Đề Xuất 4/2023 # Soạn Bài: Bàn Về Đọc Sách – Ngữ Văn 9 Tập 2 # Top 9 Like | Athena4me.com

Đề Xuất 4/2023 # Soạn Bài: Bàn Về Đọc Sách – Ngữ Văn 9 Tập 2 # Top 9 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Soạn Bài: Bàn Về Đọc Sách – Ngữ Văn 9 Tập 2 mới nhất trên website Athena4me.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

I. Tác giả, tác phẩm

1. Tác giả: Chu Quang Tiềm (1897 – 1986): nhà mĩ học và lí luận văn học nổi tiếng của Trung Quốc.

2. Tác phẩm

* Xuất xứ: Văn bản Bàn về đọc sách là kết quả của quá trình tích lũy kinh nghiệm, dày công suy nghĩ, là những lời tâm huyết của người đi trước muốn truyền lại cho các thế hệ sau. Tác phẩm được in trong Danh nhân Trung Quốc bàn về niềm vui, nỗi buồn của việc đọc sách.

* Bố cục: Văn bản Bàn về đọc sách có thể được chia làm 3 phần:

Phần 3: còn lại : Bàn về phương pháp đọc sách hiệu quả.

II. Hướng dẫn soạn bài

Câu 1:

* Vấn đề nghị luận của bài viết này là sự cần thiết của việc đọc sách và các phương pháp đọc sách hiệu quả.

* Các luận điểm đã có ở phần Bố cục trên.

Câu 2:

* Qua lời bàn của Chu Quang Tiềm, em thấy sách có tầm quan trọng rất lớn đối với cuộc sống của con người nói riêng và xã hội nói chung. Cụ thể là: sách giúp chúng ta ghi chép, lưu truyền mọi tri thức, thành tựu, sách chính là những cột mốc trên con đường phát triển học thuật.

* Ý nghĩa của việc đọc sách: Sách là con đường quan trọng của học vấn, sự chuẩn bị cho cuộc trường chinh vạn dặm trên con đường học vấn và phát triển thế giới mới.

Câu 3:

* Muốn tích lũy học vấn, đọc sách có hiệu quả, trước tiên chúng ta cần biết chọn lựa sách mà đọc vì sách nhiều cũng có những nguy hại nhất định của nó.

Sách nhiều khiến cho người ta đọc một cách tràn lan, không chuyên sâu, không nghiền ngẫm kĩ nội dung của sách.

Sách nhiều khiến cho chúng ta khó lựa chọn, dễ bị lạc hướng và dẫn đến lãng phí thời gian.

* Theo tác giả, cách lựa chọn sách là:

Không nên tham đọc nhiều, đọc tràn lan mà phải đọc kĩ những cuốn sách thực sự có giá trị.

Nên đọc kĩ những loại sách, những tài liệu thuộc lĩnh vực chuyên môn của mình, không nên đọc lệch.

Khi đọc chuyên sâu thì không nên xem thường những loại sách thường thức, gần gũi với chuyên môn của mình

Câu 4:

Lời bàn của tác giả về phương pháp đọc sách:

Không nên đọc lướt qua, phải vừa đọc vừa suy ngẫm, đặc biệt là với những cuốn sách có giá trị.

Không nên đọc một cách tràn lan, không tham đọc nhiều, quyển nào cũng đọc, mà phải đọc một cách có kế hoạch và hệ thống. Chúng ta có thể coi đọc sách là một công việc rèn luyện, một cuộc chuẩn bị âm thầm và gian khổ.

Câu 5:

Bài viết Bàn về đọc sách có sức thuyết phục cao. Điều này được tạo nên từ những yếu tố là:

Bố cục chặt chẽ, hợp lí, cách dẫn dắt tự nhiên

Cách viết giàu hình ảnh ví von, thú vị.

Từ nội dung cho đến cách trình bày đều thấu tình đạt lí; những ý kiến, những nhận xét đưa ra đều xác đáng, có lí lẽ chặt chẽ, vừa sinh động lại vừa dễ hiểu.

4.9

/

5

(

22

bình chọn

)

Soạn Bài: Bàn Về Đọc Sách (Trích)

I – KIẾN THỨC CƠ BẢN CẦN NẮM VỮNG

1. Chu Quang Tiềm (1897 – 1986) là nhà mĩ học và lí luận văn học nổi tiếng của Trung Quốc.

2. Tóm tắt văn bản :

Nhà văn Chu Quang Tiềm đã nêu lên tầm quan trọng, ý nghĩa cần thiết của việc đọc sách ; chỉ ra các thiên hướng sai lệch dễ mắc phải của việc đọc sách hiện nay và bàn về phương pháp đọc sách để thu được hiệu quả.

3. Bàn về đọc sách của Chu Quang Tiềm nêu rõ : Đọc sách là một con đường quan trọng để tích luỹ, nâng cao học vấn. Phải biết chọn sách mà đọc, đọc ít mà chắc hơn là đọc nhiều mà rỗng, cần kết hợp đọc rộng và sâu, đọc sách thường thức với sách chuyên môn ; phải có kế hoạch đọc theo một mục đích nhất định chứ không đọc tuỳ hứng. Văn bản có tác dụng giúp cho mọi người có thái độ đúng đắn với việc đọc sách.

II – HƯỚNG DẪN ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN

1. Vấn đề nghị luận của văn bản này là việc đọc sách. Tác giả trình bày ba luận điểm chính:

Luận điểm một (từ đầu đến “phát hiện thế giới mới”) : Tầm quan trọng và ý nghĩa của việc đọc sách đối với việc tích luỹ kiến thức, nâng cao học vấn.

Luận điểm hai (tiếp theo đến “tự tiêu hao lực lượng”) : Khó khăn của việc đọc sách và những thiên hướng sai lệch người ta thường mắc khi đọc sách. Luận điểm ba (phần còn lại) : Cách đọc sách đúng đắn để thu được hiệu quả cao nhất.

2. Sách vô cùng quan trọng : Nó ghi chép, đúc kết kinh nghiệm, thành tựu mà con người đạt được. Nó đánh dấu những cột mốc trên con đường phát triên học thuật của nhân loại. Nó là kho tàng tri thức và giá trị tinh thần mà loài người tích lũy được.

Sách có tầm quan trọng như vậy, nên đọc sách là con đường để nâng cao học vấn. Đọc sách là để tích luỹ kiến thức, chuẩn bị cho cuộc sống và cuộc đi xa tiếp tục khám phá thế giới.

3. Muốn tích luỹ học vấn, đọc sách có hiệu quả, cần phải chọn sách mà đọc vì sách vở ngày càng nhiều, con người dễ bị chạy theo số lượng, đọc nhiều mà không hiểu được bao nhiêu. Mặt khác, sách nhiều, nếu không chọn lựa kĩ, sẽ bị sa vào các sách ít thông tín, không phù hợp với chuyên môn của người đọc, gây lãng phí thời gian và tiền bạc.

Theo tác giả, nên chọn lựa sách theo tiêu chuẩn sau :

– Không ham đọc nhiều, đọc lung tung mà phải chọn sách phù hợp với chuyên môn, sách có giá trị.

– Đọc và suy nghĩ thật kĩ những cuốn sách đã chọn.

– Phải kết hợp giữa đọc rộng và đọc sâu, đọc sách thường thức với sách chuyên môn. Các loại sách đó hỗ trợ cho nhau, tạo cho người đọc có kiến thức rộng và sâu.

4. Bàn về đọc sách trước hết là bàn đến việc lựa chọn sách đọc. Biết lựa chọn sách cho tinh, phù hợp với chuyên môn là bước đầu của việc đọc sách. Khi chọn được sách rồi thì phải đọc thật kĩ. Không đọc lướt qua, không đọc để lấy số lượng nhiều, cần đọc theo kiểu “trầm ngâm tích luỹ, tưởng tượng tự do”, nhất là đối với các quyển sách có giá trị.

Cần đọc sách theo một kế hoạch, một chủ đích chứ không đọc lung tung, đọc tuỳ hứng, tuỳ tiện. Việc đọc sách theo chuyên môn sâu sẽ làm cho người đọc nâng cao trình độ học vấn, trình độ chuyên môn. Đọc sách không chỉ là tích luỹ kiến thức, mà còn rèn luyện nhân cách, chuẩn bị cho cuộc sống và hoạt động lâu dài của mỗi con người.

5. Văn bản Bàn về đọc sách có sức thuyết phục cao bởi lập luận chặt chẽ với ba luận điểm chính thể hiện trong ba phần của bài. Tác giả đã từ kinh nghiệm của bản thân mình, cộng với sự suy xét, nghiền ngẫm nên phân tích, chỉ rõ những sai lạc mà người đọc dễ mắc phải. Đó là sự đọc nhiều mà không đọng lại ; đó là sự tham nhiều mục tiêu, rải mành mành, khuất lấp như lối đánh trận “tự tiêu hao lực lượng”. Tác giả phân tích thấu tình đạt lí về cách chọn sách, cách đọc sách sao cho hiệu quả nhát. Sức thuyết phục còn thể hiện ở những so sánh rất chính xác : Việc chiếm lĩnh kiến thức giống như đánh trận, việc đọc nhiều sách mà không hiểu giống như ăn nhiều thức ăn không tiêu, không những không bổ mà còn hại dạ dày ; việc đọc mà không chịu nghĩ sâu giống như cưỡi ngựa qua chợ, mắt hoa, ý loạn, dẫu châu báu phơi đầy mà đành về tay không ; việc chuyên sâu không chú ý đến bề rộng thì càng tiến càng gặp khó khăn, như con chuột chui vào sừng trâu, càng chui sâu càng hẹp,…

II – HƯỚNG DẪN LUYỆN TẬP

Hãy chọn một vài điều mà em thấy thấm thía khi đọc bài Bàn về đọc sách. Điều đó có thể là việc đọc nhiều, đọc nhanh chỉ cốt lấy số lượng mà không đọng lại được điều gì; cũng có thể là việc đọc sách lung tung, bạ gì đọc nấy, không có chọn lọc gì cả ; cũng có thể là việc đọc tuỳ hứng, không kiên trì theo đuổi một kế hoạch nào cả.

Soạn Bài Bến Quê (Trích) Sbt Ngữ Văn 9 Tập 2

Giải câu 1, 2, 3, 4, 5, 6 trang 67 SBT Ngữ Văn 9 tập 2. Em hiểu như thế nào về tên truyện Bến quê, khi đối chiếu với nội dung thiên truyện ?

1. Truyện ngắn Bến quê tập trung vào một tình huống khá đặc biệt, đó là tình huống nào ? Hãy chỉ ra những nghịch lí trong tình huống ấy và nêu ý nghĩa của nó.

Trả lời:

Tình huống truyện chính là cảnh ngộ éo le, ngặt nghèo của nhân vật Nhĩ trong những ngày cuối đời. Là một người từng đi khắp mọi nơi trên trái đất, không thiếu một xó xỉnh nào, vậy mà đến cuối đời Nhĩ lại bị buộc chặt trên giường bởi một căn bệnh quái ác khiến anh gần như liệt toàn thân, và sự sống của Nhĩ đã gần như cạn kiệt. Khai thác tình huống này, tác giả phát hiện và nhấn mạnh vào những điều nghịch lí trong cảnh ngộ của nhân vật : Là người từng đi khắp thế giới, nhưng Nhĩ lại chưa từng đặt chân lên cái bãi bồi màu mỡ ngay bên kia sông ; từng bay những chuyến bay vượt nửa vòng trái đất, nhưng nay lại không thể nhích thân mình dịch chuyển vài mươi phân trên giường bệnh ; đứa con trai mà anh nhờ thay mình thực hiện điều khao khát là đặt chân lên bờ bãi bên kia sông thì lại mải mê sa vào một đám chơi phá cờ thế trên hè phố, có thể lỡ mất chuyến đò duy nhất trong ngày.

Đưa ra những nghịch lí ấy, nhà văn muốn phát hiện những quy luật của đời sống và chiêm nghiệm, triết lí về cuộc đời con người.

2. Phân tích bức tranh thiên nhiên được miêu tả ở phần đầu của truyện (từ “Ngoài cửa sổ” đến “ngay trước cửa sổ nhà mình”). Chú ý : Bức tranh ấy được miêu tả qua cái nhìn của ai ? Đường nét, màu sắc của cảnh vật được miêu tả tinh tế, gợi cảm như thế nào và gợi ra tâm trạng gì của người quan sát ?

Trả lời:

Cảnh vật được miêu tả theo cái nhìn của Nhĩ, từ gần đến xa, tạo thành một không gian có chiều sâu và bề rộng : từ những bông bằng lăng ngay phía ngoài cửa sổ đến con sông Hồng với màu đỏ nhạt lúc đã vào thu, vòm trời và sau cùng là bãi bồi bên kia sông.

Cảnh vật thiên nhiên trong một buổi sáng đầu thu, qua cái nhìn của Nhĩ, hiện ra với vẻ đẹp riêng và chỉ có thể cảm nhận được bằng những cảm xúc tinh tế. Những chùm hoa bằng lăng cuối mùa thưa thớt nhưng lại đậm sắc hơn ; con sông Hồng màu đỏ nhạt, mặt sông như rộng thêm ra ; vòm trời như cao hơn. Không gian và những cảnh sắc vốn quen thuộc, gần gũi, nhưng lại như rất mới mẻ với Nhĩ, tưởng chừng như lần đầu tiên anh cảm nhận được tất cả vẻ đẹp và sự giàu có của nó. Cái nhìn ấy thể hiện niềm tha thiết với cuộc sống, với vẻ đẹp bình dị mà sâu xa của thiên nhiên, của quê hương ở nhân vật Nhĩ.

3. Em hiểu như thế nào về ý nghĩa biểu tượng của các hình ảnh và chi tiết sau trong truyện : bãi phù sa màu mỡ bên kia sông, bờ đất lở dốc đứng ở bên này sông, đứa con trai của Nhĩ sa vào đám chơi phá cờ thế bên hè phố ?

(Em tự phát hiện ý nghĩa biểu tượng của các hình ảnh, chi tiết còn lại.)

4. Ở đoạn kết truyện, tác giả đã tập trung miêu tả chân dung và cử chỉ của nhân vật Nhĩ với một vẻ rất khác thường. Hãy giải thích ý nghĩa của các chi tiết đó.

Trả lời:

Em đọc lại đoạn kết của truyện để nhận ra sự khác thường và thái độ vội vã, khẩn thiết của nhân vật Nhĩ thể hiện trong tư thế, hành động. Hành động của Nhĩ có thể hiểu là anh đang nôn nóng, thúc giục cậu con trai hãy mau kẻo lỡ chuyến đò duy nhất trong ngày. Nhưng hình ảnh này còn gợi ra ý nghĩa khái quát hơn. Đó là ý muốn thức tỉnh mọi người về những cái vòng vèo, chùng chình để dứt ra khỏi nó, để hướng tới những giá trị đích thực, vốn rất giản dị, gần gũi và bền vững.

5. Truyện Bến quê chứa đựng những suy ngẫm, triết lí gì của tác giả về con người và cuộc đời ? Hãy nêu cảm nghĩ của em về những điều nhà văn suy ngẫm, triết lí.

Trả lời:

Truyện ngắn này chứa đựng nhiều suy ngẫm, triết lí của Nguyễn Minh Châu về đời người, là kết quả của sự chiêm nghiệm thấm thìa, sâu sắc của tác giả. Có thể nêu một số ý sau :

– Cuộc sống và số phận con người chứa đầy những điều bất thường, những nghịch lí ngẫu nhiên, vượt ra ngoài những dự định và ước muốn, cả những hiểu biết và toan tính của mỗi con người.

– Cuộc đời con người thường khó tránh khỏi những điều vòng vèo hoặc chùng chình, nhất là khi còn trẻ. Chỉ đến khi đã từng trải hoặc ở một cảnh ngộ khác thường nào đó, người ta mới nhận thức được những giá trị đích thực của cuộc sống, những giá trị ấy thường giản dị và bền vững, lại ở gần gũi quanh ta. Nhưng thường thì khi nhận thức được điều đó, con người lại không còn mấy thời gian và sức lực để đạt tới nó.

(Em có thể phát hiện thêm những triết lí khác trong truyện. Em cần nêu cảm nghĩ về những suy ngẫm, triết lí của tác giả một cách chân thực, tự nhiên.)

6. Em hiểu như thế nào về tên truyện Bến quê, khi đối chiếu với nội dung thiên truyện ?

Trả lời:

Đối chiếu với nội dung truyện, tên truyện Bến quê có thể gợi ra nhiều ý nghĩa, chẳng hạn như:

– Quê hương, gia đình là nơi lưu giữ những vẻ đẹp, những giá trị bền vững, sâu xa, là chỗ dựa, bến đỗ bình yên cho cuộc đời mỗi con người, dù có bôn ba đi khắp mọi phương trời.

– “Bến quê” không chỉ mang ý nghĩa cụ thể về không gian thân thuộc của quê hương, mà còn là biểu tượng cho những giá trị gần gũi, vững bền, thân thuộc và giản dị đối với mỗi con người, mà nhiều khi người ta thường vô tình bỏ qua, không biết trân trọng nó.

chúng tôi

Bài tiếp theo

Soạn Bài Tổng Kết Tập Làm Văn Trang 169 Sgk Ngữ Văn 9 Tập 2

1. CÁC KIỂU VĂN BẢN ĐÃ HỌC TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN THCS Đọc bảng tổng kết sau(trang 169, 170 SGK Ngữ văn 9 tập 2) và trả lời các câu hỏi nêu ở dưới.

1. Hãy cho biết sự khác nhau của các kiểu văn bản trên. (Gợi ý: Tự sự khác miểu tả như thế nào? Thuyết minh khác tự sự và miêu tả như thế nào? Văn bản biểu cảm khác văn bản thuyết minh ở đâu? Văn bản nghị luận khác văn bản điều hành ở những điểm nào? Hãy nêu các phương thức biểu đạt cơ bản của mỗi kiểu để làm sáng tỏ các câu hỏi trên.)

2. Các kiểu văn bản trên có thể thay thế cho nhau được hay không? Vì sao?

3. Các phương thức biểu đạt trên có thể được phối hợp với nhau trong một văn bản cụ thể hay không? Vì sao? Nêu một ví dụ để minh họa.

4. Từ bảng trên, hãy cho biết kiểu văn bản và hình thức thể hiện, thể loại tác phẩm văn học có gì giống nhau và khác nhau.

a) Hãy kể tên các thể loại văn học đã học, ghi lên bảng.

b) Mỗi thể loại ấy đã sử dụng các phương thức biểu đạt nào?

c) Tác phẩm văn học như thơ, truyện, kịch có khi nào sử dụng yếu tố nghị luận không? Cho ví dụ và cho biết yếu tố nghị luận đó có đặc điểm gì?

5. Kiểu văn bản tự sự và thể loại văn học tự sự khác nhau như thế nào? Tính nghệ thuật trong tác phẩm văn học tự sự thể hiện ở những điểm nào?

6. Kiểu văn bản biểu cảm và thể loại văn học trữ tình giống và khác nhau ở những điểm nào? Nêu đặc điểm của thể loại văn học trữ tình. Cho ví dụ minh họa.

7. Tác phẩm nghị luận có cần các yếu tố thuyết minh, miêu tả, tự sự không? Cần ở mức độ nào, vì sao?

Trả lời:

1. Tự sự và miêu tả: Văn tự sự trình bày các sự việc (sự kiện) có quan hệ nhân quả dẫn đến kết cục biểu lộ ý nghĩa. Nhằm mục đích biểu hiện con người, quy luật đời sống bày tỏ tình cảm thái độ. Còn miêu tả thì tái hiện các tính chất, thuộc tính sự vật, hiện tượng làm cho chúng biển hiện. Nhằm mục đích giúp con người cảm nhận và hiểu được chúng.

Thuyết minh khác tự sự và miêu tả: Văn thuyêt minh tập trung trình bày thuộc tính, cấu tạo, nguyên nhân, kết quả có ích, có hại của sự vật hiện tượng. Nhằm mục đích giúp người đọc có tri thức khách quan và có thái độ đúng đắn với chúng.

Biểu cảm khác thuyết minh: Văn biểu cảm bày tỏ trực tiếp hoặc gián tiếp tình cảm, cảm xúc của con người đối với con người, thiên nhiên, xă hội, sự vật nhằm mục đích bày tỏ tình cảm và khơi gợi lòng đồng cảm gây xúc động ở người đọc.

Nghị luận khác điều hành: Văn nghị luận trình bày tư tưởng, chủ trương, quan điểm của con người đối với tự nhiên xã hội và con người bằng các luận điểm, luận cứ và cách lập luận. Nhằm mục đích thuyêt phục mọi người tin theo cái đúng, cái tốt, từ bỏ cái sai, cái xấu. Còn văn điều hành trình bày theo mẫu chung và chịu trách nhiệm về pháp lí các ý kiến, nguyện vọng của cá nhân, tập thể đối với cơ quan quản lí, trình bày các quyết định của người có thẩm quyền đối với người có trách nhiệm thực thi công việc; trình bày các thỏa thuận giữa công dân với nhau về lợi ích và nghĩa vụ nhằm đảm bảo các quan hệ bình thường giữa người và người theo quy định và pháp luật.

2. Trong chương trình và sách giáo khoa Ngữ văn THCS có sáu kiểu văn bản:

– Tự sự – Miêu tả

– Biểu cảm – Thuyết minh

– Nghị luận – Điều hành

Mỗi kiểu văn bản đó sử dụng một phương thức biểu đạt chủ yếu. Chúng không thể thay thế được cho nhau và mỗi kiểu văn bản đó có một mục đích biểu đạt; có những yêu cầu về nội dung và phương pháp thể hiện và ngôn ngữ riêng. Tuy nhiên sáu kiểu văn bản đó có mối quan hệ rât chặt chẽ với nhau và ít có một kiểu văn bản nào chỉ dùng một phương thức biểu đạt duy nhất.

3. Các phương thức biểu đạt thường kết hợp với nhau trong một văn bản cụ thể để làm sáng tỏ đặc điểm của đôi tượng được nói tới trong mỗi loại văn bản.

Đoạn văn sau đây có sự phối hợp các phương thức tự sự, nghị luận và biểu cảm:

“Luôn mấy hôm, tôi thấy lão Hạc chỉ ăn khoai. Rồi khoai cũng hết. Bắt đầu từ đấy, lão chế tạo được món gì, ăn món ấy. Hôm thì lão ăn củ chuối, hôm thì lão ăn sung luộc, hôm thì ăn rau má, với thỉnh thoảng một vài củ ráy hay bữa trai, bữa ốc. Tôi nói chuyện lão với vợ tôi. Thị gạt phắt đi:

– Cho lão chết! Ai bảo lão có tiền mà chịu khổ. Lảo làm lão khổ chứ ai làm lão khổ! Nhà mình có sung sướng gì mà giúp lão? Chính con mình cũng đói…

Chao ôi! Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố tìm mà hiểu họ, thì ta chỉ thây họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi.. toàn những cớ để cho ta tàn nhẫn; không bao giờ ta thấy họ là những người đáng thương; không bao giờ ta thương. Vợ tôi không ác, nhưng thì khổ quá rồi. Một người đau chân có lúc nào quên được cái chân đau của mình đế nghĩ đến một cái gì khác đâu. Khi người ta khổ quá thì người ta chẳng còn nghĩ đến ai được nữa. Cái bản tính tốt của người ta bị những nỗi lo lắng, buồn đau, ích kỉ che lấp mất. Tôi biết vậy nên tôi chỉ buồn chứ không giận. Tôi giấu giếm vợ tôi, thỉnh thoảng giúp ngầm lão Hạc. Nhưng hình như lão cũng biết vợ tôi không ưng giúp lão. Lão từ chối tất cả những cái gì tôi cho lão. Lão từ chối một cách gần như là hách dịch. Và lão cứ xa tôi dần dần…

Lão không hiểu tôi, tôi nghĩ vậy, và tôi càng buồn lắm. Những người nghèo nhiều tự ái vẫn thường như thế. Họ dễ tủi thân nên rất hay chạnh lòng. Ta khó mà ở cho vừa ý họ… Một hôm, tôi phàn nàn việc ấy với Binh Tư. Binh Tư là một người láng giềng khác của tôi. Hắn làm nghề ăn trộm nên vốn không ưa lão Hạc bởi vì lão lương thiện quá. Hắn bĩu môi và bảo:

– Lão làm bộ đây! Thật ra thì lão chỉ tâm ngẩm thế, nhưng cũng ra phết chứ chả vừa đâu: lão vừa xin tôi một ít bả chó…

Tôi trố to đôi mắt, ngạc nhiên. Hắn thì thầm:

– Lão bảo có con chó nhà nào cứ đến vườn nhà lão… Lão định cho nó xơi một bữa. Nếu trúng, lão với tôi uống rượu.

Hỡi ơi lão Hạc! Thì ra đến lúc cùng lão cũng có thể làm liều như ai hết… Một con người như thế ấy!… Một người đã khóc vì trót lừa một con chó!… Một người nhịn ăn để tiền lại làm ma, bởi không muốn liên lụy đến hàng xóm, láng giềng… Con người đáng kính ấy bây giờ cũng theo gót Binh Tư để có ăn ư? Cuộc đời quả thật cứ mỗi ngày một thêm đáng buồn…”

(Nam Cao, Lão Hạc)

4.

a) – Tự sự sử dụng phương thức biểu đạt là thông qua các sự kiện, biến cố và hành vi của con người làm cho tác phẩm trở thành một câu chuyện có ý nghĩa thông qua lời người kể chuyện.

– Trữ tình sử dụng phương thức biểu đạt là cảm xúc trữ tình và phương thức biểu cảm của ngôn ngữ.

– Kịch sử dụng phương thức biểu đạt là ngôn ngữ trực tiêp (đối thoại, độc thoại) và hành động của nhân vật mà không qua lời người kể chuyện.

b) Tác phẩm văn học như thơ, truyện, kịch đôi khi cũng có sử dụng các yếu tố nghị luận, chẳng hạn như bốn câu thư của Tố Hữu:

Nếu là con chim, chiếc lá

Thì con chim phải hót, chiếc lá phải xanh

Lẽ nào vay mà không có trả

Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình?

Yếu tố nghị luận làm cho thơ thêm phần sâu sắc, giàu tính triết lí, gợi cho người đọc suy tư…

5. Kiểu văn bản tự sự và thể loại văn học tự sự khác nhau ở chỗ: Kiểu văn bản tự sự không chỉ dùng cho văn bản nghệ thuật mà còn dùng trong rất nhiều tình huống và các loại văn bản khác, ví dụ như trong văn học báo chí, đơn từ, bản tin lịch sử… còn thể loại tự sự là thể loại nhằm phân biệt với thể loại trữ tình và kịch theo Tự điên thuật ngữ văn học tác phâm tự sự là loại tác phẩm nhằm phản ánh cuộc sống “thông qua các sự kiện, biến cố và hành vi của con người làm cho tác phẩm trở thành một câu chuyện vể ai đó, về cái gì đó”. (NXB Giáo dục, Hà Nội 2004)

6. Kiểu văn bản biểu cảm và thể loại văn học trữ tình khác nhau ở chỗ: kiểu văn bản biểu cảm không chỉ dùng cho văn bản nghệ thuật mà còn dùng trong rất nhiều tình huống và các loại văn bản khác: điện mừng, thăm hỏi, chia buồn, văn tế, điếu văn, thư từ…

Còn thể loại trữ tình là thể loại văn học nhằm phân biệt với các thể loại tự sự và kịch. Thể loại văn học trữ tình thông qua các hình tượng nghệ thuật trữ tình mà bày tỏ cảm xúc cúa con người.

7. Tác phẩm nghị luận vẫn cần các yếu tố thuyết minh, miêu tả, tự sự với mục đích làm cho bài nghị luận thêm cụ thể và sinh động, không chỉ tác động đến lí trí người đọc mà còn lay động cả tình cảm người đọc.

Có điều các yếu tố thêm vào đó là phụ, không được lấn át phương thức nghị luận làm mất đi yêu cầu và nội dung bàn luận. Phương thức nghị luận luôn là phương thức chủ yếu trong bài văn nghị luận.

II. PHẦN TẬP LÀM VĂN TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN THCS 1. Phần Văn và Tập làm văn có mỗi quan hệ với nhau như thế nào? Hãy nêu ví dụ cho thấy mối quan hệ đó trong chưng trình đã học. 2. Phần Tiếng Việt có quan hệ như thế nào với phần Văn và Tập làm văn? Nêu ví dụ chứng minh. 3. Các phương thức biểu đạt: miêu tả, tự sự, nghị luận, biểu cảm, thuyết minh có ý nghĩa như thế nào đối với việc rèn luyện kĩ năng làm văn? Trả lời: 1. Mối quan hệ giữa phần Văn và Tập làm văn

– Văn bản là mẫu để học sinh mô phỏng, để học sinh học phương pháp kết cấu, cách thức diễn đạt. Văn bản cũng gợi ý cho học sinh sáng tạo khi làm văn.

Do đó đọc nhiều để học tập cách viết tốt.

– Đọc văn bản tự sự, miêu tả giúp học sinh làm văn kể chuyện và văn miêu tả dễ dàng hơn và có kết quả hơn nhiều.

– Đọc văn bản nghị luận, thuyết minh giúp cách tư duy, trình bày một tư tưởng, một vấn đề của học sinh thuận lợi hơn, tốt đẹp hơn.

2. Quan hệ giữa Tiếng Việt với phần Văn và Tập làm văn

Tiếng Việt góp phần vào việc học tốt Đọc hiểu văn bản và Tập làm văn Vì Tiếng Việt do học sinh nắm được các quy tắc dùng từ, đặt câu, hội thoại… Cũng từ đó giúp các em có cơ sở thấy được cái hay cái đẹp của cách diễn đạt trong các bài văn phần đọc hiểu văn bản. Cũng nhờ nắm được quy tắc dùng từ, đặt câu, các hình thức hội thoại nên các em tập làm văn hiệu quả hơn.

3. Các thao tác miêu tả, tự sự, nghị luận, biểu cảm, thuyết minh có ý nghĩa rất quan trọng nhằm chuẩn bị cho việc làm các bài văn vì các em phải dùng các thao tác ấy để tạo lập văn bản nghĩa là làm một bài văn.

III. CÁC KIỂU VĂN BẢN TRỌNG TÂM 1. Văn bản thuyết minh a) Văn bản thuyết minh có đích biểu đạt là gì? b) Muốn làm được văn bản thuyết minh, trước hết cần chuẩn bị những gì? c) Hãy cho biết phương pháp dùng trong văn bản thuyết minh. d) Ngôn ngữ của văn bản thuyết minh có đặc điểm gì? Trả lời:

a) Văn bản thuyết minh có mục đích biểu đạt là trình bày đúng khách quan các đặc điểm tiêu biểu của đối tượng.

b) Muốn làm được văn bản thuyết minh trước hết phải cần chuẩn bị quan sát tìm hiểu kĩ lưỡng, chính xác đối tượng, tìm cách trình bày theo thứ tự thích hợp sao cho người đọc dễ hiểu.

c) Các phương pháp thường dùng trong văn bản thuyết minh là: nêu định nghĩa, giải thích, liệt kê, nêu ví dụ, dùng số liệu, so sánh, phân tích, phân loại…

d) Ngôn ngữ của văn bản thuyết minh phải chính xác, cô đọng, chặt chẽ và sinh động.

2. Văn bản tự sự a) Văn bản tự sự có đích biểu đạt là gì? b) Nêu các yếu tố tạo thành văn bản tự sự. c) Vì sao một văn bản tự sự thường kết hợp với các yếu tố miêu tả, nghị luận, biểu cảm? Hãy cho biết tác dụng của các yếu tố đó đối với văn bản tự sự. d) Ngôn ngữ trong văn bản tự sự có đặc điểm gì? Trả lời:

a) Văn bản tự sự có mục đích biểu đạt là kể một câu chuyện theo một trình tự nào đó.

b) Các yếu tố tạo thành văn bản tự sự là sự việc, nhân vật, tình huống, hành động, lời kể, kết cục.

c) Văn bản tự sự thường sử dụng kết hợp các yếu tố miêu tả, nghị luận và biểu cảm nhằm mục đích làm cho câu chuyện sinh động và hấp dẫn hơn.

Khi kể chuyện, người kể nhằm trả lời làm rõ câu hỏi câu chuyện ấy, nhân vật ấy, hành động ấy ra sao… thì cần phải biết miêu tả.

Khi kể chuyện, muôn câu chuyện thêm phần sâu sắc, giàu tính triết lí gợi cho người nghe, người đọc suy tư, người kể phải dùng thêm yếu tố nghị luận.

Khi kể chuyện, người kể cần thể hiện thái độ và tình cảm của mình đối với sự việc, nhân vật nên phải biết dùng thêm các yếu tố biểu cảm.

d) Ngôn ngữ trong văn bản tự sự thường sử dụng nhiều từ chỉ hành động, từ giới thiệu, từ chỉ thời gian, không gian và tính từ để người đọc hình dung được đối tượng nhân vật, sự việc một cách sinh động.

3. Văn bản nghị luận a) Văn bản nghị luận có đích biểu đạt là gì? b) Văn bản nghị luận do các yếu tố nào tạo thành? c) Nêu yêu cầu đối với luận điểm, luận cứ và lập luận. d) Nêu dàn bài chung của bài nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống hoặc một vấn đề tư tưởng, đạo lí. e) Nêu dàn bài chung của bài nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) hoặc về một bài thơ, đoạn thơ. Trả lời:

a) Mục đích biểu đạt của văn nghị luận là nhằm xác lập cho người đọc, người nghe một tư tưông, quan điểm nào đó nhằm thuyết phục họ tin theo cái đúng, cái tốt, từ bỏ cái sai, cái xấu.

b) Văn bản nghị luận do các yếu tố: luận điểm, luận cứ và lập luận tạo thành.

c) Các luận điểm, luận cứ phải rõ ràng, có lí lẽ, dẩn chứng thuyết phục, lập luận cần chặt chẽ.

d) Dàn bài chung của bài nghị luận về một sự việc, hiện tượng trong đời sống hoặc một vân đề tư tưởng đạo lí.

+ Mở bài: giới thiệu tư tưởng, đạo lí cần bàn luận

+ Thân bài: giải thích chứng minh tư tưởng, đạo lí đang được bàn đến.

Đánh giá, nhận xét tư tưởng, đạo lí đó trong bối cảnh cuộc sống riêng, chung.

+ Kết bài: tổng kết, nêu nhận thức mới, đưa ra lời khuyên.

e) Dàn bài chung của bài nghị luận tác phẩm văn học

+ Mở bài: giới thiệu nhân vật được phân tích và nêu ý kiến đánh giá.

+ Thân bài: phân tích chứng minh các luận điểm về nhân vật bằng những luận cứ cụ thể, chính xác và sinh động trong tác phẩm.

+ Kết bài: khái quát, khẳng định các luận điểm, rút ra bài học, ý nghĩa từ nhân vật được nghị luận.

Bạn đang đọc nội dung bài viết Soạn Bài: Bàn Về Đọc Sách – Ngữ Văn 9 Tập 2 trên website Athena4me.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!