiết lập, lãnh đạo của tổ chức công đoàn là do người lao động bầu ra, hoạt động của tổ chức công đoàn là chăm lo đời sống của người lao động (tức chia sẻ lúc hoạn nạn, ốm đau..), là cơ quan đại diện cho NLĐ để bảo vệ quyền lợi cho NLĐ khi NSDLĐ xâm phạm quyền và lợi ích của NLĐ. Tuy nhiên, không chỉ thế, tổ chức công đoàn còn tham gia hòa giải khi có tranh chấp lao động xảy ra. Tổ chức công đoàn còn động viên, khích lệ NLĐ làm việc sao cho có năng suất và hiệu quả. Do vậy, nếu cơ sở nào biết phát huy hết tác dụng của tổ chức công đoàn thì sẽ góp phần giải quyết và làm hạn chế các tranh chấp lao động có thể xảy ra. Vì vậy, pháp luật cần phải bảo đảm để NSDLĐ có thể phối hợp với tổ chức công đoàn trong quản lý lao động và kí kết thoả ước lao động
tập thể phù hợp với điều kiện của đơn vị. Nhiều nước đã quy định về vấn đề này, cụ thể tại khoản 1, Điều 52 của Bộ luật lao động Việt Nam có quy định: “Trong trường hợp sát nhập, hợp nhất, chia tách doanh nghiệp, chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản của doanh nghiệp thì NSDLĐ và Ban chấp hành Công đoàn cơ sở căn cứ vào phương án sử dụng lao động để xem xét việc tiếp tục thực hiện, sửa đổi, bổ sung hoặc ký thỏa ước lao động mới”.
NSDLĐ có quyền được bảo vệ về tài sản
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, NSDLD sở hữu rất nhiều loại tài sản. Từ những tài ản vật chất ban đầu mà họ đầu tư như thiết bị, máy móc, nhà xưởng đến những tài sản phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh, và thậm chí là cả những loịa tài sản phi vật chất khác. Đối với những tài sản mà NSDLD đã đầu tư, đương nhiên thuộc sở hữu của họ và được Hiến pháp cũng như pháp luật dân sự ghi nhận và bảo vệ. Tuy nhiên, do đặc thù của quan hệ lao động, trong quá trình sản xuất kinh doanh sẽ phát sinh thêm một loại tài sản thuộc sở hữu của NSDLD, đó chính là những lợi nhuận thu được từ chính hoạt động sản xuất kinh doanh đó. Đây là một loại tài sản có thể nói là quan trọng nhất của NSDLD cần được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Trong Hiến pháp năm 1992 của Việt Nam có quy định về quyền sở hữu tài sản của công dân tại Điều 58 “Công dân có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn và tài sản khác trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác; đối với đất được Nhà nước giao sử dụng thì theo quy định tại Điều 17 và Điều 18…”. Hay tại Bộ luật dân sự 2005 của Việt Nam cũng quy định: “Điều 170. Quyền sở hữu được xác lập đối với tài sản trong các trường hợp sau đây: + Do lao động, do hoạt động sản xuất, kinh doanh hợp pháp; + Được chuyển quyền sở hữu theo thoả thuận hoặc theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
Bạn đang đọc nội dung bài viết Tác Động Của Luật Quốc Tế Tới Quá Trình Hoàn Thiện Các Văn Bản Luật Của Việt Nam Trong Lĩnh Vực Bảo Vệ Quyền Trẻ Em trên website Athena4me.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!