Cập nhật nội dung chi tiết về Sắc Phong: Độc Bản Lưu Giữ Giá Trị Việt mới nhất trên website Athena4me.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Theo nghiên cứu của Viện Viễn Đông Bác Cổ, tại 90 huyện ở Đồng Bằng Bắc Bộ, các triều Vua Việt Nam đã ban hành khoảng 40.000 sắc phong. Phần lớn trong số đó đang bị hư hỏng do tác động của thời gian và những biến cố lịch sử.
Phần lớn những nơi lưu giữ sắc phong đều chung thực trạng “3 không”
Sắc phong là văn bản cao quý do Vua ban hành để tặng thưởng cho bách thần và các quan viên có công lao với vương triều, đất nước, cũng chính là sự ghi công của vương triều đối với nhân vật để không chỉ con cháu họ tộc được tự hào mà quê hương, làng xã cũng thơm danh.
Bên cạnh ý nghĩa lịch sử, sắc phong còn thể hiện giá trị thẩm mỹ độc đáo. Nhìn vào sắc phong, người ta có thể biết được xuất xứ triều đại nào, niên đại bao nhiêu, những nét văn hóa lịch sử đặc trưng của thời kỳ ấy ra sao. Bên cạnh đó, sắc phong còn là nguồn tư liệu chuẩn xác để nghiên cứu sự thay đổi địa danh (tên gọi các địa phương) và đơn vị hành chính.
Một sắc phong cổ bị biến dạng gần như hoàn toàn
Đã nhiều năm gắn bó với công tác tu bổ phục chế sắc phong, ông Trần Đăng Phương, Trưởng phòng Bảo quản Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I, Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước không thể nhớ hết đã từng “làm việc” với bao nhiêu đạo sắc phong. Những sắc phong qua bàn tay ông có thể khác nhau về niên đại, hình thức, giá trị thẩm mỹ… nhưng đều có một điểm chung là phần lớn đều hoặc bị nhuốm màu thời gian hoặc bị hư hỏng: rách, mủn, mục, bết dính, ố vàng… Nguyên nhân phần lớn là do ảnh hưởng của chiến tranh, thiên tai, điều kiện bảo quản không tốt và sử dụng không đúng cách.
Lần gần đây nhất, ngày 17.2, ông Trần Đăng Phương đã trực tiếp đến và tu bổ phục chế sắc phong ngay tại đình Phú Vĩnh, một ngôi đình cổ nằm ở xã Bằng Giã, huyện Hạ Hòa, tỉnh Phú Thọ, nơi đặc trưng với kiến trúc nghệ thuật triều Nguyễn và hiện còn lưu giữ 3/7 đạo sắc phong (01 sắc phong triều vua Tự Đức; 01 sắc phòng triều vua Đồng Khánh; 01 sắc phong triều vua Khải Định)
Sắc phong triều vua Đồng Khánh ở đình Phú Vĩnh sau khi được tu bổ phục chế
Vì vấn đề tín ngưỡng nói chung, quan niệm của con người nói riêng nhiều địa phương không muốn đưa các sắc phong bị hư hỏng ra khỏi nơi thờ tự, ông Phương phải thực hiện việc phục chế sắc phong ngay tại đình. Đây là một thách thức không nhỏ bởi cơ sở vật chất tại đình không thể bằng ở xưởng phục chế nơi có đầy đủ phương tiện, công cụ phục vụ quá trình phục chế: máy hút ẩm, điều hòa nhiệt độ…
Trước yêu cầu phải phục chế tại đình, ông Trần Đăng Phương đã phải tiến hành tiếp cận, đánh giá thẩm định mức độ hư hại và lựa chọn giải pháp tu bổ, phục chế phù hợp với từng đạo sắc phong, để rồi khi bắt tay vào việc cố gắng hoàn thành công việc trong một ngày. Lẽ ra theo nguyên tắc phải mất từ năm đến bảy ngày tại xưởng thì mới có thể hoàn tất công việc, đây là phương án tối ưu nhất trong trường hợp phải tiến hành phục chế ngay tại hiện trường.
Sau này khi quá trình phục chế hoàn tất, ông Phương ví von đó là một “ca cấp cứu” tại bệnh viện dã chiến, “như thế đã là tốt rồi, còn hơn là không làm, cuối cùng thì “bệnh nhân” của tôi đã hồi phục”.
Sắc phong triều vua Khải Định ở đình Phú Vĩnh sau khi được tu bổ phục chế
Có thể không nhớ được chính xác đã từng “hồi sinh” bao nhiêu đạo sắc phong, nhưng ông vẫn không thể quên được thực trạng lưu trữ và bảo quản sắc phong tại các đình, chùa hiện nay. “Phần lớn những nơi lưu trữ và bảo quản các đạo sắc phong có 3 điểm chung: không hiểu gì về nội dung (hoặc không đầy đủ), không biết bảo quản như thế nào và không biết sử dụng ra sao cho đúng cách” – ông Phương cho biết.
Bảo tồn, phục chế sắc phong không chỉ trông chờ vào chữ “duyên”
Nói về cơ duyên tiếp cận để có thể phục chế các đạo sắc phong cổ bị hư hại, ông Trần Đăng Phương nhấn mạnh rằng nhờ “duyên”. Nhờ duyên nên một chuyên gia phục chế văn bản cổ như ông mới có thể tiếp cận những sắc phong mang tính độc bản vốn đang bị hư hại và có nguy cơ biến mất. Và cũng nhờ duyên nên các văn bản cổ đó mới đến được với bàn tay của người chuyên gia để rồi được “hồi sinh”.
Thế nhưng, bất cứ ai cũng có thể hiểu rằng, phục chế sắc phong – một công việc quan trọng như thế nhất thiết không được, và không thể được làm chỉ dựa vào chữ “duyên”.
“Nhất định phải xóa bỏ thực trạng “3 không” tại các nơi lưu trữ sắc phong hiện nay”, ông Trần Đăng Phương nhấn mạnh “Không phải từ bây giờ, mà ngay từ năm 2014, Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước đã giao cho Trung tâm Lưu trữ Quốc gia cử những đoàn cán bộ đến tìm hiểu thực trạng và tiến hành tu bổ sắc phong tại các cơ sở thờ tự trên một số tỉnh, thành phố, đồng thời tuyên truyền, hướng dẫn cho người dân phương pháp bảo quản các tài liệu cổ quý giá này.
Chuyên gia Nhật Bản hỗ trợ các cán bộ của Trung tâm Lưu trữ Quốc gia phục chế sắc phong cổ
Đặc biệt, trong năm 2017, Trung tâm Lưu trữ quốc gia I đã phối hợp với Chi cục văn thư Lưu trữ, Hội Khoa học Lịch sử tỉnh Đồng Tháp tổ chức lớp tập huấn về bảo quản tài liệu Hán Nôm cho các gia đình, dòng họ, cơ sở thờ tự trên địa bản của tỉnh. Lớp tập huấn góp phần tuyên truyền sâu rộng về nghiệp vụ, kinh nghiệm trong quản lý, bảo quản, sử dụng sắc phong.
Trong chuyến công tác đó, kỉ niệm mà ông Phương nhớ nhất là ánh mắt của một cụ bà đã hơn 70 tuổi ở đền thờ Tuyên Trung Hầu sau khi nhìn thấy đạo sắc phong cho gia tộc của bà xưa kia được tu bổ phục chế, đã thốt lên rằng: “nếu có chết bây giờ thì tôi cũng có thể mãn nguyện nhắm mắt bởi đã hoàn tất di nguyện của thân phụ trước khi qua đời là “bằng mọi giá phải cố gắng hồi sinh đạo sắc phong của gia tộc đang được lưu giữ tại bản đền”.
Ông Trần Đăng Phương trong quá trình phục chế sắc phong cổ ở đền thờ Tuyên Trung Hầu (Đồng Tháp)
Trải qua sự bào mòn của thời gian và những biến cố, thăng trầm của lịch sử, sắc phong vẫn vẹn nguyên giá trị và ý nghĩa, là sự ghi nhận của lịch sử đối với công trạng của các bậc tiền nhân, để thế hệ sau này thêm hiểu về lịch sử, qua đó hun đúc niềm tự hào dân tộc. Vấn đề cốt yếu là làm sao gìn giữ và bảo tồn các văn bản ấy. Để làm được điều này, cần lắm sự đồng lòng, mối liên kết giữa người dân, nhà khoa học và các cơ quan chuyên môn… để các tài liệu cổ mang tính độc bản đó mãi được lưu truyền cho muôn đời sau.
Anh Vũ/ Vietnam Journey
Sự Hoạt Động Của Quy Luật Giá Trị Và Quy Luật Giá Trị Thặng Dư Trong Giai Đoạn Chủ Nghĩa Tư Bản Độc Quyền
a) Quan hệ giữa độc quyền và cạnh tranh trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền
Độc quyền sinh ra từ cạnh tranh tự do, độc quyền đối lập với cạnh tranh tự do. Nhưng sự xuất hiện của độc quyền không thủ tiêu được cạnh tranh, trái lại nó còn làm cho cạnh tranh trở nên đa dạng, gay gắt và có sức phá hoại to lớn hơn.
Trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền, không chỉ tồn tại sự cạnh tranh giữa những người sản xuất nhỏ, giữa những nhà tư bản vừa và nhỏ như trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản cạnh tranh tự do, mà còn có thêm các loại cạnh tranh sau:
Một là, cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền với các xí nghiệp ngoài độc quyền. Các tổ chức độc quyền tìm mọi cách chèn ép, chi phối, thôn tính các xí nghiệp ngoài độc quyền bằng nhiều biện pháp như: độc chiếm nguồn nguyên liệu, nguồn nhân công, phương tiện vận tải, tín dụng, hạ giá có hệ thống,… để đánh bại đối thủ.
Ba là, cạnh tranh trong nội bộ các tổ chức độc quyền. Những nhà tư bản tham gai cácten, xanhđica cạnh tranh với nhau để giành thị trường tiêu thụ có lợi hoặc giành tỷ lệ sản xuất cao hơn. Các thành viên của tơrớt và côngxoócxiom cạnh tranh với nhau để chiếm cổ phiếu khống chế, từ đó chiếm địa vị lãnh đạo và phân chia lợi nhuận có lợi hơn.
b) Biểu hiện hoạt động của quy luật giá trị và quy luật giá trị thặng dư trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền
Các tổ chức độc quyền hình thành do chính sự vận động nội tại của chủ nghĩa tư bản sinh ra. Độc quyền là biểu hiện mới, mang những quan hệ mới nhưng nó không vượt ra khỏi các quy luật của chủ nghĩa tư bản, mà chỉ là sự tiếp tục mở rộng, phát triển những xu thế sâu sắc nhất của chủ nghĩa tư bản và của nền sản xuất hàng hóa nói chung làm cho các quy luật kinh tế của nền sản xuất hàng hóa và của chủ nghĩa tư bản có những biểu hiện mới.
– Do chiếm được vị trí độc quyền nên các tổ chức độc quyền đã áp đặt giá cả độc quyền; giá cả độc quyền thấp khi mua, giá cả độc quyền cao khi bán. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền quy luật giá trị không còn hoạt động, về thực chất, giá cá độc quyền vẫn không thoát ly và không phủ định cơ sở của nó là giá trị. Các tổ chức độc quyền thi hành chính sách giá cả độc quyền chẳng qua là chiếm đoạt một phần giá trị và giá trị thặng dư của những người khác. Nếu xem xét trong toàn bộ hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa thì tổng số giá cả vẫn bằng tổng số giá trị. Như vậy, nếu như trong giai doạn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, quy luật giá trị biểu liện thành quy luật giá cả sản xuất, thì trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền quy luật giá trị biêu hiện thành quy luật giá cả độc quyền.
– Trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản cạnh tranh tự do, quy luật giá trị thặng dư biểu hiện thành quy luật tỷ suất lợi nhuận bình quân. Bước sang giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền, các tổ chức độc quyền thao túng nền kinh tế bằng giá cả độc quyền và thu được lợi nhuận độc quyền cao. Do đó, quy luật lợi nhuận độc quyền cao là hình thức biểu hiện của quy luật giá tri thặng dư trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền.
Nguồn gốc của lợi nhuận độc quyền cao là lao động không công của công nhân ở các xí nghiệp độc quyền; một phần lao động không công của nhân công ở các xí nghiệp không độc quyền; một phần giá trị thặng dư của các nhà tư bản vừa và nhỏ bị mất đi do thua thiệt trong cuộc cạnh tranh; lao động thặng dư và đôi khi có một phần lao động tất yếu của những người sản xuất nhỏ, nhân dân lao động ở các nước tư bản và các nước thuộc địa, phụ thuộc.
Như vậy, trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền quy luật giá trị thặng dư biểu hiện thành quy luật lợi nhuận độc quyền cao. Quy luật này phản ánh quan hệ thống trị và bóc lột của tư bản độc quyền trong tất cả các ngành kinh tế của xã hội tư bản và trên toàn thế giới.
chúng tôi
Nêu Giá Trị Nội Dung Và Đặc Sắc Nghệ Thuật Của Văn Bản Cổng Trường Mở Ra
Cổng trường mở ra là tác phẩm mang giá trị và nội dung nghệ thuật đặc sắc của nhà văn Lí Lan. Vận dụng những hiểu biết của mình, em hãy phân tích giá trị nội dung và đặc sắc nghệ thuật của văn bản “Cổng trường mở ra”.
I. Dàn ý chi tiết cho đề phân tích giá trị nội dung và nghệ thuật của văn bản Cổng trường mở ra
1. Mở bài cho đề phân tích giá trị nội dung và nghệ thuật của Cổng trường mở ra
Giới thiệu đôi nét về tác giả, tác phẩm. Nêu được những giá trị nội dung và nghệ thuật cơ bản theo yêu cầu của đề bài.
2. Thân bài cho đề phân tích giá trị nội dung và nghệ thuật của Cổng trường mở ra
+ Giá trị nội dung: văn bản là tiếng nói nội tâm của người mẹ:
Mẹ trằn trọc không ngủ được vì lo cho buổi tới trường ngày mai của con.
Mẹ nhớ về những ký ức của mình ngày thơ ấu.
Từ những ký ức, những trăn trở ấy mà mẹ nhận ra vai trò của nhà trường đối với thế hệ trẻ và xã hội.
+ Đặc sắc nghệ thuật:
Kết hợp hài hòa giữa tự sự, miêu tả và biểu cảm, làm nổi bật vẻ đẹp trong sáng đôn hậu trong tâm hồn người mẹ.
Miêu tả diễu biến tâm trạng nhân vật với nhiều hình thức khác nhau: miêu tả trực tiếp, miêu tả qua so sánh, miêu tả hồi ức, sử dụng ngôn ngữ độc thoại bộc lộ chất trữ tình.
3. Kết bài cho đề phân tích giá trị nội dung và nghệ thuật của Cổng trường mở ra
+ Cảm nhận của bản thân về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.
II. Bài tham khảo cho đề phân tích giá trị nội dung và nghệ thuật của Cổng trường mở ra
Ai trong đời mình cũng đã từng một lần trải qua cảm giác của ngày đầu tiên đến trường trong tiết trời cuối thu với vòng tay của mẹ. Câu bé trong tác phẩm “Cổng trường mở ra” cũng vậy, cậu cũng đã cùng mẹ trải qua ngày đầu tiên đến trường trong không khí rạo rực ấy. Nếu những cậu học trò rạo rực một thì cha mẹ còn lo lắng hơn gấp nhiều lần. Tất cả những tâm trạng, những cảm xúc ấy đều được thể hiện rõ nét trong “Cổng trường mở ra” với những giá trị nội dung sâu sắc và những biện pháp nghệ thuật được Lý Lan sử dụng một cách khéo léo.
Thể hiện không khí chuẩn bị cho ngày đầu tiên đến trường qua những dòng nhật ký, “Cổng trường mở ra” đang mang đến cho người đọc rât nhiều cảm xúc với những giá trị nội dung mang ý nghĩa sâu sắc.
Chính vì mẹ được rảnh rỗi nên những tâm trạng ngồn ngang xuất hiện trong lòng mẹ lúc này. Mẹ thêm lo lắng cho một ngày khởi đầu của con, mẹ lo con sẽ không quen với môi trường mới. Mẹ lo lắng con không theo kịp các bạn. Rồi mẹ nhớ lại những cảm xúc trong ngày đầu tiên đến trường của mẹ những năm về trước. Những ký ức sâu đậm mà mỗi người chỉ được trải qua một lần trong đời. Mẹ suy nghĩ làm sao để con có được những cảm xúc về ngày đầu đi học một cách ý nghĩa nhất. Mẹ nghĩ mình sẽ nói gì với con, sẽ răn dạy con điều gì trong ngày đầu tiên đến với môi trường mới ấy. Mẹ không ngủ được, mẹ trằn trọc vì lo lắng cho con, vì bồi hồi với những ký ức chợt ùa về. Đó là tình cảm, là lòng yêu thương dịu dàng ấm áp của người mẹ.
Từ những suy nghĩ trăn trở ấy, mẹ nhận ra được rằng, nhà trường có vai trò vô cùng quan trọng đối với thế hệ trẻ, người quyết định tương lai của đất nước sau này. Từ những câu chuyện về nền giáo dục của nước bạn những suy nghĩ của mẹ càng sâu sắc hơn.
Để đến cuối cùng mẹ chỉ mong muốn nói với con một điều duy nhất trước ngày đến trường ấy: “Đi đi con, hãy can đảm lên, thế giới này là của con, bước vào cánh cổng trường kia là thế giới kỳ diệu sẽ mở ra”.
Để thể hiện được những nội dung ý nghĩa đó tác giả đã sử dụng những thủ pháp nghệ thuật một cách khéo léo và đặc sắc. Tác phẩm là sự kết hợp hài hòa giữa tự sự, miêu tả và biểu cảm, làm nổi bật lên vẻ đẹp trong sáng và lòng đôn hậu của người mẹ. Xuất thân của “Cổng trường mở ra” là những dòng nhật ký nên chất tự sự được thể hiện rõ nét nhất. Đó là những lời kể lể, là sự trải lòng của một người mẹ hiền dịu lo lắng cho con. Hơn thế nữa những dòng nhật ký còn kết hợp miêu tả và biểu cảm để nêu bật được những giá trị của nội dung. Không gian, khung cảnh trong ngày đầu đến trường, những tâm trạng của biết bao cậu học sinh, biết bao người cha người mẹ dường như đã được thể hiện hết trên những dòng chữ đầy yêu thương. Qua đó, làm nổi bật được những tình cảm đôn hậu, dịu dàng của người mẹ trong truyện cũng như của rất nhiều người cha người mẹ khác.
Ngoài ra tác phẩm còn sử dụng biện pháp miêu tả diễu biến tâm trạng nhân vật với nhiều hình thức khác nhau: miêu tả trực tiếp, miêu tả qua so sánh, miêu tả hồi ức, sử dụng ngôn ngữ độc thoại bộc lộ chất trữ tình. Tâm trạng của các nhân vật được tả giả miêu tả một cách đa chiều. Từ trực tiếp qua những hành động, qua nét mặt cho đến việc miêu tả qua sự so sánh. Mẹ so sánh ngày đầu đến trường của mẹ với những lo lắng về ngày đầu tiên của con. Mẹ so sánh nền giáo dục nước nhà với những nền giáo dục của nước khác phát triển hơn để từ đó rút ra được những điều tốt và ý nghĩa cho con em của chính mình. Trong những trang nhật ký ấy là ngôn ngữ độc thoại của người mẹ, kể lể về những trăn trở của chính mình thấm đẫm những yêu thương.
Bằng việc trải lòng mình qua những trang nhật ký mà người mẹ trong “Cổng trường mở ra” đã đem đến cho độc giả những điều ý nghĩa và sâu sắc. Câu chuyện thể hiện được tình yêu thương của người mẹ dành cho con. Hơn thế nữa còn nêu lên được vai trò của nhà trường đối với lớp trẻ, đối với xã hội. Cùng với những thủ pháp nghệ thuật vô cùng đặc sắc những dòng nhật ký trải lòng ấy đã chạm vào lòng bạn đọc và để lại nhiều điều ý nghĩa.
Đã Ly Hôn Nhưng Không Còn Lưu Giữ Quyết Định/Bản Án
Khi cá nhân làm thủ tục chuyển quyển sở hữu/sử dụng nhà đất cần xác định nhà đất đó thuộc quyền sử dụng/sở hữu của ai, ai sẽ là người có quyền tiến hành các thủ tục đó. Đối với trường hợp của bạn, cơ quan có thẩm quyền sẽ xác định nhà đất đó là tài sản riêng của mẹ bạn, hay là tài sản chung của vợ chồng (nếu mẹ bạn có kết hôn với người khác). Để chứng minh nhà đất là tài sản riêng của mẹ bạn, mẹ bạn cần chứng minh:
(i) Nhà đất do mẹ bạn được tặng cho/thừa kế riêng (xuất trình văn bản tặng cho/thừa kế hoặc giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở có ghi thông tin này); hoặc
(ii) Từ khi ly hôn đến nay, mẹ bạn không đăng ký kết hôn với ai. Theo đó, mẹ bạn phải xuất trình Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân do cơ quan có thẩm quyền cấp.
Trình tự, thủ tục cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân thực hiện theo hướng dẫn tại Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch.
– Thẩm quyền cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân (Điều 66 Nghị định số 158/2005/NĐ-CP): Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi cư trú của người có yêu cầu xác nhận tình trạng hôn nhân thực hiện việc cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân cho người đó.
[Anchor] – Thủ tục cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân (Điều 67 Nghị định số 158/2005/NĐ-CP):
+ Người yêu cầu cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân phải nộp Tờ khai (theo mẫu quy định).
+ Trong trường hợp người yêu cầu cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân đã có vợ, có chồng, nhưng đã ly hôn hoặc người kia đã chết, thì phải xuất trình trích lục Bản án/Quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án về việc ly hôn hoặc bản sao Giấy chứng tử. Quy định này cũng được áp dụng đối với việc xác nhận tình trạng hôn nhân trong Tờ khai đăng ký kết hôn theo quy định tại khoản 1 Điều 18 của Nghị định này.
+ Sau khi nhận đủ giấy tờ hợp lệ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc viên chức Lãnh sự ký và cấp cho đương sự Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân (theo mẫu quy định).
+ Trường hợp cần phải xác minh, thì thời hạn xác minh là 5 ngày.
Bạn đang đọc nội dung bài viết Sắc Phong: Độc Bản Lưu Giữ Giá Trị Việt trên website Athena4me.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!