Cập nhật nội dung chi tiết về Quyền Im Lặng Theo Quy Định Của Pháp Luật Việt Nam mới nhất trên website Athena4me.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
– Xin hỏi luật sư, người bị tạm giam, tạm giữ có quyền giữ im lặng chờ luật sư của mình không, hay buộc phải khai nhận trong quá trình điều tra? Pháp luật Việt Nam có quy định về “quyền im lặng” không?
Pháp luật Việt Nam quy định ra sao về “Quyền im lặng”
“Quyền im lặng” hay còn có tên khác là “Quyền Miranda” được qui định trong luật tố tụng hình sự Hoa Kỳ, là quyền của những người bị buộc tội.
Ở Việt Nam, BLTTHS hiện hành (năm 2003) chưa đề cập quy định về quyền giữ im lặng và từ chối trả lời câu hỏi. Tuy nhiên, tại các Điều 72, 84, 131, có qui định:
Điều 72 (Lời khai của bị can, bị cáo): Lời nhận tội của bị can, bị cáo chỉ có thể được coi là chứng cứ nếu phù hợp với các chứng cứ khác của vụ án. Không được dùng lời nhận tội của bị can, bị cáo làm chứng cứ duy nhất để kết tội.
Điều 84 (Biên bản về việc bắt người): Người bị bắt, người thi hành lệnh bắt, và người chứng kiến phải cùng ký tên vào biên bản, nếu ai có ý kiến khác hoặc không đồng ý với nội dung biên bản thì có quyền ghi vào biên bản và ký tên.
Điều 131 (Hỏi cung bị can): Trước khi hỏi cung, Điều tra viên phải đọc quyết định khởi tố bị can và giải thích cho bị can biết rõ quyền và nghĩa vụ theo qui định tại điều 49 của Bộ luật này. Việc này phải được ghi vào biên bản.Trong thực tiễn, ở một số trường hợp, người bị bắt, bị can, bị cáo, đã thực hiện quyền từ chối trả lời câu hỏi của Điều tra viên và được ghi vào biên bản.
Đối với Quyền có luật sư, tại các Điều 48, 49, 50 BLTTHS hiện hành quy định: “Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa”, như vậy quyền này đã được qui định cụ thể, rõ ràng.
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật” (khoản 1 Điều 13). “Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội” (Điều 15).
Ngoài ra, trong pháp luật TTHS cũng đã có những quy định gián tiếp thể hiện một số nội dung của quyền im lặng, ví dụ như quy định về việc người bào chữa có quyền có mặt khi hỏi cung bị can. BLTTHS năm 2015 cũng quy định tại phiên tòa, trong giai đoạn xét hỏi, nếu khi được hỏi, bị cáo không trả lời thì HĐXX chuyển sang hỏi người khác.
Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 quy định chi tiết cụ thể về quyền của bị can, bị cáo, người bị tạm giữ và người bị bắt khẩn cấp tại các điều 58 khoản 1 tiết e, điều 59 khoản 2 tiết c, điều 60 khoản 1 tiết d, điều 61 khoản 2 tiết h. Theo đó, các điều khoản này lần lượt ghi nhận: người bị bắt giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị tạm giữ, bị can và bị cáo đều có quyền trình bày ý kiến, trình bày lời khai, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội.
Như vậy, có thể hiểu người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự chủ về việc khai báo. Những gì bất lợi, họ có thể không buộc phải khai báo cũng như không buộc phải nhận mình có tội trước cơ quan tiến hành tố tụng hình sự.
Trong các điều khoản trên, tuy không trực tiếp ghi nhận quyền im lặng cho người bị bắt khẩn cấp, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, nhưng trong thực tế khi làm việc với các cơ quan tố tụng, họ có thể không trả lời một số câu hỏi mà họ cho là chống lại họ và họ cũng không buộc phải khai nhận mình có tội.
Đây có thể được coi là một nội dung của quyền im lặng, quy định này nhằm bảo đảm tính minh bạch của pháp luật, tạo sự nhận thức thống nhất trong quá trình lấy lời khai, hỏi cung. Tuy nhiên, theo Nghị quyết số: 144/2016/QH13 Lùi hiệu lực thi hành của Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13, Bộ luật tố tụng hình sự số 101/2015/QH13; Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự số 99/2015/QH13; Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam số 94/2015/QH13 từ ngày 1 tháng 7 năm 2016 đến ngày Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 có hiệu lực thi hành, trừ quy định tại điểm a và điểm b khoản 4 Điều này.
Tư vấn bởi Luật sư Phạm Thị Bích Hảo, Công ty luật TNHH Đức An, Thanh Xuân, Hà Nội.
Bạn đọc muốn gửi các câu hỏi thắc mắc về các vấn đề pháp luật, xin gửi về địa chỉ banbandoc@vietnamnet.vn (Xin ghi rõ địa chỉ, số điện thoại để chúng tôi tiện liên hệ)
Ban Bạn đọc
Quyền Im Lặng Trong Pháp Luật Việt Nam
Quyền im lặng là một trong những quyền cơ bản của công dân đã được nhiều nước trên thế giới ghi nhận trong hệ thống pháp luật. Ở Việt Nam cho đến nay quyền im lặng mặc dù chưa được ghi nhận chính thức trong các văn bản quy phạm pháp luật, nhưng đã được gián tiếp nhắc đến không những trong đạo luật có giá trị pháp lý cao nhất mà còn trong một số văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành. Trong lần sửa đổi, bổ sung Bộ luật TTHS lần này, quyền im lặng là một trong những vấn đề đang được đưa ra bàn luận và có nhiều ý kiến trái chiều xung quanh việc quyền im lặng có phải là quyền con người hay không cũng như việc nên hay không quy định quyền im lặng trong Bộ luật TTHS.
Quyền con người được xem là những quyền tự nhiên cơ bản của con người, nó không chỉ được ghi nhận trong các văn kiện quốc tế mà còn được các quốc gia ghi nhận trong những đạo luật có giá trị pháp lý cao nhất. Bên cạnh đó, quyền con người còn là cơ sở để các quốc gia thể chế hóa thành những quyền cơ bản của công dân nước mình. Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người năm 1948 đã khẳng định quyền con người là ” những bảo đảm pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được pháp và tự do cơ bản của con người”. Quyền con người được toàn thể các quốc gia công nhận và bảo vệ, mỗi quốc gia phải căn cứ vào các công ước ước quốc tế mình là thành viên để nội luật hóa vào các văn bản quy phạm pháp luật nước mình. Khoản 1 Điều 14 Hiến pháp 2013, của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã khẳng định: ” Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”. Hiện nay, quyền im lặng mặc dù chưa được chính thức ghi nhận trong Hiến pháp, cũng như các văn bản quy phạm pháp luật khác trong pháp luật Việt Nam, nên vẫn có nhiều ý kiến cho rằng quyền im lặng không phải là quyền con người, do vậy quyền này vẫn chưa được thực hiện trên thực tế. Đối chiếu với một số quy định của Hiến pháp ta có thể thấy quyền im lặng tuy chưa được quy định chính thức nhưng đã được gián tiếp nhắc đến thông qua một số quy định trong Hiến pháp như nguyên tắc suy đoán vô tội, hay quyền có người bào chữa. Cụ thể tại khoản 1 Điều 31 Hiến pháp 2013, đã khẳng định: ” Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”, trong khi đó tại Điều 10 Bộ luật TTHS 2003 đã quy định rõ trách nhiệm chứng minh thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội. Như vậy, có thể thấy rằng khi cơ quan tiến hành tố tụng bắt, giữ hay cáo buộc một người phạm tội thì phải có nghĩa vụ chứng minh cho cáo buộc của mình là đúng, người bị buộc tội không có nghĩa vụ phải chứng minh mình vô tội (tức là họ có quyền im lặng cho đến khi cơ quan tiến hành tố tụng chứng minh cáo buộc của họ là có cơ sở và đúng theo quy định pháp luật). Nếu cơ quan tiến hành tố tụng không chứng minh được họ có tội thông qua những biện pháp hợp pháp thì họ được xem là vô tội.
Công ty Luật Trung Nguyễn
Số 118, phố Yên Lãng, Đống Đa, Hà Nội
Quyền Im Lặng Là Gì? Quyền Im Lặng Được Hiểu Như Thế Nào Trong Pháp Luật
Quyền im lặng là gì?
Quyền im lặng chính là một trong những quyền của con người, nếu nhìn nhận từ dưới góc độ tư pháp hình sự thì đây là quyền cơ bản của mỗi công dân. Theo luật quốc tế, quyền im lặng được xem là một quyền cực kỳ quan trọng của bị cáo, bị can trong tố tụng hình sự, đây là yêu cầu đảm bạo sự công bằng trong một phiên tòa xét xử, đảm bảo luật nhân quyền quốc tế, được thông qua một tập hợp các đảm bảo tố tụng nhằm:
Bảo vệ các quyền tự do và an ninh cá nhân của con người, về tính mạng, thân thể, nhân dự, danh dự, nhân phẩm, và đảm bảo quá trình xét xử được công bằng. Quyền im lặng không được quy định cụ thể trong luật nhân quyền quốc tế, nhưng được coi là quyền và đây là quyền không bị buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội. Dưới góc độ luật nhân quyền quốc tế, trong một kết luận nhân quyền quốc tế, trong một kết luận của ủy ban nhân dân quyền quốc tế đã nêu rõ: (Bất kỳ ai bị bắt giữ về một cáo buộc hình sự cần được thông báo về quyền giữ im lặng trong quá trình thẩm vấn của cảnh sát. Ở cấp độ khu vực hay rõ hơn là Công ước châu Mỹ về quyền con người cũng khẳng định rằng bất kỳ người bị buộc tội nào đều không phải làm nhân chứng chống lại chính mình hoặc bất lợi cho mình. Ở Việt Nam, cách đây hơn 1 năm, chắc hẳn mọi người còn nhớ vụ việc xôn xao của hoa hậu Trương Hồ Phương Nga đã sử dụng “quyền im lặng”. Khi đó cô đã từ chối tất cả các câu hỏi mà cô cho là bất lợi về phía mình của đại diện Viện kiểm sát nhân dân TP HCM và Hội Đồng xét xử đặt ra trong quá trình xét xử trên tòa.
Nguồn gốc của quyền im lặng là ở đâu?
Quyền được im lặng là một chuẩn mực là một chuẩn mực đã được pháp luật của nhiều quốc gia thừa nhận, theo đó người bị cáo buộc có quyền từ chối đưa ra ý kiến hay trả lời của giới chấp pháp cả trước và trong quá trình xét xử. Cụm từ tiếng La- tinh “nemo tenetur prodere seipsum” đã xuất hiện từ thời La Mã, có nghĩa là không ai bị ràng buộc để phản bội chính mình. Vì vậy, trong khoa học pháp lí đã tồn tại quan điểm cho rằng quyền im lặng có nguồn gốc từ luật La Mã cổ đại, xuất phát từ nguyên tắc của người La Mã và được sử dụng trong lĩnh vực dân sự, thương mại khi ở đó người ta khẳng định “trách nhiệm chứng minh thuộc bên khẳng định chứ không phải bên phủ định. A khẳng định B nợ mình thì A phải chứng minh”. Ở thời kì đó, chế định này nhiều khi đã bị lợi dụng để sử dụng như là công cụ bảo vệ cho giai cấp thống trị hơn là quyền cho bất kì cá nhân nào bị buộc tội. Chế định này đảm bảo rằng chỉ khi có lí do hợp lí để nghi ngờ ai đó vi phạm pháp luật thì người đó mới có thể bị buộc trả lời những câu hỏi buộc tội. Tuy nhiên, chế định này gần như đã bị “tê liệt” trong các toà án suốt thời trung cổ, nó chỉ được phục hưng và tôn trọng kể từ các cuộc cách mạng tư sản ở châu Âu. Sự phục hồi của quyền này dẫn đến sự ra đời của nguyên tắc khác chi phối toàn bộ pháp luật hình sự của thế giới đó là quyền không tự tố giác.
Tuy nhiên, có quan điểm lại cho rằng ở nước anh là quốc gia đầu tiên đưa ra khái niệm về quyền được im lặng. Ở Anh xuất phát từ quan điểm lịch sử về sự cân bằng quyền lực giữa nhà nước và quyền công nhân. Ngay từ thế kỷ xa xưa XVI đã tồn tại nguyên tắc về quyền im lặng, giống như câu nói ” không ai bị ràng buộc để buộc tội mình, bất kỳ hình thức hoặc tòa án”. Lịch sử tố tụng Anh chứng kiến sự thay đổi từ thuyết học “người bị buộc tội trình bày” đến học thuyết ” kiểm tra sự buộc tội” trong việc xét xử hình sự thay thế học thuyết “người bị buộc tội trình bày”. Có thể thấy bị cáo có quyền được từ chối trả lời những buộc tội đến với mình. Những người bào chữa đã góp phần lớn trong việc cho ra đời ra đặc quyền chống lại sự tự buộc tội và quyền im lặng, cũng như tạo nên cuộc cách mạng về tố tụng mà kết quả của nó vẫn tồn tại trong hệ thống tư pháp ở Anh.
Dù không có căn cứ nào rõ ràng nhưng ngày nay, tại vương quốc xứ sở sương mù Anh quốc và các nước thuộc dòng họ pháp luật Anh, quyền im lặng vẫn được giữ gìn. Các quốc gia này đều có những điều luật quy định về quyền được im lặng của công dân trước các hình thức chất thức chất vấn của nhà nước, trước và trong quá trình xét xử. Ví dụ như Australia, mặc dù không được quy định trong Hiến pháp song chính quyền vẫn thừa nhận về quyền này trong các luật và bộ quy tắc cấp bang và liên bang. Quyền im lặng được coi là một trong những biện pháp vô cùng quan trọng nhất để bảo vệ người dân trước các hành động tùy tiện của nhà nước, quyền tính này có tính bảo vệ quyền con người trất cao.
Tuy nhiên, khi nói về quyền im lặng, người ta thường nhắc nhiều hơn đến Hoa Kỳ với câu nói “Anh có quyền im lặng” đây là câu nói bắt nguồn từ vụ Miranda kiện Arizona mà sau này trở thành nguyên tắc cơ bản về quyền im lặng trong luật tố tụng hình sự của Hoa Kỳ. Từ đó cụm từ “Miranda warning”được dùng như công cụ hữu hiệu nhất để bảo vệ quyền của nghi phạm hình sự nhằm tránh việc tự buộc tội chính mình do bị bức cung.
Theo tu chính án Hiến pháp lần thứ năm của Hoa Kỳ quy định rằng:”… và trong bất kỳ vụ án hình sự nào cũng không phải bị ép buộc làm nhân chứng chống lại chính mình, và không thể bị tước đoạt sinh mạng, tự do, hoặc tài sản, nếu không qua một quá trình xét xử theo đúng thủ tục quy định của pháp luật 8…”
Có nghĩa là một người bị tình nghi không thể bị bắt buộc theo bất cứ cách nào để thú tội hay thú tội do bị cưỡng ép. Toà án tối cao Hoa Kỳ coi câu trên trong Tu chính án năm là một trong những quyền căn bản của công dân và gọi nó là “quyền không tự buộc tội bản thân”. Việc sử dụng quyền này bao gồm cả quyền từ chối trả lời mọi câu hỏi, bởi vì mọi lời nói của một người đều có thể bị đem ra làm bằng chứng chống lại chính mình. Như vậy, có thể thấy rằng quyền im lặng là một trong những quyền con người căn bản và lâu đời nhất tại Hoa Kỳ. Theo cuốn từ điển pháp luật của Hoa Kỳ thì Tu chính án năm còn bắt công tố viên phải mang ra được các bằng chứng khác, ngoài lời khai của bị cáo để chứng minh bị cáo có tội. Theo Toà án tối cao, việc Miranda thú tội là kết quả của việc cảnh sát sử dụng phương pháp tra tấn trong suốt cuộc hỏi cung của họ. Vì vậy, sự kết án về Miranda đã bị thay đổi và toà án đã đưa ra một bộ hướng dẫn hành động cho cảnh sát trước khi hỏi cung người bị tình nghi tại đồn cảnh sát. Những quyết định trong những trường hợp sau đã cô đọng những quyền của những người bị tình nghi được trình bày trong lời cảnh báo Miranda. Theo Toà án tối cao Hoa Kỳ, trước khi thẩm vấn, cảnh sát phải thông báo cho nghi phạm hình sự như sau: “Anh có quyền giữ im lặng và từ chối trả lời câu hỏi. Bất cứ điều gì anh nói sẽ cũng được dùng để làm vũ khí chống lại anh trước toà. Anh có quyền có luật sư trước khi khai báo với cảnh sát và luật sư sẽ hiện diện khi cảnh sát thẩm vấn. Nếu anh không thể tìm được luật sư, anh sẽ được luật sư, anh sẽ được cung cấp một luật sư nhưng anh vẫn có quyền ngưng trả lời bất cứ lúc nào để chờ sự có mặt của luật sư”
Bản chất của quyền im lặng
Có rất nhiều quan điểm khác nhau về bản chất của quyền im lặng dưới góc độ tư pháp hình sự.
Quan điểm thứ nhất
Đây là quan điểm cho rằng quyền im lặng chỉ là một trong những vấn đề cụ thể của nguyên tắc suy đoán vô tội, tức là quyền im lặng là quyền phát sinh từ nguyên tắc suy đoán vô tội.
Quan điểm thứ hai
Khác với quan điểm thứ nhất, quan điểm này lại cho rằng g quyền im lặng là một trong những quyền để thực hiện quyền bào chữa, là bộ phận cấu thành của quyền bào chữa. Để bảo đảm quyền bào chữa phải có quyền im lặng10. Quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là tổng hợp các quyền mà pháp luật dành cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo để chống lại sự buộc tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
Chúng ta đã nghe rất nhiều về đối tượng lao động trong quá trình sản xuất kinh tế. Vậy đối tượng lao động là gì?, khái niệm này được định nghĩa theo Chủ nghĩa Mác – Lê nin như thế nào, bạn hãy tham khảo thông tin chi tiết tại chúng tôi
Như vậy, quyền bào chữa trước hết phải là những điều được pháp luật ghi nhận và bảo đảm thực hiện, có nghĩa là phải được ghi nhận về mặt pháp lí. Những gì không được pháp luật ghi nhận thì cũng không được coi là quyền bào chữa. Cùng với việc ghi nhận, pháp luật còn xác định cơ chế đảm bảo cho chủ thể (cụ thể là người bị tạm giữ, bị cáo, bị can) thực hiện quyền này. Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng cũng như các cơ quan, cá nhân khác không hạn chế, ngăn cản người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa. Quyền bào chữa gắn liền với chủ thể bị buộc tội (người bị tam giữ, bị can, bị cáo) được thể hiện thông qua quan hệ pháp luật hình sự giữa một bên là nhà nước và bên kia là người bị buộc tội. Nội dung của quyền bào chữa là người bị buộc tội sử dụng mọi lí lẽ, chứng cứ, tài liệu để chống lại toàn bộ hoặc một phần sự buộc tội của Nhà nước (cụ thể là cơ quan công tố) nhằm chứng minh sự vô tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự hoặc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Thật ra từ thời La Mã rất cổ đại về xưa, có nhiều người đã khẳng định trách nhiệm chứng minh là thuộc về bên tố cáo, chứ hoàn toàn không phải do bên phủ định. Những tư tưởng này chỉ được các quan tòa áp dụng trong tố tụng dân sự. Đây hoàn toàn có thể được coi là một cội nguồn của nguyên tắc vô tội suy đoán. Ở Anh, ngay từ thế kỷ XV, Hoàng gia Anh đã đề ra nguyên tắc “chưa bị tòa kết án thì vẫn coi là vô tội” và chế độ cho người bị bắt tại ngoại. Khi nói về suy đoán vô tội, học giả học giả Trezare Becaria trong cuốn “về tội phạm và hình phạt” năm 1764 đã viết: “Không ai có thể bị coi là kẻ có tội khi còn chưa có bản án kết tội và xã hội không thể tước của bị can sự bảo hộ của mình trước khi quyết định rằng anh ta đã vi phạm những điều kiện mà sự tuân thủ các điều kiện đó thì anh ta được đảm bảo sự bảo hộ”.
Tuy nhiên, chỉ đến khi Cách mạng tư sản Pháp năm 1789 nổ ra, tư tưởng này mới được ghi nhận như là nguyên tắc của pháp luật.
Hiện nay trong hệ thống khoa học pháp lý vẫn còn xuất hiện và tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về nội dung của vấn đề này.
1. Quan điểm thứ nhất:
Cho rằng nguyên tắc suy đoán vô tội chính là nguyên tắc không ai có thể bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của toà án đã có hiệu lực pháp luật.
2. Quan điểm thứ hai:
Quan điểm thứ hai cho rằng nguyên tắc suy đoán vô tội gồm những nội dung sau:
(1) Người bị tình nghi, bị can, bị cáo (người bị buộc tội) được coi là không có tội cho đến khi có bản án có hiệu lực pháp luật của toà án kết tội đối với người đó
(2) Nghĩa vụ chứng minh một người có tội thuộc về bên có trách nhiệm buộc tội. Người bị tình nghi, bị can, bị cáo có quyền chứng minh mình vô tội nhưng không có nghĩa vụ phải chứng minh sự vô tội của mình
(3) Khi có những nghi ngờ về pháp luật và chứng cứ xuất hiện thì những nghi ngờ này phải được hiểu và giải thích theo hướng có lợi cho người bị tình nghi và bị can, bị cáo.
Tóm lại hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về nội dung của nguyên tắc suy đoán vô tội.
Phạm vi áp dụng của quyền im lặng đến đâu?
Qua những nguồn nghiên cứu pháp luật tố tụng hình sự ở các nước các nước có chế định quyền im lặng đều cho thấy chế định này được áp dụng hầu hết trong các giai đoạn tố tụng. Theo đó, người bị bắt, bị tạm giam giữ, hay bị can, bị cáo không chỉ có thể im lặng trong suốt quá trình điều tra, cho đến khi giai đoạn xét xử, mà tại phiên toà đều có quyền giữ im lặng, không bị phụ thuộc việc có hay không có sự có mặt của luật sư, chứ không nhất thiết phải nói bất cứ điều gì vào bất cứ thời điểm nào cả hoặc không cần phải trả lời.
Bộ luật tố tụng hình sự của Cộng hoà Liên bang Đức quan niệm người bị bắt giữ được thông báo quyền giữ im lặng và quyền được tư vấn bởi người bào chữa (do anh ta lựa chọn) ở bất kì giai đoạn tố tụng nào, thậm chí trước khi tiến hành thủ tục thẩm vấn. Chính vì vậy, khi bị bắt giữ, người bị bắt thường được khuyên nên im lặng nếu bị cảnh sát thẩm vấn và yêu cầu được gặp luật sư.
Việc giữ im lặng cho đến khi nói chuyện với luật sư sẽ không bị coi là tình tiết chống lại người bị bắt. Bộ quy tắc về tố tụng hình sự của Hoa Kỳ cũng có những quan niệm tương tự với nội dung: Người bị buộc tội có quyền tiếp xúc với người bào chữa trong mọi giai đoạn tố tụng hình sự, bắt đầu từ lần xuất hiện lần đầu tiên của người bị buộc tội i trước cơ quan tố tụng có thẩm quyền. Nếu người bị buộc tội yêu cầu sự có mặt người bào chữa trong quá trình thẩm tra của cảnh sát thì cảnh sát viên buộc phải chấm dứt việc xét hỏi cho đến khi có mặt người bào chữa.
Có một số người thì lại cho rằng quyền im lặng làm giảm thiểu tác động tổng hợp này, do đó làm giảm tỉ lệ kết tội nhầm, bằng cách cung cấp cho tội phạm điều thay thế hấp dẫn để nói dối. Theo quan điểm này sẽ hiểu nếu người vô tội nói sự thật, trong khi thực hiện quyền im lặng thì những tên tội phạm nguy hiểm thì lại lời khai dối trá và không muốn thú nhận.
Sự tách biệt này sẽ giúp nhà lập pháp có những thiết chế dành riêng trong trường hợp đi chứng minh sự có tội của những tên tội phạm nguy hiểm vì lời khai dối trá và không muốn thú nhận. Sự luận giải này giải thích cho lý do quyền im lặng không phải là gây cản trở điều tra và giúp nhiều tội phạm nguy hiểm lọt lưới khỏi sự trừng trị của pháp luật.
Kết luận
Quyền im lặng là quyền im lặng cơ bản của con người trong tố tụng hình sự và là một trong những biện pháp quan trọng bảo vệ quyền con người. Việc quy định rõ ràng quyền im lặng trong pháp luận tố tụng hình sự là hết sức cần thiết nhằm tránh hiện tượng oan sai, bức cung, nhục hình, các sai phạm trong tố tụng hình sự của các chủ thể tiến hành tố tụng. Thực tiễn tố tụng hình sự của nhiều nước có nền tư pháp phát triển như Anh, Hoa Kỳ, CHLB Đức,… Có quy định về chế định quyền im lặng đã chứng minh điều này. Hy vọng qua bài viết này sẽ giúp các bạn hiểu rõ hơn về quyền im lặng trong pháp luật.
Bài Viết: Đảm Bảo Quyền Im Lặng Trong Tố Tụng Hình Sự Việt Nam
“Nếu nhìn nhận tố tụng hình sự từ góc độ một vụ kiện thì sẽ thấy tố tụng hình sự thực chất là sự tranh chấp về vấn đề có tội hay vô tội, tội nặng hay tội nhẹ giữa Nhà nước – người đưa ra điều cấm và bị can, bị cáo – người bị coi là vi phạm điều cấm đó.” Như vậy có thể hiểu, tố tụng hình sự một quá trình nhận thức những sự việc đã xảy ra của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng để xác định có hay không có hành vi phạm tội, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội đó. Đây là một quá trình khó khăn và phức tạp bao gồm nhiều giai đoạn từ khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Đứng trước quá trình đi tìm công lý và sự thật, phân định đúng sai, phải trái, đặc biệt trước quyền lực của các cơ quan Nhà nước bao gồm cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát, Toà án… thì quyền con người của các cá nhân tham gia tố tụng càng cần phải được bảo vệ triệt để nhất là quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
L ịch sử tư pháp thế giới đã đúc rút những nguyên lý giá trị đòi hỏi các hoạt động tố tụng điều tra phải tuân theo để bảo vệ quyền con người, trong đó có quy định về quyền im lặng.
Quy ền im lặng hay quyền không khai báo đã trở thành một phần của luật pháp quốc tế phổ quát, được quy định trong Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị của Liên Hợp Quốc năm 1966 mà Việt Nam đã ký kết tham gia năm 1982. Cụ thể tại điểm g, khoản 3 Điều 14 quy định trong quá trình xét xử về một tội hình sự, mọi người đều có quyền được hưởng một cách đầy đủ và hoàn toàn bình đẳng những đảm bảo tối thiểu sau đây: “Không bị buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận là mình có tội.”
Quyền im lặng được công nhận trong nhiều hệ thống pháp luật trên thế giới và được coi là một phương tiện quan trọng để hạn chế bức cung, nhục hình là nguyên nhân dẫn tới oan sai trong tố tụng hình sự. Quyền im lặng cũng là sự cụ thể hoá của nguyên tắc một công dân được mặc định là vô tội cho tới khi các cơ quan pháp luật chứng minh được người đó có tội.
Quy ền im lặng được cho là bắt nguồn từ “cảnh bảo Miranda” trong luật pháp Mỹ, theo đó cảnh sát phải thông báo cho nghi phạm ngay tại thời điểm họ bị bắt giữ với nội dung:
“- Ông/bà có quyền im lặng khi bị thẩm vấn. – Bất cứ điều gì ông/bà nói hay làm đều có thể được sử dụng để chống lại ông/bà trước toà. – Ông/bà có quyền tham khảo luật sư trước khi trả lời thẩm vấn và quyền có luật sư bên cạnh khi bị thẩm vấn bất kể bây giờ hay sau này. – Nếu ông/bà không có khả năng thuê luật sư, một luật sư sẽ được chỉ định cho ông/bà. – Nếu bây giờ ông/bà muốn trả lời thẩm vấn mà không cần có luật sư hiện diện thì ông/bà vẫn có quyền ngưng trả lời vào bất cứ lúc nào cho đến khi luật sư hiện diện.”
Quy ền im lặng được ghi nhận trong chỉ thị 2012/12/EU của Quốc hội Âu Châu, cụ thể: “Nhà cầm quyền phải thông báo ngay lập tức cho những người bị tình nghi, bị buộc tội, bằng lời nói hay qua giấy tờ với ngôn ngữ đơn giản và dễ hiểu về quyền im lặng không phải khai báo của họ. Thông báo phải xảy ra vào đúng thời điểm, để nghi phạm, hay người bị buộc tội có thể ứng dụng quyền này. Chỉ thị này phải được đưa vào luật quốc gia trong các nước Liên minh châu Âu muộn nhất vào ngày 2 tháng 6 năm 2014.”
Theo Luật Tố tụng của Đức, trước khi hỏi cung một người bị tình nghi, về một vi phạm hay tội phạm của người đó thì phải thông báo “theo luật anh ta được tự do trình bày hay không về những cáo buộc nhất là những lời khai buộc mình có tội” và bất cứ lúc nào, cả trước khi hỏi cung, được quyền tham khảo một luật sư theo sự lựa chọn.
T ại Pháp, Luật về suy đoán vô tội và tăng quyền của nạn nhân ban hành ngày 15/6/2000 có quy định: Luật sư có quyền tham gia ngày từ giai đoạn đầu tiên của quá trình tố tụng, tức là ngay khi bị can bị bắt giữ, bị tạm giam. Bị can có quyền giữ im lặng cho đến khi chó mặt luật sư.
T ại Việt Nam, quyền im lặng đã được quy định trong một số Điều khoản của Bộ luật Tố tụng hình sự thể hiện cam kết bảo vệ quyền con người trong hoạt động tố tụng hình sự, đồng thời cũng là sự cụ thể hoá các cam kết quốc tế của Việt Nam về đảm bảo quyền con người về dân sự và chính trị.
2. Thực trạng quy định pháp luật Việt Nam về quyền im lặng trong tố tụng hình sự
B ộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, sẽ có hiệu lực vào ngày 01/01/2018 theo Nghị quyết số 144/201/QH13, được ban hành với rất nhiều điểm mới, sửa đổi, bổ sung một cách căn bản và toàn diện so với Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003. Điều này được thể hiện trước tiên qua quy định về nhiệm vụ của Bộ luật Tố tụng hình sự, cụ thể:
T ại Điều 2 của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định: “Bộ luật tố tụng hình sự có nhiệm vụ bảo đảm phát hiện chính xác và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội; góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.” Điểm mới đáng chú ý nhất trong quy định trên chính là nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người của Bộ luật Tố tụng hình sự. Thậm chí, nhiệm vụ này còn được nêu trước cả nhiệm vụ bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, lợi ích Nhà nước. Khái niệm công lý, quyền con người đã không được nhắc tới trong quy định về nhiệm vụ của Bộ luật Tố tụng hình sự 2003. Nhiệm vụ của Bộ luật này chỉ dừng lại bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và quyền này còn được xếp sau nhiệm vụ bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích Nhà nước. Như vậy, có thể nói đây là một bước tiến đột phá trong tư duy pháp lý của các nhà làm luật và cũng là sự cụ thể hoá các cam kết về nhân quyền mà Việt Nam là thành viên khi đề cao nhiệm vụ bảo vệ quyền con người của các cá nhân tham gia vào quá trình tố tụng hình sự.
Nhi ệm vụ mới này của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 đã được cụ thể hoá bằng nhiều Điều, khoản quy định nhằm bảo vệ quyền con người của các cá nhân tham gia tố tụng. Một trong những quyền đó là quyền im lặng của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo được quy định tại các Điều 59, 60 và 61 của Bộ luật.
Đ iểm c, khoản 2, Điều 59 quy định người bị tạm giữ có quyền “Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội.”
Đ iểm d, khoản 2, Điều 60 quy định bị can có quyền “Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội.”
V à điểm h, khoản 2, Điều 61 quy định bị cáo có quyền “Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội.”
Như vậy, mặc dù không dùng chính xác thuật ngữ “quyền im lặng” nhưng việc quy định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo “không buộc phải đưa ra lời khai chống lại mình hoặc buộc phải nhận mình có tội” đã thể hiện nội hàm của quyền im lặng.
Th ực tế, Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 đã có một số quy định ban hành có đề cập tới một phần nội hàm của quyền im lặng mặc dù không được quy định một cách rõ ràng. Cụ thể:
Đ iểm c, khoản 2 Điều 48 và điểm c, khoản 2 Điều 49 quy định người bị tạm giữ, bị can có quyền “Trình bày lời khai.” Như vậy, trình bày lời khai được quy định là quyền mà không phải là nghĩa vụ của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Việc thực hiệ n hay kh ông thực hiệ n quy ền của m ì nh sẽ do ch ính người bị tạm giữ, bị can, bị cá o quy ết định. Nhưng thay v ì phải được giải thích rõ ràng và được hiểu là quy ền tr ì nh bà y l ời khai th ì quy ền này được hiểu thành nghĩa vụ và phải tuân thủ.
B ên cạnh đó, tại Điều 72 có quy định “lời nhận tội của bị can, bị cáo chỉ có thể được coi là chứng cứ, nếu phù hợp với các chứng cứ khác của vụ án. Không được dùng lời nhận tội của bị can, bị cáo làm chứng cứ duy nhất để kết tội.” Hoặc Điều 84 quy định “Người bị bắt, người thi hành lệnh bắt và người chứng kiến phải cùng ký tên vào biên bản, nếu ai có ý kiến khác hoặc không đồng ý với nội dung biên bản thì có quyền ghi vào biên bản và ký tên.”
C ó thể thấy Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 không ban hành quy định về quyền im lặng hoặc quyền không khai báo của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nhưng các quy định trên có thể được áp dụng để diễn giải và thực hiện quyền này.
Tuy nhi ên, thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự luôn coi trọng việc xử lý tội phạm hơn là bảo vệ quyền con người, quyền công dân, đồng thời mặc định bị can, bị cáo phải khai báo tội trạng, không khai bá o l à ngoan cố, chống đối và v ì vậy sẽ bị nghi êm trị. Từ những nhận thức sai lầm đó dẫn tới việc không giải thích rõ về quyền khai báo của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và thực tế đã xảy ra không ít các vụ việc mớm cung, dụ cung, ép cung, bức cung, sử dụng nhục h ì nh để tra tấn đối với người bị t ì nh nghi phạm tội nhằm có được lời khai nhận tội.
B ộ luật Tố tụng hình sự 2015 đã ban hành một cách rõ ràng về quyền “không buộc phải đưa ra lời khai chống lại mình hoặc buộc phải nhận mình có tội” hay quyền im lặng, thừa nhận và bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự. Tuy nhiên, Việt Nam từ ngày độc lập tới nay, là quốc gia áp dụng mô hình tố tụng thẩm vấn – mô hình đề cao vai trò của cơ quan tiến hành tố tụng, đặc biệt nhấn mạnh vào giai đoạn điều tra. Hơn nữa, một nhiệm vụ mà các cơ quan ti ến hành tố tụng phải đáp ứng là yêu cầu giả i quy ết nhanh chó ng v à kịp thờ i c ác vụ án h ì nh sự, đảm bảo ngăn ngừa các hà nh vi ph ạm tội. Việc đề cao vai trò và nhiệm vụ của các cơ quan tiến hành tố tụng đã vô tình bỏ quên tính công bằng, bảo đảm các quyền con người, quyền công dân của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, trong đó có quyền im lặng. Vì vậy, cần có những biện pháp cụ thể để các quy định pháp luật trên được tôn trọng và áp dụng trong thực tiễn tố tụng hình sự.
M ột là tuyên truyền, phổ biến rộng rãi quy định của pháp luật thông qua các phương thức khác nhau để tất cả các cá nhân, cơ quan, tổ chức đều ý thức được đây là quyền cơ bản của con người, nhờ vậy quyền im lặng được đảm bảo thực thi trên thực tế.
Hai l à pháp luật cần quy định rõ rằng lời khai của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo chỉ có giá trị pháp lý sau khi người bị tạm giữ, bị can, bị cáo được cơ quan tiến hành tố tụng thông báo và giải thích cụ thể các quyền và nghĩa vụ của mình đặc biệt là quyền im lặng. Điều nà y l à rất quan trọng bởi lẽ pháp luật không quy định chính xác thuật ngữ “quyền im lặng” mà quy định là quyền “không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội.” Chính vì vậy, cần phải có sự giải thích rõ để người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hiểu và lựa chọn thực hiện quyền của mình hay không.
B à là quyền im lặng cần phải được thực hiện đồng bộ với những nội dung khác như quyền được có luật sư hoặc người khác bào chữa, quyền được cung cấp luật sư nếu bản thân không có khả năng tìm luật sư hay người bào chữa khác; có quyền những không buộc phải chứng minh là mình vô tội; quyền không đưa ra các chứng cứ bất lợi cho mình.
Vi ệc điều tra xử lý tội phạm thực chất là hoạt động nhằm bảo vệ các quyền công dân, đem lại sự bình an, hạnh phúc cho con người. Nhận thức được điều đó, trên tiến trình đấu tranh lâu dài cho các quyền con người, quyền im lặng được ghi nhận và trở thành tấm lá chắn giúp bảo vệ cô ng d ân tránh khỏi sự xâm hạ i c ủ a quy ền hành bạo ngược.
Ph áp luật Việt Nam đã ghi nhận quyền này trong Bộ luật Tố tụng hình sự là sự cụ thể hoá các cam kết của Việt Nam về bảo vệ quyền con người trong các Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên đồng thời cũng là cam kết của Nhà nước Việt Nam đối với các công dân của mình về một nền tư pháp trong sạch, bảo vệ tối đa quyền con người, quyền công dân của các cá nhân trong xã hội, từ đó giúp ổn định và phát triển xã hội văn minh, giàu đẹp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Đào Trí Úc, Tổng quan về mô hình Tố tụng hình sự Việt Nam thực trạng và phương hướng hoàn thiện, Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Hoàn thiện mô hình tố tụng hình sự Việt Nam đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp – kinh nghiệm CHLB Đức”, 2011, Hà Nội.
Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam 2003
Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam 2015
Nghị quyết số 144/2016/QH13 về việc lùi hiệu lực thi hành của Bộ luật Hình sự 100/2015/QH13, Bộ luật Tố tụng hình sự số 101/2015/QH13, Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam số 94/2015/QH13 và bổ sung dự án Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 vào chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2016.
Bạn đang đọc nội dung bài viết Quyền Im Lặng Theo Quy Định Của Pháp Luật Việt Nam trên website Athena4me.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!