Cập nhật nội dung chi tiết về Soạn Bài Vào Phủ Chúa Trịnh Siêu Ngắn mới nhất trên website Athena4me.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Lựa chọn câu để xem lời giải nhanh hơn
Câu 1 Trả lời câu 1 (trang 9 SGK Ngữ Văn 11 tập 1) – Quang cảnh trong phủ chúa tráng lệ, lộng lẫy, tôn nghiêm:
+ Đường vào phủ: qua nhiều lần cửa, nhiều vệ sĩ canh giác, người ra kẻ vào phải có thẻ.
+ Khuôn viên: danh hoa đua thắm, cây và đá lạ lùng, có điếm hậu mã quân túc trực, đại đường, quyển bồng, gác tía…
+ Bên trong phủ: nhà Đại Đường, Quyển Bổng,…
+ Toàn những đồ đạc nhân gian chưa từng thấy.
– Cung cách sinh hoạt xa hoa hưởng lạc trong phủ chúa:
+ Người hầu kẻ hạ tấp nập, lời ăn tiếng nói trang trọng.
+ Chúa có quyền uy tuyệt đối, có phi tần chầu chực, thái tử có 7,8 thầy thuốc phục dịch.
+ Ăn uống: mang vàng chén bạc, toàn của ngon vật lạ.
– Cách nhìn, thái độ của Lê Hữu Trác đối với cuộc sống nơi phủ chúa:
+ Choáng ngợp trước khung cảnh xa hoa, quyền quý nơi phủ Chúa.
+ Kín đáo chê cảnh sống tù túng, thiếu sinh khí ( ăn quá no, mặc quá ấm nên phủ tạng yếu đi)
Câu 2 Trả lời câu 2 (trang 9 SGK Ngữ Văn 11 tập 1) Những chi tiết đắt làm nổi bật giá trị hiện thực của tác phẩm: ” Một đứa bé độ 5, 6 tuổi ngồi chễm chệ trên sập vàng để cho thầy thuốc già cúi lạy bốn lần rồi cười và ban một lời khen “ông này lạy khéo”. Đi qua độ năm sáu lần trướng gấm tối om như vậy là một khung cảnh vàng son nhưng tù hãm, thiếu sinh khí của thế tử. Xung quanh lấp lánh, hương hoa ngào ngạt mấy người hầu cận đứng xúm xít”
– Thế tử là một đứa trẻ nhưng ngồi chễm chệ trên sập vàng để thầy thuốc – một cụ già – quỳ dưới đất bốn lạy, rồi cười và ban lời khen: Ông này lạy khéo!
Câu 3 Trả lời câu 3 (trang 9 SGK Ngữ Văn 11 tập 1) Cách chẩn đoán và chữa bệnh của Lê Hữu Trác cùng diễn biến tâm tư của ông cho thấy:
– Phòng ở của thế tử (tối om, không thấy có cửa ngõ gì cả. Đi qua độ năm sáu lần trướng gấm như vậy) tuy vàng son nhưng thiếu sinh khí, tù túng.
– Ông là một thầy thuốc giàu y đức và kinh nghiệm: thẳng thắn đưa ra cách chữa bệnh đúng đắn và bảo vệ ý kiến của mình dù trái với ý của nhiều thầy thuốc trong cung.
Câu 4 Trả lời câu 4 (trang 9 SGK Ngữ Văn 11 tập 1) Đặc sắc trong bút pháp kí sự của tác giả:
– Coi thường danh lợi: Hiểu rõ bệnh của thế tử nhưng sợ chữa có hiệu quả lại bị chúa tin dùng, bị công danh trói buộc.
– Quan sát tỉ mỉ, ghi chép trung thực.
– Tả cảnh sinh động.
– Kể diễn biến sự việc khéo léo
Luyện tập Câu hỏi (trang 9 SGK Ngữ văn 11 tập 1) So sánh đoạn trích Vào phú chúa Trịnh với Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh (Phạm Đình Hổ) * Giống nhau:
– Lựa chọn được những chi tiết nhỏ nhưng tạo nên cái thần của cảnh và việc.
* Khác nhau Vào phủ chúa Trịnh:
– Đều phản ánh cuộc sống xa hoa, quyền quý nơi phủ chúa, sự nhũng nhiễu của quan lại thời Lê – Trịnh.
– Nội dung: Nhân Lê Hữu Trác lên tới kinh đô, được dẫn vào phủ chúa để bắc mạch, kê đơn cho Trịnh Cán,
– Thái độ của tác giả: kín đáo phê phán cuộc sống quyền quý, xa hoa nơi phủ chúa.
Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh:
– Nghệ thuật: ghi chép tỉ mỉ, chân thực, kể lại những chuyện tác giả chứng kiến. Ghi chép theo trình tự thời gian các sự việc.
– Nội dung: Kể lại những thú ăn chơi hưởng lạc của Trịnh Sâm
– Thái độ tác giả: bày tỏ trực tiếp cảm xúc, thái độ phê phán
Tóm tắt
– Nghệ thuật: cảnh vật, sự việc được miêu tả tỉ mỉ, sắc sảo, ghi chép tản mạn, chủ quan, không theo hệ thống kết cấu.
Bố cục Bố cục: 2 phần
Vào sáng sớm tinh mơ ngày 1 tháng 2, tôi được lệnh triệu vào phủ chúa. Tôi nhanh chóng được điệu đi trên một cái cáng chạy như ngựa lồng. Tôi đi vào từ cửa sau, nhìn quanh tôi thấy cây cối um tùm, chim hót líu lo, muôn hoa đua thắm. Qua mấy lần cửa, các hành lang dài quanh co tôi được đưa tới một ngôi nhà thật lớn gọi là phòng trà. Đồ đạc trong phòng đều được sơn son thếp vàng. Lúc đó thánh thượng đang ngự phòng thuốc cùng các phi tần nên tôi không thể yết kiến. Tôi được thiết đãi bữa sáng mĩ vị với đồ dùng toàn bằng vàng, bạc. Ăn xong tôi được đưa đến yết kiến ở Đông Cung và khám bệnh cho thế tử Trịnh Cán. Thế tử vì “ăn quá no, mặc quá ấm” mà sinh bệnh. Nửa sợ bị cuốn vào vòng danh lợi, nửa vì chịu ơn của nước. Cuối cùng, tôi dốc lòng kê đơn cho thế tử, rồi từ giã lên cáng trở về kinh Trung Kiền chờ thánh chỉ. Bạn bè ai ai trong cung cũng đến thăm hỏi.
– Phần 1 (từ đầu đến “phiền một nỗi là không có dịp”): Khung cảnh xa hoa, quyền quý nơi phủ Chúa hiện lên qua hành trình của Lê Hữu Trác.
Câu 8
– Phần 2 (đoạn còn lại): Lê Hữu Trác bắt mạch, kê đơn chữa bệnh cho thế tử.
chúng tôi
Tác giả Lê Hữu Trác đã vẽ lại bức tranh sinh động về cuộc sống xa hoa, quyền quý của chúa Trịnh, đồng thời bộ lộ thái độ coi thường danh lợi.
Soạn Bài Vào Phủ Chúa Trịnh
Soạn bài Vào phủ Chúa Trịnh (Lê Hữu Trác)
Tóm tắt
Vào sáng sớm tinh mơ ngày 1 tháng 2, tôi được lệnh triệu vào phủ chúa. Tôi nhanh chóng được điệu đi trên một cái cáng chạy như ngựa lồng. Tôi đi vào từ cửa sau, nhìn quanh tôi thấy cây cối um tùm, chim hót líu lo, muôn hoa đua thắm. Qua mấy lần cửa, các hành lang dài quanh co tôi được đưa tới một ngôi nhà thật lớn gọi là phòng trà. Đồ đạc trong phòng đều được sơn son thếp vàng. Lúc đó thánh thượng đang ngự phòng thuốc cùng các phi tần nên tôi không thể yết kiến. Tôi được thiết đãi bữa sáng mĩ vị với đồ dùng toàn bằng vàng, bạc. Ăn xong tôi được đưa đến yết kiến ở Đông Cung và khám bệnh cho thế tử Trịnh Cán. Thế tử vì “ăn quá no, mặc quá ấm” mà sinh bệnh. Nửa sợ bị cuốn vào vòng danh lợi, nửa vì chịu ơn của nước. Cuối cùng, tôi dốc lòng kê đơn cho thế tử, rồi từ giã lên cáng trở về kinh Trung Kiền chờ thánh chỉ. Bạn bè ai ai trong cung cũng đến thăm hỏi.
Bố cục
– Phần 1 (từ đầu đến không có dịp): Quang cảnh trong phủ chúa Trịnh.
– Phần 2 (tiếp đến phòng chè ngồi): Thực trạng trong phủ chúa, hình ảnh Trịnh Cán ốm yếu.
– Phần 3 (còn lại): Tâm trạng, cảm nghĩ của Lê Hữu Trác
Câu 1 (trang 9 sgk Ngữ văn 11 Tập 1):
* Quang cảnh trong phủ Chúa
– Phải đi qua nhiều lần cửa, với những dãy hành lang dài quanh co nối nhau liên tiếp, ở mỗi cửa đều có lính canh gác, ai muốn vào phải có thẻ.
– Vườn hoa trong phủ Chúa cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa cỏ thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương
– Bên trong phủ là nhà Đại đường, Quyển bổng, Gác tía với kiệu son, võng điều, đồ nghi trượng sơn son thếp vàng và những đồ đạc nhân gian chưa từng thấy.
– Đồ dùng tiếp khách ăn uống toàn là mâm vàng chén bạc
– Đến nội cung phải đi qua 5, 6 lần trướng gấm
– Phòng thắp nến, sập thếp vàng, ghế rồng sơn son, nệm gấm mà che
⇒ Quang cảnh ở phủ chúa cực kì tráng lệ lộng lẫy, không đâu sánh bằng
* Cung cách sinh hoạt trong phủ Chúa
– Khi đi thì có tên đầy tớ chạy trước hét đường
– Trong phủ người giữ cửa truyền báo rộn ràng, người có việc qua lại như mắc cửi
– Lời lẽ nhắc đến thế tử đều hết mực cung kính, lễ độ tránh phạm úy.
– Chúa Trịnh luôn cho phi tần chầu chực xung quanh. Tác giả không được thấy mặt Chúa
– Thế tử bệnh có 7, 8 người thầy thuốc túc trực, phục dịch
– Tác giả phải quỳ lạy 4 lần lúc đến và 4 lần lúc về
⇒ Cung cách sinh hoạt trong phủ chúa với những lễ nghi, khuôn phép, cách nói năng, người hầu kẻ hạ cho thấy sự cao sang, quyền uy, cùng với cuộc sống hưởng thụ xa hoa đến cực điểm và sự lộng quyền của nhà chúa.
* Cách nhìn, thái độ của Lê Hữu Trác đối với cuộc sống trong phủ
– Lê Hữu Trác mặc dù khen cái đẹp, cái sang nơi phủ Chúa những tác giả tỏ vẻ dửng dưng trước những thứ vật chất xa hoa và không đồng tình với cuộc sống quá xa xỉ, thừa thãi, hưởng lạc nhưng thiếu khí trời và tự do như ở trong phủ Chúa
Câu 2 (trang 9 sgk Ngữ văn 11 Tập 1): Chi tiết được cho là đắt nhất
– “Một đứa bé độ 5, 6 tuổi ngồi chễm chệ trên sập vàng để cho thầy thuốc già cúi lạy bốn lần rồi cười và ban một lời khen “ông này lạy khéo”. Khi đi đi qua độ 5, 6 lần trướng gấm tối om như vậy là một khung cảnh vàng son nhưng tù hãm, thiếu sinh khí của thế tử. Xung quanh lấp lánh, hương hoa ngào ngạt mấy người hầu cận đứng xúm xít.
– Qua chi tiết ấy cho thấy cuộc sống ăn chơi hưởng lạc trong phủ Chúa. Thế tử được mọi người chăm sóc, hầu cận đến phát bệnh. Không gian ngột ngạt, tù túng, thiếu sinh khí trong phủ Chúa.
Câu 3 (trang 9 sgk Ngữ văn 11 Tập 1):
– Cách chẩn đoán bệnh của Lê Hưu Trác cho thấy ông là một người thầy thuốc giỏi, giàu kinh nghiệm
– Ông là một thầy thuốc có lương tâm và đức độ
– Đặc biệt ông còn có những phẩm chất cao quý: khinh thường danh lợi, quyền quý, yêu thích tự do và nếp sống thanh đạm, giản dị
Câu 4 (trang 9 sgk Ngữ văn 11 Tập 1): Bút pháp đặc sắc trong truyện
– Sự quan sát tỉ mỉ, ghi chép trung thực những gì đã nhìn thấy
– Tả cảnh sinh động
– Kể diễn biến sự việc một cách khéo léo, lôi cuốn người đọc
Luyện tập (trang 9 sgk Ngữ văn 11 Tập 1)
So sánh hai đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh” (Lê Hữu Trác) với “Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh” (Phạm Đình Hổ)
* Giống nhau: Đều phán ánh hiện thực cuộc sống xa hoa trong phủ chúa Trịnh
* Khác nhau:
– Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh – Phạm Đình Hổ
+ Phản ánh sự nhũng nhiễu của quan lại đối với nhân dân
+ Các sự kiện được kể một cách tản mạn, ghép nối
+ Thể hiện thái độ phê phán gay gắt của tác giả đối với Chúa và quan lại
– Vào phủ chúa Trịnh – Lê Hữu Trác
+ Ghi chép sự việc theo trình tự thời gian một cách tỉ mỉ và trung thực
+ Thể hiện thái độ phê phán một cách kín đáo
+ Thể hiện thái độ dửng dưng, coi thường vinh hóa phú quý và tấm lòng y đức của Lê Hữu Trác
Bài giảng: Vào phủ Chúa Trịnh – Cô Thúy Nhàn (Giáo viên VietJack)
Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng….miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.
Nhóm học tập facebook miễn phí cho teen 2k4: chúng tôi
Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:
Soạn Bài Vào Phủ Chúa Trịnh (Chi Tiết)
Lựa chọn câu để xem lời giải nhanh hơn
Câu 1 Câu 1 ( trang 9 SGK Ngữ văn 11 tập 1) Quang cảnh trong phủ chúa được miêu tả như thế nào? Cung cách sinh hoạt trong phủ chúa ra sao? Những quan sát, ghi nhận này nói lên cách nhìn, thái độ của Lê Hữu Trác đối với cuộc sống nơi phủ chúa như thế nào? Lời giải chi tiết: a. Quang cảnh trong phủ chúa:
– Âm thầm quan sát, người thầy thuốc phát hiện ra rằng: Vào phủ chúa phải qua rất nhiều lần cửa, với “những dãy hành lang quanh co nối nhau liên tiếp”. Ở mỗi cửa đều có vệ sĩ canh gác, “ai muốn ra vào phải có thẻ”, trong khuôn viên phủ chúa có điếm “Hậu mã quân túc trực” để chúa sai phái đi truyền bá mệnh lệnh ra bên ngoài. Vườn hoa trong phủ chúa “cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương”.
– Bên trong phủ bày biện toàn những đồ sang trọng như: kiệu son, võng điều, đồ nghi trượng sơn son thếp vàng rồi những đồ dùng tiếp khách ăn uống toàn là “mâm vàng, chén bạc”. Trong nội cung thế tử cũng vậy: Phòng thắp nến, có sập thếp vàng, ghế rồng sơn son thếp vàng, trên ghế bày nệm gấm, màn che ngang sân, “xung quanh lấp lánh, hương hoa ngào ngạt”.
Có thể nói, chính những gì đang hiển hiện ra trước mắt người đọc đã tự nói lên tất cả cái quyền uy tối thượng đang nằm trong tay nhà chúa cũng như nếp hướng thụ cực kì xa xỉ của Trịnh Sâm và gia đình chúa.
b. Cung cách sinh hoạt đầy kiểu cách:
– Đầu tiên, khi tác giả lên cáng vào phủ theo lệnh của chúa thì có “tên đầy tớ chạy đàng trước hét đường”. “Cáng chạy như ngựa lồng” khiến người trong cáng “bị xốc một mẻ, khổ không nói hết”. Trong phủ chúa, “người giữ cửa truyền báo rộn ràng, người có việc quan qua lại như mắc cửi”.
– Trong cuộc tiếp kiến vị Đông cung thế tử, tất cả những lời lẽ nhắc đến chúa và thái tử đều phải hết sức cung kính, lễ độ (“Thánh thượng đang ngự ở đấy”, “chưa thể yết kiến”, “hầu mạch Đông cung thế tử”, “hầu trà” (cho thế tử uống thuốc), “phòng trà” (nơi thế tử uống thuốc),…).
– Trong cuộc tiếp kiến ấy, tác giả cũng không được thấy mặt chúa. Tất cả những mệnh lệnh của chúa đểu được phán bảo qua quan Chánh đường hoặc người truyền mệnh. Thầy thuốc xem bệnh xong cũng không được phép trao đổi với chúa mà phải viết tờ khải để quan Chánh đường dâng lên chúa. Nội cung trang nghiêm đến nỗi vị thầy thuốc cũng phải “nín thở” khi đứng chờ ở xa và “khúm núm” khi đến trước sập để xem mạch cho thế tử.
c. Cách nhìn của tác giả:
– Tác giả không bộc lộ trực tiếp thát độ nhưng qua việc chọn chi tiết để kể và tả, đôi lúc xen vào lời nhận xét khách quan, phần nào thấy được thái độ của ông:
+ Ông nhận xét cảnh xa hoa, lộng lẫy tấp nập ở phủ chúa “khác hẳn người thường” đến mức không tưởng tượng nổi, “khác nào ngư phủ đào nguyên thưa nào”.
+ Được mời ăn cơm: tác giả nhận xét “toàn của ngon vật lạ”
Câu 2 Câu 2 (trang 9 SGK Ngữ văn 11 tâp 1) Phân tích những chi tiết trong đoạn trích mà anh (chị) cho là “đắt”, có tác dụng làm nổi bật giá trị hiện thực của tác phẩm. Lời giải chi tiết:
– Đoạn trích có nhiều chi tiết nghệ thuật rất “đắt”, thể hiện nổi bật nội dung hiện thực của tác phẩm. Sự tinh tế và sắc sảo của tác giả đọng lại trong đoạn trích là ở những chi tiết tuy nhỏ nhưng rất gây ấn tượng. Ví như chi tiết đối lập: thế tử – mội đứa bé – ngồi chễm chệ trên sập vàng cho thầy thuốc – một cụ già – quỳ lạy. Để rồi “ngài” cười và ban một lời khen “rất trẻ con”: “Ông này lạy khéo !“. Hoặc ở một chi tiết khác khi tác giả đi vào nơi ở của thế tử để xem mạch: “Đột nhiên thấy ông ta (quan Chánh đường) mở một chỗ trong màn gấm rồi bước vào. Ở trong tối om, không thấy có cửa ngõ gì cả. Đi qua độ năm, sáu lần trướng gấm như vậy…”.
– Truyện còn có nhiều chi tiết khác cũng sắc sảo như vậy: Chi tiết miêu tả nơi “Thánh thượng đang ngự” (“có mấy người cung nhân đang đứng xúm xít. Đèn sáp chiếu sáng làm nổi màu mặt phấn và màu áo đỏ. Xung quanh lấp lánh, hương hoa ngào ngạt”), rồi chi tiết miêu tả những dụng cụ dùng để ăn uống, những món ăn khi quan Chánh đường mời thầy thuốc dùng bữa sáng,..
Câu 3 Câu 3 (trang 9 SGK ngữ văn 11 tâp 1) Cách chẩn đoán và chữ bệnh của Lê Hữu Trác cùng những diễn biến tâm tư của ông khi kê đơn cho ta hiểu gì về người thầy thuốc này? Lời giải chi tiết:
Dõi theo từng bước đi của người thầy thuốc, người đọc có thể nhận thấy thái độ, tâm trạng và những suy nghĩ khá sâu sắc của nhà văn:
– Đứng trước cảnh xa hoa lộng lẫy, tấp nập người hầu kẻ hạ nơi phủ chúa, tác giả nhận xét: “Bước chân đến đây mới hay cảnh giàu sang của vua chúa khác hẳn người thường”. Trước cảnh ấy, tác giả đã vịnh một bài thơ tả hết cái sang trọng, vương giả nơi phủ chúa. Trong bài thơ ấy, tác giả đã phải thốt lên: “Cả trời Nam sang nhất là đây!”.
+ Khi được mời ăn cơm sáng, tác giả đã khéo léo bày tỏ nhận xét: “mâm vàng, chén bạc, đồ ăn toàn là của ngon vật lạ, tôi bấy giờ mới biết cái phong vị của nhà đại gia”.
+ Nói về bệnh trạng của thế tử, tác giả nhận xét: “Vì thế tử ở trong chốn màn che trướng phủ, ăn quá no, mặc quá ấm nên tạng phủ yếu đi”.
Tác giả tỏ ra dửng dưng trước những quyến rũ vật chất , đồng thời có những biểu hiện chứng tỏ thái độ không đồng tình với cuộc sống tuy quá no đủ và tiện nghi nhưng lại thiếu khí trời và không khí tự do.
– Tâm trạng và cảm nghĩ của Lê Hữu Trác khi chữa bệnh cho thế tử còn diễn biến phức tạp hơn. Thăm bệnh xong, người thầy thuốc đã hiểu được rõ nguyên nhân căn bệnh của thái tử. Ông đưa ra những luận giải rất hợp lí, có cách chữa trị riêng. Nhưng trong lúc ấy, ông lại lo nếu chữa bệnh hiệu quả ngay sẽ được chúa tin dùng, lúc đó lại bị trói buộc bởi vòng danh lợi. Thoáng nghĩ đến việc kê một đom thuốc vô thướng, vô phạt nhưng rồi ông lại quên ý nghĩ đó ngay. Việc làm ấy trái với y đức, trái với lương tâm ông và thậm chí phụ lòng trung của tổ tiên. Hai suy nghĩ đó giằng co, xung đột với nhau. Cuối cùng ông đã chọn theo lương tâm, phẩm chất của người thầy thuốc. Ông thẳng thắn đưa ra bài thuốc của mình – một bài thuốc trái với ý của nhiều người khiến quan Chánh đường thậm chí có ý đắn đo.
Từ những chi tiết về việc chữa bệnh của thầy thuốc Lê Hữu Trác, có thể thấy:
+ Tác giả là một thầy thuốc giàu kinh nghiệm, có kiến thức sâu và rộng.
+ Bên cạnh tài năng, ông còn là một người thầy giàu y đức.
+ Trên cả những điều đó là một thái độ coi thường danh lợi, yêu thích nếp sống tự do, thanh đạm ở quê nhà. Quan điểm này tất nhiên cũng gián tiếp cho thấy, tác giả không đồng tình với lối sống xa hoa của những người nắm giữ trọng trách quốc gia.
– Sự quan sát tỉ mỉ, tinh tế và sắc sảo; bút pháp tả cảnh sinh động.
– Nội dung ghi chép trung thực.
– Kể diễn biến sự việc khéo léo, lôi cuốn, hấp dẫn, đặc biệt là những chi tiết nhỏ có tính chất tạo nên cái thần của cảnh và việc.
– Giọng điệu châm biếm, phê phán một cách nhẹ nhàng, kín đáo.
– Kết hợp tự sự, miêu tả và biểu cảm tạo sức hút, tăng giá trị hiện thực, gây ấn tượng sâu sắc về cảnh và người nơi phủ chúa.
Luyện tập Câu hỏi (trang 9 SGK Ngữ văn 11 tập 1) So sánh đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh với một tác phẩm (hoặc đoạn trích) kí khác của văn học trung đại Việt Nam mà anh (chị) đã đọc và nêu nhận xét về nét đặc sắc của đoạn trích này. Lời giải chi tiết:
– Điểm chung của đa số các tuỳ bút là giá trị hiện thực và thái độ của nhà văn trước hiện thực ấy.
– Tuy nhiên mỗi tuỳ bút lại có sự khác nhau trong cách bộc lộ thái độ của nhà văn trước hiện thực (trực tiếp hay gián tiếp, rõ ràng hay kín đáo,…); khác nhau trong việc lựa chọn các chi tiết nghệ thuật, cũng như cách thể hiện nghệ thuật.
– Có thể tự làm rõ những điều này khi so sánh Thượng kinh kí sự với Vũ trung tuy bút của Phạm Đình Hổ (một tác phẩm cùng thời) hoặc với Nhật kí ĐặngThuỳ Trâm (một tác phẩm kí thời hiện đại)
TƯ LIỆU THAM KHẢO
“… Khoảng năm Giáp Ngọ (1774), ất Mùi (1775) trong nước vô sự, Trịnh Sâm lưu ý về việc chơi đèn đuốc, thường ngự chơi các li cung ở trên Tây Hồ, núi Tử Trầm, núi Dũng Thúy; việc xây dựng đình đài khởi làm luôn mãi. Mỗi tháng ba bốn lần, Vương ngự chơi cung Thụy Liên trên bờ Tây Hồ, binh lính dàn hầu quanh bốn mặt bờ hồ, các kẻ nội thần thì đều bịt khăn, mặc áo đàn bà, dàn bày bách hóa chung quanh bờ hồ để bán.
Thuyền ngự đi đến đâu thì các quan hỗ tụng đại thần tùy ý ghé vào bờ mua bán các hóa vật như các cửa hàng buôn trong chợ. Cũng có lúc bọn nhạc công ngồi trên gác chuông chùa Trấn Quốc, hay ngồi ở bóng cây bến đá nào đó, hòa vài khúc nhạc âm.
Thời ấy, phàm bao nhiêu những loài trân cầm, dị thú, cổ mộc, quái thạch và chậu hoa cây cảnh ở chốn dân gian đều cho thu lấy, không thiếu một thứ gì. Từng thấy lấy một cây đa to, cành lá rườm rà, từ bên bắc chở qua sông đem về. Nó giống như một cây cổ thụ mọc trên đầu non hốc đá, rễ dài đến vài trượng, phải một cơ binh mới khiêng nổi, lại phải bốn người đi kèm đều cầm gươm, cầm thanh la để đốc thúc quân lính khiêng cho có điều độ. Trong phủ chúa tùy chỗ mà điểm xuyết bày vẽ ra hình núi non bộ trông như bến bể đầu non. Mỗi khi đêm thanh cảnh vắng, tiếng chim kêu vượn hót ran khắp bốn bề, hoặc nửa đêm ồn ào như trận mưa sa gió táp, vỡ tổ tan đàn, kẻ thức giả biết là cái triệu bất tường! Kẻ hoạn quan cung giáp lại thường nhờ gió bẻ măng, ra ngoài dậm dọa. Họ dò xem nhà nào có chậu hoa cây cảnh, chim tốt khướu hay thì biên ngay hai chữ “phụng thủ” vào lồng chim hay chậu cây. Đêm đến, các cậu trèo qua cung tường lẻn ra, sai bọn tay chân đem lính đến lấy phăng đi, rồi buộc cho (chủ nhà) cái tội đem dìm giấu các vật cung phụng để dọa dẫm lấy tiền. Nếu hòn đá hoặc cây cối gì to lớn quá thì thậm chí phải phá nhà hủy tường để khiêng ra. Các nhà giàu có bị vu cho là đem giấu vật cung phụng, thường phải bỏ của ra kêu van chí chết, có khi phải đập bỏ núi non bộ hoặc đốt bỏ cây cảnh để tránh khỏi phải tai vạ. Nhà ta ở phường Hà Khẩu, huyện Thọ Xương, trước nhà tiền đường có trồng một cây lê, cao vài mươi trượng, lúc nở hoa trắng xóa thơm lừng, trước nhà trung đường có trồng hai cây lựu trắng và lựu đỏ kết quả trông rất đẹp, bà cung nhân ta đều sai chặt đi cả, cũng là vì cớ ấy.”
(Phạm Đình Hổ – Việc cũ trong phủ chúa Trịnh)
Tóm tắt
Vào sáng sớm tinh mơ ngày 1 tháng 2, tôi được lệnh triệu vào phủ chúa. Tôi nhanh chóng được điệu đi trên một cái cáng chạy như ngựa lồng. Tôi đi vào từ cửa sau, nhìn quanh tôi thấy cây cối um tùm, chim hót líu lo, muôn hoa đua thắm. Qua mấy lần cửa, các hành lang dài quanh co tôi được đưa tới một ngôi nhà thật lớn gọi là phòng trà. Đồ đạc trong phòng đều được sơn son thếp vàng. Lúc đó thánh thượng đang ngự phòng thuốc cùng các phi tần nên tôi không thể yết kiến. Tôi được thiết đãi bữa sáng mĩ vị với đồ dùng toàn bằng vàng, bạc. Ăn xong tôi được đưa đến yết kiến ở Đông Cung và khám bệnh cho thế tử Trịnh Cán. Thế tử vì “ăn quá no, mặc quá ấm” mà sinh bệnh. Nửa sợ bị cuốn vào vòng danh lợi, nửa vì chịu ơn của nước. Cuối cùng, tôi dốc lòng kê đơn cho thế tử, rồi từ giã lên cáng trở về kinh Trung Kiền chờ thánh chỉ. Bạn bè ai ai trong cung cũng đến thăm hỏi.
Bố cục – Bố cục: 4 phần
+ Phần 1: Quang cảnh bên ngoài phủ chúa.
+ Phần 2: Những điều mắt thấy tai nghe khi vào phủ chúa
+ Phần 3: Quang cảnh khi đi sâu vào nội cung và khám bệnh cho thế tử
+ Phần 4: Tác giả nhận định và đề ra phương án chữa bệnh
ND chính
Tác giả Lê Hữu Trác đã vẽ lại bức tranh sinh động về cuộc sống xa hoa, quyền quý của chúa Trịnh, đồng thời bộ lộ thái độ coi thường danh lợi.
chúng tôi
Soạn Văn Bài Vào Phủ Chúa Trịnh Lớp 11
Soạn văn bài vào phủ Chúa Trịnh lớp 11 – Bài số 1
I. TÌM HIỂU CHUNG
1. Tác giả
a) Cuộc đời:
Lê hữu trác là người làn Liên Xá, huyện Đường Hòa, phủ Thượng Hồng, trấn Hải Dương.
Tên hiệu là Hải Thượng Lãn Ông ( nghĩa là ông già lười ở đất thượng Hồng ) Lười làm quan và biếng danh lợi
Gia đình ông có truyền thống học hành và thi cử đỗ đạt làm quan.
b) Sự nghiệp:
Ngoài tài chữa bệnh, ông còn là người soạn sách, truyền bá y học…
Bộ Hải Thượng y tông tâm lĩnh gồm 66 quyển biên soạn trong 60 năm được coi là tác phẩm y học xuất sắc nhất trong thời Trung đại.
2. Tác phẩm ” Thượng kinh ký sự: ( 1782)
Đây là quyển cuối cùng trong bộ Hải thượng y tông tâm lĩnh, đánh dấu về sự phát triển của văn học Văn xuôi tiếng Việt, thể ký)
Tác phẩm ghi nhận những điều mắt thấy tai nghe khi tác giả được mời vào kinh chữa bệnh cho thế tử Cán cho tới khi ông về lại Hương Sơn.
3. Vị trí đoạn trích:
Đoạn trích ghi lại thời điểm: sau khi ông vào kinh, đang tá túc ở tại nhà Quận Huy Hoàng Đình Bảo thì được mời vào phủ chía Trịnh xem bệnh cho thế tử Cán. Đây là lần đầu ông bước chân vào chốn này.
II. ĐỌC HIỂU VĂN BẢN:
1) Quang cảnh, cung cách sinh hoạt trong phủ Chúa
a) Quang cảnh trong phủ chúa
+ Quang cảnh trong đây được miêu tả cực kỳ lộng lẫy, tráng lệ, không đâu có thể sánh bằng.
+ Cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm.
+ Những ” đại đường”, “Quyển bồng” với kiệu son võng điều, đồ nghi trượng sơn son thếp vàng
+ Nội cung qua năm sáu lần trướng gấm, mà là, sập vàng, ghế rồng, đèn sáng lấp lánh, hương hoa ngào ngạt…
( màu sắc, đường nét, hương sắc của vườn cây, lầu son gác tía, mân vàng chén bạc, sơn hào hải vị…)
* Tác giả là con quan, đã từng nhiều lần vào tử cấm thành nhưng giờ đây vẫn ngỡ ngàng trước quang cảnh nơi phủ chúa…
b) Cung cách sinh hoạt
-Cách nói năng:
+ Trịnh Sâm thì dùng từ thánh chỉ(4 lần), thánh thượng(3 lần)
+Trịnh Cán thì:Thánh thể(1lần)
+ Các chức sắc trong phủ: Quan chánh đường, các vị lương y, của sáu cung ba viện, kẻ truyền tin đông đảo nhộn nhịp.
+ Phủ chúa ra vào phải có thẻ
+ Lương y khám bệnh cũng phải lạy bốn lạy, xin phép mới được cởi áo thế tử…
+ Xung quanh chúa là các cung tần phi nữ, trướng rủ màn che,
c) Thái độ của tác giả đối với cuộc sống nơi phủ chúa
+ Tác giả dửng dưng trước những quyến rũ về vật chất, cảnh sống xa hoa bởi vì nó được xây bằng xương bằng máu của nhân dân.
+ Tác giả không đồng tình với cuộc sống quá no đủ phè phỡn tiện nghi nhưng thiếu khí trời và cả không khí tự do.
Tóm lại:
Qua cách nói mỉa mai châm biếm của tác giả, chúng ta thấy được sự lộng quyền của nhà chúa đối với quyền tối thượng và cả nếp sống hưởng thụ cực kỳ xa hoa của chúa Trịnh cùng với gia đình, sự thật bù nhìn của tên vua Lê khi đó.
2) Thế tử Cán và thái độ con người Lê Hữu Trác:
a) Thế tử Cán:
nơi thế tử ngự là chốn thâm nghiêm tối tắm, bao quanh đó là các vật dụng gấm góc, lụa là vàng ngọc…
+ Người đông nhưng im lặng, thiếu sinh khí.
+ Không khí lạnh lẽo tù túng
+ Hình hài: tinh khí khô hết, mặt khô, rốn lồi to, gân xanh, chân tay gầy gò, …nguyên khí đã hao mòn, thương tổn quá mức…mạch bị tế sác…âm dương đều bị tổn hại.”
Những điều trên cho thấy cuộc sống vật chất đầy đủ giàu sang nhưng phẩm chất tinh thần, ý chí nghị lực lại trống rỗng. Đó cũng chính là hình ảnh suy yếu ruỗng của tập đoàn phong kiến Lê – trịnh vào những năm cuối TK XVIII.
b) Thái độ, con người Lê Hữu Trác:
+ Đó là một người thầy thuốc giỏi, có kiến thức sâu rộng và dạn dày kinh nghiệm…
+ Bên cạnh tài năng thì ông còn là thầy thuốc rất có lương tâm và đạo đức nghề nghiệp.
3) Nét đặc sắc trong bút pháp của tác giả:
+ Cách quan sát rất tỉ mỉ, ghi chép trung thực, tảnh cảnh người sinh động, không bỏ sót một chi tiết nhỏ nào tạo nên cái thần của cảnh và việc.
+ Cách kể diễn biến câu chuyện và cả sự khéo léo, lôi cuốn người đọc.
+ Mang giá trị hiện thực sâu sắc
III. Kết luận:
Với lối viết theo thể ký, ghi chép lại những người thật việc thật, đoạn trích vào phủ chúa Trịnh đã giúp cho ta có được một tài liệu quý vào thời vua le Chúa Trịnh mà cho tới nay toàn bộ di tích hầu như đã biến mất.
Qua cách miêu tả người, tả cảnh rất khách quan, tác giả đã ngầm phê phán kín đáo về cảnh giàu sang xa hoa quyền uy ghê gớm của chúa Trịnh, đồng thời thể hiện được tâm hồn cao thượng, khát khao một cuộc sống tự do không cần màng tới danh lợi của vị danh y Hải Thượng Lãn Ông.
Soạn văn bài vào phủ Chúa Trịnh lớp 11 – Bài số 12
I. HƯỚNG DẪN TÌM HIỂU VĂN BẢN
Câu 1: Quang cảnh trong phủ chúa được miêu tả như thế nào? Thái độ của tác già?
Trả lời:
a) Bậc danh y tuổi cao, tài lớn dã nhìn thấy và ghi lại quang cảnh ở phủ chúa Trịnh Sâm. Đó là cành cực kỳ xa hoa, tráng lệ và nổi lên quyển uy tột bậc cùa nhà chúa.
– Vào phủ chúa phải qua nhiều lần cửa và “những dãy hành lang quanh co nối nhau liên tiếp”… “Đâu đâu cũng là cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương”.
– Trong khuôn viên phủ chúa “người giữ cửa truyền báo rộn ràng, người có việc quan qua lại như mắc cửi”. Bài thơ ghi lại suy nghĩ và cảm nhận của tác giả để minh chứng cho cảnh sống xa hoa, uy quyền của phủ chúa:
Lính nghìn cửa vác đòng nghiêm nhặt
Cả trời Nam sang nhất là đây!
+ Nội cung được miêu tả gồm những chiếu gấm, màn là, sập vàng, ghế rồng, đèn sáng lấp lánh, hương hoa ngào ngạt, cung nhân xúm xít, mặt phấn áo đỏ…
+ Ăn uống thì: “Mâm vàng, chén bạc, đồ ăn toàn của ngon vật lạ”.
+ Về nghi thức: Lê Hữu Trác phải qua nhiều thù tục mới dược vào thăm bệnh cho thế tử. Nào là phải qua nhiều cừa, phải chờ đợi khi có lệnh mới được vào. “Muốn vào phải có thẻ”, vào đến nơi, người thầy thuốc Lê Hữu Trác phải “lạy bốn lạy”. Tất cả những chi tiết trên cho người đọc nhận thấy phủ chúa Trịnh thật lộng lẫy, sang trọng, uy nghiêm. Lời lẽ nhắn tới chúa Trịnh và thế từ đểu phải hết sức cung kính (thánh thượng, ngự, yết kiến, hầu mạch…). Chúa Trịnh luôn luôn có “phi tần chầu chực” xung quanh. Tác giả không thấy mặt chúa mà chi làm theo mệnh lệnh cùa chúa do quan Chánh dường truyền dạt lại. Xem bệnh xong chi được viết tờ khải dể dâng lên chúa. Nghiêm đến nỗi tác giả phải “Nín thở đứng chờ ở xa”.
– Đó là tài quan sát tỉ mỉ, ghi chép trung thực, tả cảnh sinh động giữa con người với cảnh vật. Thuật lại sự việc theo trình tự diễn ra một cách tự nhiên khiến ta có cảm giác, tác giả không hề thêm thắt, hư cấu mà cảnh vật, sự việc cứ hiện ra rõ mồn một. Ngôn ngữ giản dị, mộc mạc. Đằng sau bức tranh và con người ấy chứa đựng, dồn nén bao tâm sự của tác giả.
b) Với tư cách cùa một người “… vốn con quan, sinh trường ở chốn phồn hoa, chỗ nào trong cấm thành mình cũng dã từng biết. Chỉ có những việc trong phủ chúa là mình chỉ mới nghe nói thôi”. Bước chân tới đây, tác giả không bộc lộ trực tiếp thái độ. Song qua ngòi bút sắc sảo ghi lại những gì mắt thấy, tai nghe của tác giả, người đọc nhận ra thái độ của người cầm bút. Ôông sững sờ trước quang cảnh của phủ chúa “Khác gì ngư phủ dào nguyên thuở nào!” (một ngư phủ chèo thuyền theo dòng suối lạc vào động tiên). Việc được hưởng thụ giàu sang đang nàm trong tay nhưng rốt cuộc tác giả chẳng có thiết tha gì. Đây là đường vào nội cung thế tử “ở trong tối om, không thấy có cửa ngõ gì cả”. Phải chăng thái độ gián tiếp của tác giả là tỏ ra không dồng tình với cuộc sống xa hoa, hưởng lạc thú quá mức của những người giữ trọng trách quốc gia? Cách tìm cuộc sống an nhàn nơi ấn dật rõ ràng là sự đối trọng gay gắt với cảnh sống của gia dinh chúa Trịnh Sâm và bọn quan lại dưới trướng. Thì ra tất cả những thứ sơn son thếp vàng, võng điều áo đỏ, sập vàng, gác tía, nhà cao cửa rộng, hương hoa thơm nức, đèn đuốc lấp lánh,… chỉ là phù phiếm, hình thức, che đậy những gì nhơ bẩn ỏ bên trong. Những thứ đó qua cái nhìn của một ông già áo vải, quê mùa, tự nó phơi bày tất cả. Điều đó giúp ta khẳng định Lê Hữu Trác không thiết tha gì với danh lợi, với quyền uy cao sang.
c) Đó là sự thành công khi miêu tả con người. Từ quan truyền chí đến quan Chánh đường, từ người lính khiêng võng, cầm lọng đến các quan ngự y, từ những cô hầu gái đến những phi tần, mĩ nữ đểu hiện lên rất rõ. Nhưng rõ nhất là thế tử Cán.
Câu 2: Chi tiết làm nổi bật giá trị hiện thực cùa tác phẩm?
Trả lời
– Lối vào chỗ ở của vị chúa nhỏ
“Đi trong tối om, qua năm, sáu lần trướng gấm”
– Nơi thế tử ngự; đạt sập vàng, cắm nến to trên giá đồng, bày ghế đồng sơn son thếp vàng, nệm gấm. Ngót nghét chục người đứng chầu chực sau tấm màn che ngang sân, cung nữ xúm xít. Đèn chiếu sáng làm nổi bật màu phấn và màu áo đỏ, hương hoa ngào ngạt.
– Chỉ có một ấu chúa, thực chất chỉ là cậu bé lên 5 tuổi mà vây quanh bao nhiêu là vật dụng gấm vóc, lụa là vàng ngọc. Tất cả, bao chặt lấy con người. Người thì đông nhưng tất cả đều im lặng khiến cho không khí trờ nên lạnh lẽo, băng giá. Bao trùm lên các mùi phấn son tuy ngào ngạt nhưng thiếu sinh khí. Một cậu bé bị quây tròn, bọc kín trong cái tổ kén vàng son.
+ Mặc áo đỏ, ngồi trên sập vàng
+ Biết khen người giữ phép tắc: “Ông này lạy khéo”
+ Cời áo thì: “Tinh khí khô hết, da mặt khô, rốn lồi to, gân thời xanh, chân tay gầy gò… nguyên khí đã hao mòn, thương tổn quá mức… mạch lại tế,… âm dương đều bị tổn hại…”
– Thế tử Cán được miêu tả bằng con mắt nhìn của một vị lang y tài giỏi bắt mạch, chẩn đoán bệnh. Tác giả vừa tả, vừa nhận xét khách quan. Thế tử Cán được tái hiện lại thật đáng sợ: Tinh khí khô, mặt khô, toàn những đường nét của cơ thể đang chết. Hình ảnh thế từ Cán, chỉ qua vài nét miêu tả đã hiện rõ một cơ thể ốm yếu. Bấy nhiêu đã đủ rồi, nhưng chúng ta hãy đọc trong đơn thuốc của thế tử: “… sáu mạch tế, sác và vô lực, hữu quan yếu, hữu xích lại càng yếu hơn. Ấy là tì âm hư, vị hoả quá thịnh, không giữ được khí dương nên âm hoả đi càn. Vì vậy, bên ngoài thấy cổ trướng, đó là tượng trưng ngoài thì phù bên trong thì trống”. Phải chăng cuộc sống vật chất quá đầy đủ, quá mức giàu sang, phú quý nhưng tất cả nội lực bên trong là tinh thần, ý chí, nghị lực, phẩm chất thì trống rỗng. Ngôn ngữ của y học, hình hài tính khí vẫn là của con người nhưng từng câu, từng chữ có lúc tạo nên nhịp điệu đối xứng: “Màn che – trướng phủ”, với điệp ngữ “quá no… quá ấm”. Nhà khoa học kiêm nghệ sĩ đã chỉ đúng cội nguồn căn bệnh của Trịnh Cán là cả tập đoàn phong kiến của xã hội Đàng ngoài ốm yếu không gì cứu vãn nổi.
Cảu 3: Người thầy thuốc Lê Hữu Trác hiện lên như thế nào?
Trả lời:
– Khi khám bệnh cho thế tử Cán, thái dộ Lê Hữu Trác diễn biến rất phức tạp.
+ Một mặt tác giả chí ra căn bệnh cụ thể, nguyên nhân của nó, một mặt ngám phê phán: “Vì thế tử ờ trong chốn màn che trướng phủ, ăn quá no, mặc quá ám nên tạng phù yếu đi”.
+ Ông rất hiểu căn bệnh cùa Trịnh Cán, đưa ra những cách chữa hợp lý, thuyết phục nhưng lại sợ chữa có hiệu quả ngay, chúa sẽ tin dùng, bị công danh trói buộc: “Nhưng sợ mình không ở lâu, nếu mình làm có kết quả ngay thì sẽ bị danh lợi nó ràng buộc, không làm sao về núi được nữa”. Để tránh được, cứ cầm chừng, dùng thuốc vỏ thưởng vô phạt. Song làm thế lại trái với y đức, trái với lương tâm, phụ lòng ông cha. Tâm trạng ấy giằng co, xung đột. Đây là ý nghĩ đáng quý: “Cha ông mình đời đời chịu ơn của nước, ta phải dốc hết cả lòng thành, để nối tiếp cái lòng trung của cha ông mình mới được”. Cuối cùng phẩm chất, lương tâm trung thực cùa người thầy thuốc đã thắng. Lê Hữu Trác đã gạt sang một bên sở thích của riêng mình đê’ làm tròn trách nhiệm. Khi dã quyết, tác giả chẳng đưa ra lí lẽ để giải thích. Điều đó chứng tỏ tác giả là một thầy thuốc giỏi, có kiến thức sâu rộng, già dặn kinh nghiệm. Ống lấy việc trị bệnh cứu người làm mục đích chính, y dức ấy ai hơn.
– Quan sát tỉ mỉ.
+ Quang cảnh phù chúa.
+ Nơi thế tử Cán ở, cảnh vật dưới ngòi bút ký sự của tác già tự phơi bày.
– Ghi chép trung thực, giúp người đọc thấy được cánh ấy có sự bài trí của giàu sang, quyền chức.
+ Từ việc ngồi chờ ờ phòng trà đến bữa cơm sáng.
+ Từ việc xem bệnh cho thế tử Cán đến ghi đơn thuốc.
Tất cả không có một chút hư cấu, chi thấy hiện thực dời sống được bóc tách dần từng mảng. Người đọc không thể dừng lại ờ bất cứ chỗ nào. Cách ghi chép cũng như tài năng quan sát đã tạo được sự tinh tế, sắc sảo ở một vài chi tiết, gây ấn tượng khó quên.
+ Cách thế tử ngồi trên sập vàng chễm chệ, ban một lời khen khi một cụ già quỳ dưới đất lạy bốn lạy: “Ông này lạy khéo”.
+ Khi đi vào nơi thế tử để xem mạch, tác giả chú ý cả chi tiết bên trong cái màn là nơi “Thánh thượng đang ngự”(Chi chúa Trịnh Sâm). “Có mấy người cung nhãn đang đứng xúm xít. Đèn sáp chiếu sáng, làm nổi màu mặt phấn và màu áo dỏ. Xung quanh lấp lánh, hương hoa ngào ngạt”. Chi tiết này khắng dịnh việc ăn chơi hưởng lạc của nhà chúa tự nó phơi bày ra mổn một.
Câu 4: Nét đặc sắc trong bút pháp kí sự?
Trả lời:
– Đoạn văn trích Vào phủ chúa Trịnh trích Thượng kinh ký sự của Lê Hữu Trác vừa mang đậm giá trị hiện thực, vừa thể hiện phẩm chất của một thầy thuốc giàu tài năng mang bản lĩnh vô vi, thích sống gần gũi chan hoà với thiên nhiên, ghẻ lạnh với danh vọng, suốt đời chăm lo giữ gìn y đức của mình.
– Với tài năng quan sát sự vật, sự việc cùng với cách kể hấp dẫn. Lê Hữu Trác đã góp phần khẳng định vai trò, tác dụng của thể ký đối với hiện thực đời sống.
II. HƯỚNG DẪN LUYỆN TẬP
Bài tập: So sánh đoạn trích: Vào phủ chúa Trịnh của Lê Hữu Trác (Thượng kinh kí sự) với Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh của Phạm Đình Hổ (Vũ trung tuỳ bút)?
Trả lời:
Nhân việc được triệu về kinh chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán, ghi lại quang cảnh và cuộc sống cực kì xa hoa của chúa Trịnh Sâm lúc bấy giờ
Kể lại những thú vui ham chơi của Trịnh Sâm: đi chơi ngắm cảnh đẹp, ngự ờ các li cung, xây dựng núi non. chậu hoa cảnh, vơ vét, chiếm đoạt của cải tiền bạc của nhân dân với nhũng tệ nạn nhũng nhiễu của bọn hoạn quan một cách thô bạo và trắng trợn.
Soạn văn bài vào phủ Chúa Trịnh lớp 11 – Bài số 3
I.TÌM HIỂU CHUNG
1.Tác giả
a) Cuộc đời:
+ Người làng Liên Xá, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, trấn Hải Dương
Gia đình có truyền thống hoc hành và thư cử đỗ đạt làm quan.
b) Sự nghiệp:
Ngoài tài chữa bệnh, ông còn là người soạn sách, truyền bá y học… Bộ Hải Thượng y tông tâm lĩnh gồm 66 quyển biên soạn trong 60 năm được coi là tác phẩm y học xuất sắc nhất trong thời Trung đại.
2. Tác phẩm ” Thượng kinh ký sự: ( 1782)
Là quyển cuối cùng trong bộ Hải thượng y tông tâm lĩnh, đánh dấu sự phát triển của văn học ( Văn xuôi tiếng Việt, thể ký)
Tác phẩm ghi nhận những điều mắt thấy tai nghe khi tác giả được mời vào kinh chữa bệnh cho Thế tử Cán cho tới khi ông về lại Hương Sơn..
3.Vị trí đoạn trích:
Đoạn trích ghi lại thời điểm: Sau khi ông vào kinh, đang tá túc tại nhà Quận Huy Hoàng Đình Bảo thì ông được mời vào phủ chúa Trịnh để xem bệnh cho Thế tử Cán. Đây là lần đầu tiên ông bước chân vào chốn thâm nghiêm này.
II.ĐỌC HIỂU VĂN BẢN:
1) Quang cảnh, cung cách sinh hoạt trong phủ Chúa
a) Quang cảnh trong phủ chúa
Cực kỳ lộng lẫy, tráng lệ, không đâu sánh bằng:
– Cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm
– Những ” đại đường”, “Quyển bồng” với kiệu son võng điều, đồ nghi trượng sơn son thếp vàng
– Nội cung qua năm sáu lần trướng gấm với những trướng gấm, màn là, sập vàng, ghế rồng, đèn sáng lấp lánh, hương hoa ngào ngạt…
(màu sắc, đường nét, hương sắc của vườn cây, lầu son gác tía, mân vàng chén bạc, sơn hào hải vị…)
* Tác giả là con quan, đã từng nhiều lần vào tử cấm thành mà vẫn ngỡ ngàng trước quang cảnh nơi phủ chúa…
b) Cung cách sinh hoạt
– Cách nói năng:
+ Trịnh Sâm thì dùng từ thánh chỉ(4 lần), thánh thượng(3 lần)
+Trịnh Cán thì:Thánh thể (1lần)
+ Các chức sắc trong phủ: Quan chánh đường, các vị lương y, của sáu cung ba viện, kẻ truyền tinđông đảo nhộn nhịp.
+ Phủ chúa ra vào phải có thẻ; lương y khám bệnh cũng phải lạy bốn lạy, xin phép mới được cởi áo thế tử…
+ Xung quanh chúa là các cung tần phi nữ, trướng rủ màn che,
c) Thái độ của tác giả đối với cuộc sống nơi phủ chúa
Tác giả dửng dưng trước những những quyến rũ vật chất,cảnh sống xa hoa bởi nó được xây bằng xương máu của nhân dân…
+ Không đồng tình với cuộc sống quá no đủ phè phỡn tiện nghi nhưng thiếu khí trời và không khíi tự do…
Tóm lại:
Qua cách nói mỉa mai châm biếm của tác giả, ta thấy: Sự lộng quyền của nhà chúa với quyền uy tối thượng và nếp sống hưởng thụ cực kỳ xa hoa của chúa Trịnh cùng gia đình; sự thật bù nhìn của vua Lê khi ấy…
2) Thế tử Cán và thái độ con người Lê Hữu Trác:
a) Thế tử Cán:
Nơi thế tử ngự là nơi thâm nghiêm tối tăm ; bao quanh là vật dụng gấm vóc, lụa là vàng ngọc…
+ Người đông nhưng im lặng, thiếu sinh khí.
+ Không khí lạnh lẽo tù túng
+ Hình hài: tinh khí khô hết, mặt khô, rốn lồi to, gân xanh, chântay gầy gò, …nguyên khí đã hao mòn, thương tổn quá mức…mạch bị tế sác…âm dương đều bị tổn hại.”
Cuộc sống vật chất đầy đủ giàu sang nhưng phẩm chất tinh thần, ý chí nghị lực trống rỗng.Đó cũng chính là hình ảnh suy yếu muc6 ruỗng của tập đoàn phong kiến Lê – Trịnh Những năm cuối TK XVIII.
b) Thái độ, con người Lê Hữu Trác:
+Tác giả là một thầy thuốc giỏi, có kiến thức sâu rộng và dạn dày kinh nghiệm…
+ Bên cạnh tài năng, ông còn là một thầy thuốc có lương tâm và đức độ…
3) Nét đặc sắc trong bút pháp của tác giả:
+ Cách quan sát tỉ mỉ, ghi chép trung thực, tả cảnh tả người sinh động, không bỏ sót chi tiết nhỏ nào tạo nên cái thần của cảnh và việc.
+ Cách kể diễn biến câu chuyện và sự việc khéo léo,lôi cuốn người đọc. Giá trị hiện thực sâu sắc
III. Kết luận:
* Với lối viết theo thể ký, ghi chép lại những người thật việc thật, đoạn trích Vào phủ chúa trịnh giúp cho ta có được một tài liệu quý vào thời vua Lê chúa,Trịnh mà cho tới nay toàn bộ di tích này hầu như đã biến mất.
* Qua cách miêu tả người tả cảnh rất khách quan, tác giả đã ngẩm phê phán kín đáo cảnh giàu sang xa hoa quyền uy ghê gớm của chúa Trịnh đồng thời thể hiện tâm hồn cao thượng, khát khao cuộc sống tự do không màng danh lợi của vị danh y Hải Thượng Lãn Ông.
Soạn văn bài vào phủ Chúa Trịnh lớp 11 – Bài số 4
1. Vài nét về tác giả Lê Hữu Trác
– Lê Hữu Trác tên hiệu là hải thượng lãn ông, xuất thân trong một gia đình có truyền thống học hành thi đậu cao, ông cũng là một thầy thuốc giỏi.
2. Tác phẩm.
– Đây là quyển cuối cùng trong bộ Hải Thượng y tông tâm lĩnh.
3. Quang cảnh, cách thức sinh hoạt trong phủ chúa.
– Quang cảnh:
+ Khung cảnh trong phủ chúa nhộn nhịp xa hoa, với những tiếng chim hót những cánh hoa, những dãy hành lang quanh co nối tiếp nhau, cảnh vật xung quanh phủ chúa thật xa hoa lộng lẫy, nó mang một vẻ đẹp tran hoàng những cảnh vật ngoài xã hội lại đối lập với cảnh vật trong phủ chúa, bên trong đồ vật trong phủ chúa thì được to son thiếc vàng làm tôn lên vẻ đẹp lộng lẫy,hét sức xa hoa, không khí ở phủ chúa thật ngột ngạt, nó khiến cho tác giả bị xiết chặt vào cái sung túc nhưng lại dựa trên sự đau khổ của nhân dân lao động, những khung cảnh đó làm cho tác giả ngột ngạt ông như đang bước vào một thế giới hoàn toàn khác, ông cảm thấy khó thở và căm phẫn trước sự sa hoa của bọn bạo chúa.
– Cung cách sinh hoạt:
+ Trong phủ chúa Trịnh chỉ có những kinh thánh và những lời cầu khẩn dạ thưa của vua quan và đầy tớ, chúa trịnh là một người sống rất xa hóa trong cách sinh hoạt của hắn luôn có những phi tần luôn trầu trực, và thúc trực quanh hắn, thế tử thì luôn có đến bẩy tám người thầy thuốc tục trực…. một cuộc sống xa hoa ở phủ chúa đã bộc lộ ra một chế độ ăn chơi xa đọa không lo cho cuộc sống của nhân dân.
Người đọc khi đọc xong dường như đều có cảm xúc khi thấy một khung cảnh xa hoa nơi phủ chúa và cả những phong thái sinh hoạt xa hoa, sự xa hoa ở phủ chúa là sự cực khổ của nhân dân, mỗi sự cực khổ của nhân dân là một phần xa hoa sung túc ở phủ chúa, bóc lột sức lao động của nhân dân vào việc ăn chơi trác táng.. một chế độ thật đáng lên án sâu sắc.
+ Cảnh xa hoa tráng lệ ở phủ chúa trịnh khác hẳn và đối lập với cuộc sống đời thường bên ngoài mỗi chúng ta, nhân dân lúc ấy giờ đang lâm vào nạn đói, sưu thuế tăng cao nộp vào cho triều đình để ăn chơi, mỗi cuộc chơi của phủ chúa là những giọt mồ hôi công sức và cả máu của người dân. Nơi đây bọn chúng biến thành nơi để xa hoa chơi, những con người ở đây đều biến chất lúc nào cũng chỉ thích ăn chơi rồi bỏ mặc cuộc sống đói khổ của nhân dân ngoài xã hội, người dân đói lăn lóc ra nhưng bên trong này thì ăn chơi chát tang thật đáng lên án cái bọn hại dân bán nước này.
Nghi lễ ở phủ chúa thể hiện một khuôn phép một lối sống của một bậc quyền sang có chúc có quyền và nó đã phản ánh một chế độ độc tài thối nát. Nhưng nghi thức rườm rà, thủ tục làm cho khác ngoài đời nơi đây trở thành nơi ăn chơi nhảy múa của bọn hôn quân bạo chúa. Nó tạo nên một không khí bị ép chặt ngột ngạt, chúng muốn biến nơi đây thành thiên dường để trác tang.
Cái nhìn của tác giả và ngôn ngữ được tác giả thể hiện: những ngôn ngữ mỉa mai, giọng điệu đầy chất châm biếm khi đối diện với khung cảnh đó tác giả dường như choáng ngợp trước quang cảnh nguy nga lộng lẫy ở phủ chúa, đối diện với cuộc sống của nhân dân, không có cơm ăn áo mặc, nhân dân rơi vào lầm than nghèo đói… Lê Hữu Trác là một nhà nho coi thường danh lợi, ông đã lấy cái cá nhân cái cao cả để phản anh một chế độ thối nát xa hoa ăn chơi hưởng lạc.
Người thầy thuốc nhìn thầy cảnh vật ở phủ chúa không phải vì tiền bạc của cải mà chữa bệnh cho thế tử ông đã gạt bỏ đi những định kiến cá nhân để làm tròn trách nhiệm của một vị thầy thuốc, lấy chữa trị cứu người làm nền tảng…qua đó chúng ta cũng đánh giá được phẩm chất cao quý của người thầy thuốc, đã cứu chữa để giúp tính mạng của con người…
Thái độ kê đơn thuốc của tác giả: căn bệnh của thái tử là căn bệnh của người giàu nhưng vì lương y của một vị thày thuốc mà ông đã cứu giúp, ông đã bỏ đi cái hiềm khích cá nhân để cứu sống mạng người, ông không chỉ là một người thầy thuốc giỏi mà ông còn là một người có tấm lòng bao dung nhân hậu.
6. Đặc sắc nghệ thuật được tác giả sử dụng trong bài.
Nghệ thuật: tác giả đã dùng vốn hiểu biết và tài năng của mình để ghi chép lại toàn bộ cuộc sống xa hoa ở phủ chúa, ghi lại những hình ảnh, sự vật đặc biệt quan trọng để qua đó tố cáo chế độ độc tài thối nát, lối kể chuyện sâu sắc của tác giả đã làm cho người đọc hứng thú với diễn biến câu chuyện. Cả bài là một cuộc sống xa hoa tác giả dã rất thành công trong việc ghi dấu ân đặc biệt bởi những chi tiết rất đặc sắc để lột tả được một cuộc sống xa hoa của phủ chúa, những quan cách và những thủ tục rườm già, mang nặng quyền thế.
Những chi tiết được tác giả miêu tả rất hiện thực qua đó phản ánh một lớp người một tầng lớp thoái chất, phê phán một chế độ tàn ác.
Vũ Hường tổng hợp
Bạn đang đọc nội dung bài viết Soạn Bài Vào Phủ Chúa Trịnh Siêu Ngắn trên website Athena4me.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!