Đề Xuất 4/2023 # Ôn Tập, Củng Cố Kiến Thức Bài Thơ “Ánh Trăng” Của Nguyễn Duy # Top 11 Like | Athena4me.com

Đề Xuất 4/2023 # Ôn Tập, Củng Cố Kiến Thức Bài Thơ “Ánh Trăng” Của Nguyễn Duy # Top 11 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Ôn Tập, Củng Cố Kiến Thức Bài Thơ “Ánh Trăng” Của Nguyễn Duy mới nhất trên website Athena4me.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

I. Kiến thức cần nhớ

Tác giả:

– Nguyễn Duy sinh năm 1948, tên khai sinh là Nguyễn Duy Nhuệ, quê ỏ làng Quảng Xá, xã Đông Vệ, thành phố Thanh Hoá.

– Năm 1966, ông nhập ngũ vào bộ đội thông tin, tham gia chiến đấu ở nhiều chiến trường.

–  Nguyễn Duy được trao giải nhất cuộc thi thơ báo văn nghệ 1973 với chùm thơ bốn bài (Tre Việt Nam, Hơi ấm ổ rơm, Giọt nước mắt và nụ cười, Bầu trời vuông). Từ giải thưởng này, Nguyễn Duy trở thành một gương mặt tiêu biểu trong lớp nhà thơ trẻ thời kì kháng chiến chống Mĩ và tiếp tục bền bỉ sáng tác.

– Sau năm 1975, ông chuyển về làm báo Văn nghệ giải phóng. Từ năm 1977, Nguyễn Duy là đại diện thường trú báo Văn nghệ tại các tỉnh phía Nam ở thành phố HCM.

2.Tác phẩm:

– Hoàn cảnh: Bài thơ “Ánh trăng” được viết năm 1978 tại thành phố HCM, in trong tập “Ánh trăng” – tập thơ của Nguyễn Duy được giải A của Hội nhà văn Việt Nam 1984. Nguyễn Duy viết bài thơ này vào lúc cuộc kháng chiến đã khép lại ba năm. Ba năm sống trong hoà bình, không phải ai cũng còn nhớ những gian khổ và kỉ niệm nghĩa tình trong quá khứ. Nguyễn Duy viết “Ánh trăng” như một lời tâm sự, một lời nhắn nhủ chân tình với chính mình, với mọi người về lẽ sống chung thuỷ, nghĩa tình.

– Thể thơ: 5 tiếng: nhiều khổ thơ, mỗi khổ 4 dòng, vần chân, dãn cách.

– Phương thức biểu đạt: biểu cảm thông qua tự sự

– Bố cục:  2 đoạn

+ Đoạn 1: hai khổ đầu: cảm nghĩ về vầng trăng quá khứ

+ Đoạn 2: Còn lại: cảm nghĩ về vầng trăng hiện tại.

II. Câu hỏi ôn tập

Câu1 : Tại sao nói “Ánh trăng ” là một nhan đề đa  nghĩa? 

– Chúng ta đã từng biết đến vầng trăng nhớ cố hương của tiên thi Lý Bạch, từng rung cảm trước vẻ đẹp của ánh trăng – người bạn tri âm với người tù cộng sản HCM (Vọng nguyệt- NKTT). Và với bài thơ Ánh trăng, Nguyễn Duy đã làm phong phú và giàu có thêm vẻ đẹp cũng như ý nghĩa của vầng trăng đã quen thuộc từ ngàn đời.

+ Trước hết, ánh trăng của Nguyễn Duy là hình ảnh đẹp của thiên nhiên với tất cả những gì là thi vị, gần gũi, hồn nhiên, tươi mát. Trong hai khổ thơ đầu, vầng trăng hiện ra trong không gian của ruộng đồng, sông biển, núi rừng. Đó là vầng trăng của “hồi nhỏ sống với đồng”, Ánh trăng gắn với tuổi ấu thơ của tác giả (d/c). Vầng trăng ấy hồn nhiên như cuộc sống, như đất trời (d/c)

+ Nhưng nếu chỉ có vậy, ánh trăng của Nguyễn Duy sẽ lẫn với vô vàn ánh trăng khác trong thơ ca hiện đại. Cũng giống như trăng của người bạn tù, vầng trăng của Nguyễn Duy đã thành “tri kỉ”- người bạn tình nghĩa. Ánh trăng thời chiến như chia sẻ những thử thách của chiến tranh, như cùng nhà thơ và đồng đội trải qua những kỉ niệm của thời “ở rừng”. Vầng trăng tri kỉ, vầng trăng tình nghĩa ấy: dấu ấn của một thời gian khó : “ngỡ không bao giờ quên”.

+ Nhưng nhan đề “ánh trăng” còn thực sự sâu sắc, ý nghĩa bởi vầng trăng ấy còn là biểu tượng cho quá khứ nghĩa tình – kí ức gắn với cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước cam go mà hào hùng. Cuộc sống hoà bình “ánh điện cửa gương, buyn đinh” đã khiến cho nhà thơ nhìn ánh trăng như một “người dưng qua đường”. Con người từng một thời chiến đấu, từng ngang dọc trên nhiều chiến trường đã có lúc như lãng quên quá khứ. Nhưng rồi thình lình đèn điện tắt…. :”đột ngột vầng trăng tròn”. Vầng trăng ấy đã đánh thức kí ức của tác giả, của thế hệ trẻ Việt Nam trong những ngày đánh Mĩ, thắng Mĩ.

– Ánh trăng lặng lẽ toả sáng trong bài thơ hay lặng lẽ như lời nhắc nhở giản dị mà sâu lắng: không được phép lãng quên quá khứ, có những thử thách, những hi sinh, những tổn thất thời đánh Mĩ ác liệt mới có cuộc sống hoà bình ngày hôm nay.

Câu 2:  Phân tích 2 khổ thơ cuối của bài thơ “ánh trăng”

– Trăng và con người đã gặp nhau trong một giây phút tình cờ. Con người không còn muốn trốn chạy vầng trăng, trốn chạy cả bản thân mình được nữa. Tư thế “ngửa mặt lên nhìn mặt” là tư thế đối mặt: “mặt” ở đây chính là vầng trăng tròn. Con người thấy mặt trăng là thấy được người bạn tri kỉ ngày nào. Cách viết thật lạ và sâu sắc- dùng những từ không trực tiếp để diễn tả sự xúc động, cảm động chợt dâng trào trong lòng anh khi gặp lại vầng trăng.

– Cảm xúc “rưng rưng”: tâm hồn đang rung động, xao xuyến, gợi nhớ gợi thương. Nhịp thơ hối hả dâng trào như tình người dào dạt. Niềm hạnh phúc của nhà thơ như đang được sống lại một giấc chiêm bao.

– Sự xuất hiện đột ngột của vầng trăng làm ùa dậy ở tâm trí nhà thơ bao kỉ niệm quá khứ tốt đẹp khi cuộc sống còn quá nghèo nàn, gian lao. Lúc ấy con người với thiên nhiên trăng là tri kỷ, tình nghĩa.

Khổ thơ kết lại bài thơ bằng hai vế đối lập mà song song:

“Trăng cứ tròn vành vạnh

…………..

Đủ cho ta giật mình”

– Ở đây có sự đối lập giữa “tròn vành vạnh” và “kẻ vô tình”, giữa cái im lặng của ánh trăng với sự “giật mình” thức tỉnh của con người. Vầng trăng có ý nghĩa biểu tượng sâu sắc. Hình ảnh “vầng trăng tròn vành vạnh”, ngoài nghĩa đen là vẻ đẹp tự nó và mãi mãi vĩnh hằng của cuộc sống còn có nghĩa tượng trưng cho vẻ đẹp của nghĩa tình quá khứ, đầy đặn, thuỷ chung, nhân hậu bao dung của thiên nhiên, của cuộc đời, con người, nhân dân, đất nước.

– Hình ảnh “ánh trăng im phăng phắc” có ý nghĩa nghiêm khắc nhắc nhở nhà thơ và cả mỗi chúng ta: con người có thể vô tình, có thể lãng quên nhưng thiên nhiên, nghĩa tình quá khứ thì luôn tròn đầy, bất diệt. Sự không vui, sự trách móc trong lặng im của vầng trăng  là sự tự vấn lương tâm dẫn đến cái “giật mình” ở câu thơ cuối. Cái “giật mình” là cảm giác và phản xạ tâm lí có thật của một người biết suy nghĩ, chợt nhận ra sự vô tình, bạc bẽo, sự nông nổi trong cách sống của mình. Cái “giật mình” của sự ăn năn, tự trách, tự thấy phải đổi thay trong cách sống. Cái “giật mình” tự nhắc nhở bản thân không bao giờ được làm người phản bội quá khứ, phản bội thiên nhiên, sùng bái hiện tại mà coi rẻ thiên nhiên. Thiên nhiên thật nghiêm khắc, lạnh lùng nhưng cũng thật ân tình, độ lượng bao dung, vầng trăng và thiên nhiên là trường tồn, bất diệt. Thì ra những bài học sâu sắc về đạo lí làm người đâu cứ phải tìm trong sách vở hay từ những khái niệm trừu tượng xa xôi. Ánh trăng thật sự đã như một tấm gương soi để thấy được gương mặt thực của mình, để tìm lại cái đẹp tinh khôi mà chúng ta tưởng đã ngủ ngon trong quên lãng.

Câu 3: Hình ảnh vầng trăng trong bài thơ tượng trưng cho điều gì? Ý nghĩa khái quát của bài thơ “Ánh trăng”.

Gợi ý:

HÌnh ảnh vầng trăng trong bài thơ trước hết là vầng trăng của tự nhiên. Nhưng vầng trăng còn là biểu tượng của quá khứ đầy tình cảm, khi con người trần trụi giữa thiên nhiên, hồn nhiên, không so đo, tính toán. Khi đó, tâm hồn con người rộng mở, khoáng đạt như sông, như đồng, như bể, như rừng. Toàn là những hình ảnh thiên nhiên rộng dài, hùng vĩ. Nhưng khi kháng chiến thành công thì con người nhốt mình vào cửa kính, buyn – đinh, sống riêng cho mình, cho cái cá nhân nhỏ bé. Bởi thế mà không gần gũi, không mặn mà với vầng trăng. Lúc này trăng tượng trưng cho quá khứ ân tình, cho những tình cảm lớn lao mộc mạc nhưng bất tử, sáng trong mãi mãi. Con người có thể quên quá khứ, nhưng quá khứ không bao giờ quên. Trăng cứ tròn vành vạnh cũng như quá khứ tươi đẹp không bao giờ mờ phai, không bao giờ khuyết thiếu. Chỉ có những ai mê mải với cái riêng mới có thể dửng dưng. Nhưng vầng trăng ấy bao dung, không “kể chi người vô tình”. Chính thái độ lặng im cao thượng ấy càng làm những ai sớm quên quá khứ nghĩa tình phải giật mình.

Bài thơ “Ánh trăng” là tâm sự của Nguyễn Duy, là suy ngẫm của nhà thơ trước sự đổi thay của hoàn cảnh sống, khi mà con người từ chiến tranh trở về cuộc sống hoà bình. Những sông, đồng, biển, rừng là hình ảnh tượng trưng, nhưng cũng là hình ảnh thật của những người kháng chiến. Thành phố là môi trường mới, là vùng đất mà trước đây những người kháng chiến không đặt chân tới (trừ các chiến sĩ hoạt động bí mật). Môi trường mới, tiện nghi mới,  hoàn cảnh mới làm cho con người sống cách biệt với thiên nhiên, cũng có nghĩa là xa dần quá khứ, lạnh nhạt dần với quá khứ. Ánh trăng cảnh báo hiện tượng suy thoái về tình cảm, sẽ dẫn đến suy thoái lối sống, suy thoái đạo đức. Nó nhắc nhở con người cần thuỷ chung với quá khứ, với những điều tốt đẹp của quá khứ (không có mới nới cũ)

Câu 4: Phân tích đoạn cuối bài thơ “Ánh trăng”.

Khổ thơ cuối cùng là nơi tập trung nhất ý nghĩa biểu tượng của hình ảnh vầng trăng:

Trăng cứ tròn vành vạnh

Kể chi người vô tình

ánh trăng im phăng phắc

Đủ cho ta giật mình.

– Vầng trăng nằm toả sáng, tròn đầy, đó là một hiện tượng bình thường của thiên nhiên: trăng khuyết rồi lại tròn. Hình ảnh trăng được Nguyễn Duy miêu tả tròn đầy, vành vạnh, toả sáng khắp nơi. Trong không gian buyn đinh tối om, đèn điện tắt, ánh trăng càng trở nên có giá trị.

– Mặc cho con người vô tình, “trăng cứ tròn vành vạnh”, đó là vẻ đẹp tự nó và mãi mãi vĩnh hằng. Đó còn là hình ảnh tượng trưng cho vẻ đẹp và những giá trị truyền thống.

Tham khảo

Hình ảnh vầng trăng toả sáng được Nguyễn Duy miêu tả là một hiện tượng bình thường của tự nhiên: vầng trăng vũ trụ khuyết rồi lại tròn. Nhưng trong không gian “phòng buyn đinh tối om”, ánh trăng hiện lên lại quý giá biết bao, vị tha nhân hậu biết chừng nào! Trăng cứ tròn vành vạnh hiện diện cho quá khứ đẹp đẽ chẳng thể phai mờ. Quá khứ ấy lúc này đang soi rọi vào người lính, vẫn vẹn nguyên, tình nghĩa, vẫn tròn đầy như thuở nào. Vầng trăng cứ lặng lẽ toả sáng, không lời – sự im lặng ấy có giá trị hơn mọi lời nói nghiêm khắc, một lời nhắc nhở thấm thía, độ lượng khiến cho tác giả giật mình”: con người có thể vô tình lãng quên nhưng thiên nhiên, nghĩa tình quá khứ thì luôn tròn đầy bất diệt. Bởi có quá khứ, có những thử thách, hi sinh tổn thất thời đánh Mĩ ác liệt mới có cuộc sống hoà bình hôm nay. “Giật mình” là cảm giác, 1 phản xạ tâm lí của một con người biết suy nghĩ, chợt nhận ra sự vô tình, bạc bẽo, sự nông nổi trong cách sống của mình. Đó là cái giật mình tự nhắc nhở bản thân, tự ăn năn, day dứt, hối hận, tự thấy mình phải đổi thay: con người không bao giờ được phản bội, lãng quên quá khứ, thiên nhiên mà sùng bái hiện tại. Bài thơ được sáng tác năm 1978, 3 năm sau khi đất nước thống nhất, khoảng thời gian không dài, nhưng những mục đích mới, cuộc sống mới với mưu toan hàng ngày làm con người ta như bị cuốn vào một vòng xoáy mới. Những bận rộn, lo toan khiến con người dễ dàng quay lưng, dửng dưng với những gì đã qua. Họ không hề biết rằng chính cái thờ ơ, dửng dưng ấy đã vô tình “bóp chết” quá khứ thiên nhiên nghĩa tình, biến nó thành kẻ xa lạ- “người dưng qua đường”. Khổ cuối bài thơ “Ánh trăng” chính là một lời nói kịp thời, là hình ảnh biểu tượng ẩn chứa triết lí sâu sắc: không được phép lãng quên quá khứ.

Câu 5:Phân tích, so sánh hình ảnh “TRăng” (vầng trăng, mảnh trăng, ánh trăng….) trong các bài thơ “Đồng chí”, “Đoàn thuyền đánh cá”, “Ánh trăng”.

Gợi ý:

Trăng trong cả ba bài thơ đều là hình ảnh thiên nhiên đẹp, trong sáng, người bạn tri kỉ của con người trong cuộc sống lao động và chiến đấu, trong sinh hoạt hàng ngày.

– Trăng trong “Đồng chí” là biểu tượng của tình đồng chí, gắn bó keo sơn trong cuộc sống chiến đấu gian khổ thời kì đầu kháng chiến chống Pháp, biểu tượng của hiện thực và lãng mạng, trở thành nhan đề của cả tập thơ “Đầu súng trăng treo”

– Trăng trong “Đoàn thuyền đánh cá” là cánh buồm chuyên chở và nâng bổng niềm vui hào hứng trong lao động làm chủ tập thể của những ngư dân đi đánh cá đêm, vẽ nên bức tranh sơn mài biển vàng biển bạc.

“Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé

Đêm thở sao lùa nước Hạ Long”

Trăng trong “Ánh trăng” là vầng trăng tròn vành vạnh, im phăng phắc đột ngột ùa vào phòng buyn đinh tối om trong đêm hoà bình mất điện ở thành phố Hồ Chí Minh đã khiến nhà thơ giật mình, ân hận, day dứt về suy nghĩ và cách sống hiện tại của mình. Ánh trăng như người bạn thân nhắc nhở, lay tỉnh lương tâm của tác giả: không được vô ơn với quá khứ, với đồng đội đã hi sinh với thiên nhiên nhân hậu và bao dung

Gợi ý:

Vầng trăng trong bài thơ là một hình ảnh đa nghĩa

+ Vầng trăng là hình ảnh của thiên nhiên hồn nhiên, tươi mát, là người bạn suốt thời nhỏ tuổi, rồi thời chiến tranh ở rừng.

+ Vầng trăng là biểu tượng cho quá khứ nghĩa tình, hơn thế trăng còn là vẻ đẹp bình dị, vĩnh hằng của đời sống.

+ Ở khổ thơ cuối cùng, trăng tượng trưng cho quá khứ vẹn nguyên chẳng thể phai mờ, là người bạn, là nhân chứng nghĩa tình mà nghiêm khắc nhắc nhở nhà thơ và cả mỗi chúng ta. Con người có thể vô tình, có thể lãng quên nhưng thiên nhiên, nghĩa tình quá khứ thì luôn tròn đầy, bất diệt.

Gợi ý:

– Vầng trăng là một thi đề rất cổ điển của thi ca. Bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy có một sức hấp dẫn riêng.

– Nếu trước đây, vầng trăng chỉ tượng trưng cho thiên nhiên đất nước tươi đẹp và vĩnh hằng: “một nửa vầng trăng thôi. Một nửa cứ đứng yên ở cuối trời” hay tượng trưng cho tình yêu son sắt, thuỷ chung không bao giờ phai như ánh trăng trong lời thề nguyền của TKiều và KT, trong lời tỏ tình của Rômêo và juliét thì nay vầng trăng của Nguyễn Duy còn thêm một lớp nghĩa mới. Vầng trăng đó còn biểu hiện cho quá khứ nghĩa tình của con người, gợi nhớ cái tuổi thơ êm ấm, được hoà mình vào thiên nhiên tươi đẹp hay những đêm gian khổ, khó khăn ác liệt của cuộc đời người lính. Vầng trăng còn là một phần đẹp đẽ trong con người, vẻ đẹp của sự sáng trong và thánh thiện. Nguyễn Duy đã mở rộng và phát triển ý nghĩa của vầng trăng, nâng cao khái niệm tình yêu thành mối tình quá khứ của chính mình. Không những thế, tác giả còn hấp dẫn người đọc bởi khả năng tạo tình huống của mình:

“thình lình đèn điện tắt

….

đột ngột vầng trăng tròn”

Nay đã gặp xưa, trong một hoàn cảnh mà con người khó lòng ngoảnh mặt đi như thế. Tình huống đã đã phần nào chỉ ra rằng: trong dòng đời hối hả ta đã vô tình quên đi vầng trăng thì có những khoảnh khắc vầng trăng xuất hiện nhưng vẫn tròn vành vạnh. Bài thơ như một lời tự sự của chính mình. Chính vì thế nó có sức thuyết phục cao, dễ đi vào lòng người chứ không khô khan như một bài triết lí. Thể thơ 5 chữ trước đây vốn rất phù hợp với những câu chuyện nhẹ nhàng mang tính ngụ ngôn nay được tác giả sử dụng kết hợp với giọng điệu tâm tình làm bài thơ khi thì trôi chảy, tự nhiên nhịp nhàng như lời kể chuyện, khi thì thiết tha xúc động và cuối cùng lại trầm lắng suy tư. Và  đặc biệt hơn nữa là thể thơ 5 chữ cũng được tác giả thay đổi và viết theo kiểu thơ vắt dòng làm ý thơ liền mạch như môộ câu chuyện bằng văn xuôi nhẹ nhàng tình cảm.

Nhưng đặc sắc nhất là trong bài thơ 4 lần tác giả viết là vầng trăng trong khi nhan đề và khổ cuối lại là “Ánh trăng”. Đối với tác giả, vầng trăng là một người bạn tri âm, tri kỉ, từ hồi thơ ấu và khi ở chiến trường. Vì thế xuyên suốt bài thơ là hình ảnh “vầng trăng”. Còn hình ảnh “ánh trăng” là ánh sáng của vầng trăng, quầng sáng của vầng trăng, là sự tinh tế, nhẹ nhàng của thiên nhiên. Vầng trăng có lúc tròn, lúc khuyết nhưng ánh trăng luôn luôn có màu vàng không đổi, soi sáng toả mát xuốnc cõi lòng của con người làm mỗi người thêm thanh thản  nhẹ nhàng. Khó có thể nói “vầng trăng theo suốt ta cả cuộc đời” vì vâầngtrăng không phải lúc nào cũng xuất hiện nhnưg rất phù hợp nếu nói rằng: “ánh trăng theo ta suốt cả cuộc đời” vì ánh trăng không chỉ là ánh sáng của vâầngtrăng mà còn là ánh sáng trong mỗi tâm hồn. Rõ ràng, hình ảnh “ánh trăng” mang ý nghĩa rộng hơn hình ảnh “vầng trăng”

Tác giả đã rất tinh tế trong việc dùng “ánh trăng” thay vì “vầng trăng” trong nhan đề và khổ thơ cuối. Đó cũng là một sáng tạo rất độc đáo của ông, góp phần làm tác phẩm ánh trăng có giá trị nội dung và nghệ thuật cao.

Bài Thơ: Ánh Trăng (Nguyễn Duy

Cát trắng và Ánh trăng là hai tập thơ của Nguyễn Duy, nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ. Một hồn thơ tươi trẻ toả mát bóng tre, như con sóng vỗ dòng sông thơ ấu phảng phất hương vị đồng quê:

Thuở nhỏ tôi ra cống Na câu cáNíu váy bà đi chợ Bình LâmBắt chim sẻ ở vành tai tượng PhậtVà đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trầm.(Đò Lèn)

Tre Việt Nam, Hơi ấm ổ rơm, Ánh trăng, Đò Lèn… là những bài thơ nổi tiếng của Nguyễn Duy. Bài thơ Ánh trăng rút trong tập thơ cùng tên, được tác giả viết vào năm 1978, tại Thành phố Hổ Chí Minh, ba năm sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng. Bài thơ như một lời tâm sự chân thành: vầng trăng không chỉ là vẻ đẹp thiên nhiên đất nước mà nó còn gắn bó với tuổi thơ, với những ngày kháng chiến gian khổ vầng trăng đối với mỗi chúng ta không bao giờ có thể quên và đừng vô tình lãng quên.

Nếu như trong bài thơ Tre Việt Nam, câu thơ lục bát có khi được tách ra thành 2 hoặc 3 dòng thơ để tạo nên hiệu quả nghệ thuật biểu đạt gây ấn tượng thì ở bài thơ Ánh trăng này lại có một nét mới. Chữ đầu của dòng thơ, câu thơ không viết hoa. Phải chăng nhà thơ muốn cho cảm xúc được dào dạt trôi theo dòng chảy của thời gian, kỉ niệm?

Hai khổ thơ đầu nói về vầng trăng của tuổi thơ và vầng trăng thời chiến tranh. Vầng trăng tuổi thơ trải rộng trên một không gian bao la: “Hồi nhỏ sống với đồng – với sông rồi với bể”. Hai câu thơ 10 tiếng, gieo vần lưng (đồng – sông); từ “với” được điệp lại 3 lần nhằm diễn tả một tuổi thơ đi nhiều, được hạnh phúc cảm nhận những vẻ đẹp kì thú của thiên nhiên, từng được ngắm trăng trên đồng quê, ngắm trăng trên dòng sông và ngắm trăng trên bãi bể. Tuổi thơ của chúng ta dễ có mấy ai được cái cơ may ấy như nhà thơ? Thuở bé nhà thơ Trần Đăng Khoa cũng chỉ được ngắm trăng nơi sân nhà: “Ông trăng tròn sáng tỏ – Soi rõ sân nhà em… Chỉ có trăng sáng tỏ – Soi rõ sân nhà em…” (Trích Trăng sáng sân nhà em).

Tuổi thơ được ngắm trăng thích thế, như một chút hoài niệm xa vời. Hai câu thơ tiếp theo nói về hồi máu lửa, trăng với người lính, trăng đã thành “tri kỉ”:

Hồi chiến tranh ở rừngvầng trăng thành tri kỉ.

Và vầng trăng, vầng trăng đất nướcVượt qua quầng lửa, mọc lên cao.(Phạm Tiến Duật)

Các tao nhân ngày xưa thường “đăng lâu vọng nguyệt”, còn anh bộ đội Cụ Hồ một thời trận mạc đã nhiều phen đứng trên đồi cao, hành quân vượt núi cũng say sưa ngắm vành trăng cao nguyên. Thật là thú vị khi đọc vần thơ Nguyễn Duy vì nó đã mở ra trong lòng nhiều người một trường liên tưởng: “Hồi chiến tranh ở rừng – Vầng trăng thành tri kỉ”.

Khổ thơ thứ hai như một lời nhắc nhở của tác giả về những năm tháng gian lao đã qua của cuộc đời người lính gắn bó với thiên nhiên, đất nước bình dị, hiền hậu. Lại một vần lưng nữa xuất hiện – Một ẩn dụ so sánh làm nổi bật chất trần trụi, chất hồn nhiên người lính những năm tháng ở rừng. Đó là cốt cách của các anh:

Trần trụi với thiên nhiênhồn nhiên như cây cỏ.

Vầng trăng là biểu tượng đẹp của những năm tháng ấy, đã trở thành “vầng trăng tri kỉ”, “vầng trăng tình nghĩa” ngỡ như không bao giờ có thể quên. Một ý thơ làm động đến đáy tâm hồn, như một sự thức tỉnh lương tâm đối với những kẻ vô tình: “Ngỡ không bao giờ quên – Cái vầng trăng tình nghĩa.”

Sự thay đổi của lòng người thật đáng sợ. Hoàn cảnh sống đổi thay, con người dễ thay đổi, có lúc dễ trở nên vô tình, có kẻ dễ trở thành “ăn ở bạc”. Từ ở rừng, sau chiến thắng về thành phố, được trưng diện và xài sang: buyn-đinh, cao ốc, quen ánh điện, cửa gương… Và “vầng trăng tri kĩ”, “vầng trăng tình nghĩa” đã bị người lãng quên, dửng dưng. Cách so sánh thấm thía làm chột dạ nhiều người:Trăng được nhân hoá, lặng lẽ đi qua đường, trăng như người dưng đi qua, chẳng còn ai nhớ, chẳng còn ai hay. Người có lương tâm, lương tri mới biết sám hối. Biết sám hối để tự hoàn thiện nhân cách, tự vươn lên, hướng tâm hồn về ánh sáng và cái cao cả. Không đao to búa lớn, không đại ngôn, mà trái lại, giọng thơ thầm thì như trò chuyện, giãi bày tâm sự, nhà thơ đang trò chuyện với mình. Chất trữ tình của thơ ca trở nên sâu lắng, chân thành.

Cũng như dòng sông có thác ghềnh, có quanh co, uốn khúc, cuộc đời cũng có nhiều biến động li kì. Ghi lại một tình huống “cuộc sống thị thành”của những con người mới ở rừng về thành phố, nhà thơ chỉ sử dụng 4 câu thơ 20 từ. Các từ “thình lình”, “vội”, “đột ngột” gợi tả tình thái đầy biểu cảm. Có nhà triết học nói: “Cuộc đời dạy ta nhiều hơn trang sách. Vần thơ của Nguyễn Duy nói với ta rất nhiều:Trăng xưa đã đến với người, vẫn “tròn”, vẫn “đẹp”, vẫn thuỷ chung với mọi người, mọi nhà, với thi nhân, với người lính. Người ngắm trăng rồi suy ngẫm bâng khuâng:Nguyễn Tuân từng coi trăng là “cố nhân”, nhà thơ Xuân Diệu, trong bài Nguyệt cầm viết cách đây 60 năm cũng có câu: “Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần”. Trở lại với tâm trạng người lính trong bài thơ này. Một cái nhìn đầy áy náy xót xa: “Ngửa mặt lên nhìn mặt”. Hai chữ “mặt” trong vần thơ: mặt trăng và mặt người cùng “đối diện đàm tâm”. Trăng chẳng nói, trăng chẳng trách thế mà người lính cảm thấy “có cái gì rưng rưng”. “Rưng rưng” nghĩa là vì xúc động, nước mắt đang ứa ra, sắp khóc. Giọt nước mắt làm cho lòng người thanh thản lại, trong sáng lại, cái tốt lành hé lộ. Bao kỉ niệm đẹp một đời người ùa về, tâm hồn gắn bó, chan hoà với thiên nhiên, với vầng trăng xưa, với đồng, với bể, với sông, với rừng, với quê hương đất nước. Cấu trúc câu thơ song hành, với biện pháp tu từ so sánh, với điệp từ (là) cho thấy ngòi bút của Nguyễn Duy thật tài hoa:… “như là đồng, là bể – như là sông, là rừng”. Đoạn thơ hay ở chất thơ bộc bạch chân thành, ở tính biểu cảm, tính hình tượng và hàm súc, từ ngôn ngữ hình ảnh đi vào lòng người, khắc sâu điều nhà thơ muốn tâm sự với chúng ta một cách nhẹ nhàng mà thấm thía.

Khổ thơ cuối bài thơ mang tính hàm nghĩa độc đáo, đưa tới chiều sâu tư tưởng triết lí:“Tròn vành vạnh” là trăng rằm, một vẻ đẹp viên mãn. “Im phăng phắc” là im như tờ, không một tiếng động nhỏ. Vầng trăng cứ tròn đầy và lặng lẽ “kể chi người vô tình” là biểu tượng của sự bao dung độ lượng, của nghĩa tình thuỷ chung trọn vẹn trong sáng mà không hề đòi hỏi đền đáp. Đó cũng chính là phẩm chất cao cả của nhân dân mà Nguyễn Duy cũng như nhiều nhà thơ cùng thời đã phát hiện và cảm nhận một cách sâu sắc trong thời kì chiến tranh chống Mĩ.

Ánh trăng là một bài thơ hay. Thể thơ năm chữ được vận dụng sáng tạo, tài hoa. Sự phong phú vần điệu, ngôn ngữ trong sáng, giọng thơ tâm tình vừa hướng nội vừa hướng ngoại. Nhà thơ tâm sự với người đọc những sâu kín nhất nơi lòng mình. Chất triết lí thâm trầm được diễn tả qua hình tượng ánh trăng đã tạo nên giá trị tư tưởng và nghệ thuật của bài thơ. Không nên sống vô tình. Phải thuỷ chung trọn vẹn, phải nghĩa tình sắt son với bạn bè, đồng chí, với nhân dân – đó là điều mà Nguyễn Duy nói thật hay, thật cảm động qua bài thơ này.

Cảm Nhận Bài Thơ Ánh Trăng Của Nguyễn Duy.

Lựa chọn câu để xem lời giải nhanh hơn

Dàn ý

I. Mở bài: giới thiệu tác giả Nguyễn Duy, tác phẩm.

II. Thân bài: Trình bày cảm nhận về bài thơ dựa theo các luận điểm:

– Hoàn cảnh sống: đất nước hòa bình.

– “Vầng trăng đi qua ngõ – như người dưng qua đường”:

+ Vầng trăng bây giờ đối với người lính năm xưa giờ chỉ là dĩ vãng, dĩ vãng nhạt nhòa của quãng thời gian xa xôi nào đó.

– Con người gặp lại vầng trăng trong một tình huống bất ngờ:

+ Tình huống: mất điện, phòng tối om.

3. Cảm xúc và suy ngẫm của tác giả trước vầng trăng

– Từ “mặt” được dùng với nghĩa gốc và nghĩa chuyển – mặt trăng, mặt người – trăng và người cùng đối diện đàm tâm.

– Với tư thế “ngửa mặt lên nhìn mặt” người đọc cảm nhận sự lặng im, thành kính và trong phút chốc cảm xúc dâng trào khi gặp lại vầng trăng: “có cái gì rưng rưng”. Rưng rưng của những niềm thương nỗi nhớ, của những lãng quên lạnh nhạt với người bạn cố tri; của một lương tri đang thức tỉnh sau những ngày đắm chìm trong cõi u mê mộng mị; rưng rưng của nỗi ân hận ăn năn về thái độ của chính mình trong suốt thời gian qua. Một chút áy náy, một chút tiếc nuối, một chút xót xa đau lòng, tất cả đã làm nên cái “rưng rưng”,cái thổn thức trong sâu thẳm trái tim người lính.

– Và trong phút giây nhân vật trữ tình nhìn thẳng vào trăng – biểu tượng đẹp đẽ của một thời xa vắng, nhìn thẳng vào tâm hồn của mình, bao kỉ niệm chợt ùa về chiếm trọn tâm tư. Kí ức về quãng đời ấu thơ trong sáng, về lúc chiến tranh máu lửa, về cái ngày xưa hồn hậu hiện lên rõ dần theo dòng cảm nhận trào dâng, “như là đồng là bể, như là sông là rừng”. Đồng, bể, sông, rừng,những hình ảnh gắn bó nơi khoảng trời kỉ niệm.

– Hình ảnh “trăng cứ tròn vành vạnh” là tượng trưng cho quá khứ nghĩa tình, thủy chung, đầy đặn, bao dung, nhân hậu.

– Hình ảnh “ánh trăng im phăng phắc” mang ý nghĩa nghiêm khắc nhắc nhở, là sự trách móc trong lặng im. Chính cái im phăng phắc của vầng trăng đã đánh thức con người, làm xáo động tâm hồn người lính năm xưa. Con người “giật mình” trước ánh trăng là sự bừng tỉnh của nhân cách, là sự trở về với lương tâm trong sạch, tốt đẹp. Đó là lời ân hận, ăn năn day dứt, làm đẹp con người.

III. Kết bài: khẳng định giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ

Bài mẫu 1

Trăng vốn là đề tài quen thuộc trong thơ ca truyền thống để giãi bày tâm sự, vẻ đẹp thánh thiện, sự chiêm nghiệm… và trong mỗi thể loại thơ trăng lại mang một nét đẹp riêng, độc đáo: thể thơ năm chữ ngắn gọn, giản dị mà có sức chứa đến lạ kì, Nguyễn Duy đã mở đầu bài thơ bằng một hồi ức xa xăm về trăng:

Hồi nhỏ sống với đồng

với sông rồi với bể hồi chiến tranh ở rừng vầng trăng thành tri kỉ

Chất thơ mộc mạc tự nhiên như lời kể chuyện tâm tình thủ thỉ điệp từ hồi cứ mồi lần nhắc đến là một kỉ niệm thân thương lại hiện về trong miền kí ức của tác giả. Nguyễn Duy nhớ về tuổi thơ êm đềm hạnh phúc nơi ruộng đồng, nhớ về những năm tháng chiến tranh gian khổ nơi núi rừng – những thăng trầm, vui buồn cua cuộc sống, sự trưởng thành lớn lên của một con người ở mọi nơi, mọi lúc đều có sự chia sẻ của Trăng người bạn tri kỉ.

Tri kỉ vì trăng hiểu người; trăng đồng cảm với người trong cảnh hàn vi cơ cực, và những tình cảm thủy chung son sắt mà trăng và người đã có trong lúc đắng cay, những khi ngọt bùi; tình cảm ấy thật bền chặt, sâu sắc; không phô trương hoa mĩ mà bình dị, tự nhiên, không chút vụ lợi toan tính:

Trần trụi với thiên thiên

hồn nhiên như cây cỏ

Trăng và người – hai hình tượng thơ cứ sóng đôi nhau trong một tứ thơ nhưng trăng thì hiển hiện cụ thể con người lại bị che khuất, giấu đi. Cứ ngỡ cái hiển hiện phải lên tiếng vậy mà Nguyễn Duy để cho cái bị che khuất, cái ẩn lên tiếng trước. Và tứ thơ không phải là lời kể mà chuyển thành độc thoại từ nội tâm con người, lời hối lỗi muộn màng. Trăng gắn bó với người là thế tri kỉ là thế vậy mà nhà thơ phải thảng thốt lên: ngỡ không sao quên được cái vầng trăng nghĩa tình. Cuộc sống còn có bao điều ta không ngờ đến được, cái hạnh phúc bình dị, giản đơn ta đã có đôi khi lại để tuột khỏi tay, tự mình đánh mất mình, đánh mất cả những gì thiêng liêng quý giá nhất. Con người trước dòng đời đua chen xô đẩy, cái hào nhoáng, hoa mĩ, tráng lệ trước mắt ánh điện cứa gương đã khiến họ quên đi những hạnh phúc bình dị thuở nào; quên đi những ki niệm một thời vất vả khó khăn và cũng vô tình lãng quên đi một người bạn tri kỉ ân tình:

Từ hồi về thành phố

quen ánh điện cửa gương vầng trăng đi qua ngõ như người dưng qua đường

Hình ảnh vầng trăng ở hai khổ thơ trên không được so sánh ví von như một con người mà chỉ để người đọc ngầm hiểu, sang khổ thơ thứ hai này, hình ảnh vầng trăng được nhân cách hóa thành một con người cụ thể. Cứ ngỡ vẫn là con người ấy – tri kỉ và nghĩa tình lắm, vậy mà… không! Trăng vẫn tri kỉ, nghĩa tình đấy chứ, chỉ có lòng người không còn tri kỉ với trăng, chỉ coi trăng như một người qua đường, người dưng, nước lã: xa lạ, lạnh nhạt như chưa hề quen biết, chưa hề gặp mặt; một sự thật phũ phàng bởi lòng người thay đổi khôn lường, nào ai đoán trước được.

Quỹ đạo của cuộc sống và dòng đời trong đục khiến con người cứ tất bật, hối hả, chìm trong nhịp sống gấp gáp làm ăn. Nhưng cuộc đời lại là một chuỗi những quy luật nhân – quả nối tiếp nhau, con người có lúc may, lúc rủi, lúc thành công, khi thất bại, lúc vui buồn và sự đổi ngôi là tất yếu để mỗi người tự hoàn thiện mình hơn: Thình lình đèn điện tắt/ Phòng buyn đinh tối om. Một sự kiện bình thường, ngẫu nhiên trong cuộc sống hiện đại được Nguyễn Duy đưa vào trong thơ và sử dụng tài tình thành điểm thắt nút, đẩy bài thơ lên đến cao trào: bởi nếu như không có cảnh hôm ấy chắc mấy ai đã nhìn lại mình mà suy xét bản thân để nhận ra sự thay đổi vô tình của mình.

Thình lình đèn điện tắt

phòng buyn đinh tối om vội bật tung cửa sổ đột ngột vầng trăng tròn

Cả khổ thơ là một chuỗi những hành động liên tục, kế tiếp nhau, nhanh, dồn dập gấp gáp để rồi ngỡ ngàng, ngạc nhiên không nói thành lời: Đột ngột vầng trăng tròn.

Ta bỗng dưng tự hỏi tại sao lại là trăng tròn mà không là trăng khuyết? Một câu hỏi thật khó trả lời bởi tròn khuyết vốn là quy luật của tự nhiên. Còn trăng ở đây đã được nhân cách hóa với những suy nghĩ, tâm tư rất con người, rất đời thường vậy mà: Trăng vẫn tròn vành vạnh / Kể chi người vô tình. Cái khuyết trong tâm hồn con người bỗng trở nên ngại ngùng xấu hổ trước trăng, trước sự vẹn tròn; chung thủy trước sau như một của trăng. Phải chi trăng cứ khuyết đi cho lòng người đã ân hận, đỡ hổ thẹn với trăng:

Ngửa mặt lên nhìn mặt

có cái gì rưng rưng như là đồng là bể như là sông là rừng

Một khoảnh khắc im lặng trong hiện thực nhưng trong nội tâm con người nỗi xúc động trào dâng đến đỉnh điểm. Mọi ký ức của một thời xa xăm, một thời gian khó, gắn bó thuở nào bỗng dội về trước mặt:

Trăng! Đó là những kỷ niệm tuổi thơ êm đềm hạnh phúc.

Trăng! Đó là đồng là bể, là quê hương làng xóm và những người thân yêu ruột thịt.

Trăng! Đó còn là sông là rừng, là những người đồng chí anh em.

Trăng! Đó là những vui buồn – hạnh phúc, những đắng cay ngọt bùi một thuở. Thế mà lòng người đã sớm quên mau để bây giờ chợt giật mình, chợt sực tỉnh, xót xa ân hận, để phải rưng rưng không nói thành lời.

Lại một lần nữa hình ảnh trăng được nhân hóa. Đó không phái là mặt trăng bình thường nữa. Đó là khuôn mặt của một người bạn đã từng tri kỷ với những người đang sống, đang hiển hiện trước trăng. Qua bao nhiêu biến động thăng trầm, người bạn ấy vẫn thủy chung son sất, bao dung độ lượng, nhân ái như thuở nào.

Nhà thơ Nguyễn Duy đã tìm được một điểm nhìn vừa thông minh vừa sắc sảo; tinh tế mà cụ thể, chi tiết. Tại sao không phải là trăng chênh chếch; trăng xa xa hay trăng lấp ló mà lại là trăng trên đỉnh đầu để phải ngửa mặt lên nhìn mặt?

Phải chăng đó cũng là dụng ý của tác giả? Bởi trăng bao dung, độ lượng là thế. Từ điểm nhìn của nhà thơ, ánh trăng cứ lan tỏa ra mênh mông; soi rọi chiếu sáng. Một không gian mênh mông rộng lớn phủ đầy ánh trăng, ngập chìm trong ánh trăng – thứ ánh sáng ngọc ngà tinh khiết. Thời gian và không gian (trăng rọi đỉnh đầu) trong khổ thơ đã khiến ta nhận thấy nó không phải là sớm nhưng cũng chưa đến nỗi muộn để không nhận ra mọi thứ. Phải chăng nhà thơ đã đồng nhất thời gian trong hiện thực và thời gian trong tâm tưởng con người? Hình ảnh trăng ở đây đã lên đến đỉnh điểm thành công của tác giả. Nó chứa đựng một ý nghĩa thật lớn lao sâu sắc, một giá trị nhân văn to lớn.

Trăng không còn là trăng của thiên nhiên; không phải là trăng ví như một con người mà nó mang ý nghĩa tượng trưng cho cả một lớp người, một thế hệ. Một thế hệ với bao cống hiến hi sinh trong những thời khắc gian khó, ác liệt; những năm tháng cam go thử thách khi đất nước lâm nguy để đến khi trở về cuộc sống đời thường – đất nước thanh bình, họ lại bình dị đến đạm bạc, không chút đòi hỏi, bon chen danh vọng. Trong số họ có những người không may mắn được trở về; có những người còn gửi lại nơi chiến trường một phần cơ thể và những di chứng chiến tranh cho thế hệ con cái; có những người được Tổ quốc quê hương biết đến song vẫn còn có những người tài sản chỉ là chiếc ba lô sờn vai vì trận mạc và cuộc sống của họ chỉ diễn ra âm thầm lặng lẽ bình dị như bao người bình thường khác nhưng họ vẫn sống và giữ trọn nghĩa tình với quê hương, đất nước, với những người đồng chí đồng đội của mình. Một tấm lòng cao cả, bao dung, độ lượng, một niềm lạc quan tin tưởng vào cuộc sống. Tình cảm của họ vẫn tròn vành vạnh, trước sau như một đâu kể cho những người vô tình, những người lãng quên.

Trăng lại trở về với chính nó; giản dị tự nhiên, mộc mạc:

Trăng cứ tròn vành vạnh

kể chi người vô tình ánh trăng im phăng phắc đủ cho ta giật mình.

Nghệ thuật láy khiến hình ảnh thơ được khắc sâu, in đậm trong tâm tưởng con người, khiến con người phải tự vấn lại lương tâm, tự suy xét lại bản thân. Hai câu cuối bài là lời kết nhẹ nhàng nhưng khá sâu sắc, tạo nên sức lắng cho bài thơ. Cái giật mình của tác giá hay cũng chính là điều Nguyễn Duy muốn gửi gắm, nhắn nhủ mỗi chúng ta: cuộc sống hôm nay dẫu ồn ào náo nhiệt; dẫu cho mỗi con người chi có một chút khoảnh khắc để giật mình sực tỉnh nhìn lại chính mình nhưng điều đó sẽ làm cho cuộc sống có ý nghĩa và giá trị biết bao.

Lời thơ không triết lý, trau chuốt nhưng đã để lại trong lòng người đọc dòng suy nghĩ về nhân tình thế thái; quá khứ và hiện tại luôn song hành nhắc nhở hoàn thiện mỗi con người; chính nghệ thuật dùng sự hồi tưởng, tự đấu tranh, suy nghĩ trong nội tâm con người đã làm nên thành công, khiến bài thơ còn mãi với thời gian.

Bài mẫu 2

Như là một nỗi nhớ, một kỉ niệm đã từ lâu lại hiện về trong kí ức của nhà thơ Nguyễn Duy, Ánh trăng có phải là dòng cảm xúc từ quá khứ đến thực tại này chăng? Có cái gì đó như một nỗi ám ảnh đột ngột hiện về khiến nhà thơ giật mình. Những ý nghĩa sâu kín, Ánh trăng là nỗi niềm rất rộng của Nguyễn Duy mà ta phải đi tìm.

Ta nhận thấy trong bài thơ của Nguyễn Duy một niềm xúc cảm như bất chợt, bàng hoàng khi nhận ra sự hiện diện của người bạn tri kỉ – ánh tráng sau những tháng năm quên lãng. Đó cũng là lời thầm nhắc của nhà thơ về thái độ sống ân nghĩa thủy chung cùng quá khứ.

Đời người dù có đi đâu về đâu cũng không bao giờ xa vầng trăng tình nghĩa. Trăng trên bầu trời như người bạn sẵn sàng cùng ta sẻ chia tâm sự. Có lẽ vì thế mà đối với mọi người, vầng trăng là tri kỉ. Với Nguyễn Duy cũng vậy:

Hồi nhỏ sống với đồng với sông rồi với bể hồi chiến tranh ở rừng vầng trăng thành tri kỉ

Vầng trăng gắn bó với nhà thơ từ hồi nhỏ cho tới lúc chiến tranh ở rừng. Đó là một khoảng thời gian dài, đủ để xây đắp một tình cảm vững bền. Không phải dễ dàng gì mà người ta coi nhau là tri kỉ, vậy mà chính nhà thơ đã thừa nhận: vầng trăng thành tri kỉ. Điều này chứng tỏ đôi bạn ấy đã có sự sẻ chia, thấu hiểu và đồng điệu. Thời gian thật dài mà Nguyễn Duy chỉ gói gọn trong bốn dòng thơ ngắn gọn. Ta tưởng như có một nỗi lòng đang rưng rưng xúc động ẩn hiện trong lời thơ, chỉ chực trào lên. Phải chăng đây là những dòng hồi tưởng? Gói gọn cả một trời kỉ niệm trong những dòng thơ, Nguyễn Duy như cố giấu nỗi xúc động trong lòng mình.

Nhưng tấm lòng ấy vẫn dạt dào. Nó chưa thể vội vàng quay lưng với quá khứ đẹp đẽ:

Trần trụi với thiên nhiên hồn nhiên như cây cỏ ngỡ không bao giờ quên cái vầng trăng tình nghĩa

Con người ấy đã sống hết lòng với thiên nhiên, chân thành và thắm thiết. Đối với thiên nhiên, con người cũng như cây cỏ là những người bạn không thể tách rời. Từ ngỡ như một điểm nhấn, một dấu hiệu đặc biệt. Nó gợi cho ta suy nghĩ về những điều còn chưa nói. Từ ngỡ như một lối rẽ đưa ý thơ đi theo một lối khác. Đó là giá trị của ngôn từ trong Ánh trăng, là tài năng của tác giả trong cách thể hiện mà ta không dễ gì nhận được ra.

Chiến tranh qua đi, hoà bình lập lại, cũng như nhiều chiến sĩ khác, Nguyễn Duy trở về nhưng không phải về với sông, với đồng, với bể mà là về với thành phố tấp nập, đông vui. Sống trong bình yên, đủ đầy với: ánh điện, cửa gương, người ấy dần quên đi người bạn tri kỉ hôm nào. Và không biết tự bao giờ trăng đã thành người dưng:

Từ hồi về thành phố quen ánh điện cửa gương vầng trăng đi qua ngõ như người dưng qua đường

Ánh trăng bị lu mờ bởi ánh điện chiếu rọi. Vầng ánh sáng ấy vẫn hiện hữu bên ta, vẫn đồng hành từng bước bên ta vậy mà giờ đây ta lại vô tình, hờ hững. Có lẽ vầng trăng cũng biết đau, biết khóc khi trở thành người dưng qua đường. Vẫn là vầng trăng hồi nhỏ, vầng trăng lúc ở rừng nhưng sao ta lại không nhận ra? Lẽ nào ta đã lãng quên quá khứ, quên đi những năm tháng chiến đấu trường kì của dân tộc. Câu thơ không trực tiếp bộc lộ cảm xúc nhưng sức ám ảnh lại vô cùng mạnh mẽ.

Khổ thơ thứ tư là một bước ngoặt trong dòng diễn biến của thời gian, sự việc, để từ đó tác giả bộc lộ nỗi niềm của mình một cách rõ ràng hơn:

Thình lình đèn điện tắt phòng buyn-đinh tối om vội bật tung cửa sổ đột ngột vầng trăng tròn

Trăng vẫn luôn toả sáng nhưng chỉ khi đèn điện tắt ta mới thực sự cảm thấy ánh trăng thật tuyệt vời. Khi không gian tối om, con người mong chờ ở một thứ ánh sáng mới! Và khi nhìn thấy ánh trăng thì con người đột ngột nhận ra người bạn tri kỉ: vầng trăng tròn. Hai từ láy thình lình, đột ngột thể hiện sự bất ngờ, ngẫu nhiên của cuộc tri ngộ. Hoàn cảnh gặp gỡ đó càng khiến nhà thơ bàng hoàng.

Nhìn lên trăng mà lòng tràn ngập niềm xúc động. Những kỉ niệm một thời tưởng như đã xa vắng nay lại trở về:

Ngửa mặt nhìn lên mặt có cái gì rưng rưng như là đồng là bể như là sông là rừng Không phải là ngửa mặt nhìn lên trăng mà là ngửa mặt nhìn, lên mặt vì với Nguyễn Duy lúc này, trăng đích thực là một con người có gương mặt, có ánh nhìn và tâm trạng. Chính nhà thơ cũng không rõ mình đang nghĩ gì, chỉ biết rằng có cái gì rưng rưng. Có thể là đôi mắt rưng rưng hay có thể là sự thức dậy của tâm hồn con người. Một cảm giác vừa như buồn vui, vừa như mừng tủi trào lên trong lòng đôi bạn. Khoảng trời xưa hồi sinh, đưa Nguyễn Duy trở về với năm tháng đã qua cùng với sông, với đồng, với rừng… Nhà thơ tiếc nuối quá khứ, khao khát mong gặp lại cảm giác thân thuộc ngày xưa.

Như một người bạn ân nghĩa thuỷ chung, vầng trăng vẫn trong sáng, tròn đầy phúc hậu:

Trăng cứ tròn vành vạnh kể chi người vô tình ánh trăng im phăng phắc đủ cho ta giật mình.

Không trách móc hờn giận sự tình của con người, ánh trăng vẫn lặng lẽ soi bước ta đi. Trăng hiền hoà và bao dung như chính đồng bào, dân tộc ta vậy. Nỗi mặc cảm khiến nhà thơ phủ nhận chính mình: kể chi người vô tình. Không hẳn là con người vô tình, hờ hững với nhừng gì của quá khứ. Có chăng là do cuộc sống còn đang trong quá trình xây dựng với những lo toan bộn bề chi phối nhiều suy nghĩ của chúng ta. Quá khứ chỉ đi vào tiềm thức lặng yên chứ nó đâu có mất đi. Vì thế mới có cái giật mình của Nguyễn Duy ở câu thơ cuối. Phải chăng đó cũng là cái giật mình của chính chúng ta khi nhận ra được sự đánh thức từ Ánh trăng của Nguyễn Duy?

Bài thơ ra đời khi đất nước đã hoà bình. Những tháng ngày chiến đấu gian khổ của người chiến sĩ Nguyễn Duy đã không còn. Trong thời gian này tác giả là đại diện thường trú báo Văn nghệ tại Thành phố Hồ Chí Minh. Nhưng không vì thế mà Ánh trăng mất đi vẻ đẹp chân thực của mình. Dường như chẳng bao giờ Nguyễn Duy không mang trong mình nỗi niềm hướng về quá khứ, hướng về cội nguồn. Nó cho thấy một thái độ sống đẹp đẽ, thuỷ chung. Không chỉ có vậy, bài thơ Ánh trăng còn như một lời nhắn nhủ sâu kín, nhẹ nhàng: hãy sống và lao động hết mình nhưng đừng bao giờ phủ nhận quá khứ của dân tộc.

chúng tôi

Phân Tích Bài Thơ Ánh Trăng Của Tác Giả Nguyễn Duy

Đề bài: Phân tích bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy.

Bài làm

Trăng khơi nguồn cho suối ngầm bao tâm hồn để cất lên cảm hứng thi ca muôn đời. Ánh trăng vẫn là tri âm, tri kỉ cũng là tấm gương phản ánh, soi tỏ tâm hồn thi nhân nhìn nhận rõ sự đời. Tôi đã bắt gặp ánh trăng ấy trong bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy.

Nguyễn Duy sinh năm 1948, là người con đất Thanh Hóa giàu truyền thống cách mạng. Ông vừa là một chiến sĩ cách mạng hoạt động tích cực trong kháng chiến chống Mỹ, vừa là nhà thơ hiện đại tiêu biểu trong lịch sử văn học Việt Nam. Tài năng của Nguyễn Duy được đánh giá cao nhất trong bài thơ “Ánh trăng” phản ánh thực tế lối sống có phần tiêu cực của con người thời đại mới.

Toàn bộ bài thơ “Ánh trăng” chịu sự chi phối của những chiêm nghiệm triết lí trong một tâm hồn có chút trầm tĩnh, có chút ngang tàng. Nguyễn Duy bắt đầu bài thơ thông qua một đôi mắt xưa cũ:

“Hồi nhỏ sống với đồng

với sông rồi với biển

hồi chiến tranh ở rừng

vầng trăng thành tri kỷ

Trần trụi với thiên nhiên

hồn nhiên như cây cỏ

ngỡ không bao giờ quên

cái vầng trăng tình nghĩa”

Quá khứ đứa cháu đầy hoang dại và ám ảnh. Đó là một tuổi thơ tươi trong với những điều thân thuộc không chỉ riêng nhà thơ mà thân thuộc với mỗi con người Việt Nam như đồng ruộng, sông nước, biển lớn, vầng trăng, cỏ cây… Điệp từ “với” liên kết các hình ảnh tạo nên một chuỗi kí ức dài dằng dặc. Hình ảnh được nêu đều có độ bao trùm cả đất, trời, biển; cả đêm lẫn ngày lại mở ra không gian rộng lớn vô cùng vô tận và thời gian không có điểm kết. Ở phông nền ấy, hình ảnh vầng trăng – tri kỉ xuất hiện ở cuối mỗi khổ thơ đồng thời được ưu tiên sử dụng cả một khổ thơ để miêu tả về nó như một cách khẳng định vai trò của nó với nhà thơ. Trăng giống như người bạn thuở thiếu thời của nhà thơ, thậm chí người bạn ấy còn đẹp “trần trụi”, “hồn nhiên”, rất mực trữ tình, rất mực trong trẻo, hoang dại. Vầng trăng “tình nghĩa” suốt những năm tháng kí ức đã quen thuộc, gắn bó mật thiết đến mức thi nhân còn tưởng mình “không bao giờ quên”.

“Từ hồi về thành phố

quen ánh điện cửa gương

vầng trăng đi qua ngõ

như người dưng qua đường”

Vầng trăng xưa nay đã thành “người dưng qua đường”. Ta bắt gặp một điệu hồn đương lúc day dứt quá. Trăng tình nghĩa thế kia, đẹp thế kia mà nhà thơ nỡ quên đi chỉ vì “quen ánh điện cửa gương” của thành phố sầm uất. Thực trạng con người chạy theo xã hội mới xa hoa rồi bỏ quên lại truyền thống, cội nguồn là có thực. Vừa tự vấn, Nguyễn Duy đồng thời đáng trách cứ con người xã hội hiện đại bạc bẽo, “có mới nới cũ”.

Bài thơ giống như bài văn tự sự ngắn. Đoạn thơ tiếp giống như cao trào và cũng là nút thắt – mở của tác phẩm:

“Thình lình đèn điện tắt

phòng buyn-đinh tối om

vội bật tung cửa sổ

đột ngột vầng trăng tròn”

Theo cảm xúc nhân vật mà giọng thơ cũng thay đổi. Không còn sâu lắng, trầm ngâm nữa mà nhịp điệu trở nên nhanh, đột ngột hơn thông qua các từ “thình lình”, “bật tung”, “đột ngột”. Chỉ bốn câu thơ 5 chữ ngắn gọn nhưng có tới ba tính từ tình thái thể hiện cảm xúc bất ngờ tới choáng váng của tác giả. Khoảnh khắc điện ngắt, thứ ánh sáng nhân tạo của cuộc sống hiện đại trở nên vô dụng, con người mới chịu tìm kiếm ánh sáng từ thiên nhiên, vũ trụ. Ngay lúc đó, vầng trăng xuất hiện như cứu tinh.

Đối mặt với vị cứu tinh đó, con người không còn gì ngoài cảm giác xấu hổ:

“Ngửa mặt lên nhìn mặt

có cái gì rưng rưng

như là đồng là bể

như là sông là rừng

Trăng cứ tròn vành vạnh

kể chi người vô tình

ánh trăng im phăng phắc

đủ cho ta giật mình”

Hai từ “mặt” đứng trong cùng một câu thơ tạo nên cảm giác đối trọng, tiếp xúc trực tiếp với nhau giữa trăng và thi nhân. Cảm xúc xấu hổ biểu hiện trong hai chữ “rưng rưng”. Những đồng ruộng, bể trời, rừng rú… tuổi thơ trở lại trong tâm trí con người. Con người quên đi ánh trăng là một lần bạc bẽo, nhưng vì phát hiện ra lợi ích của nó nên mới tìm kiếm trở lại là lần bạc bẽo thứ hai. Do đó, tác giả thêm một lần day dứt vì trăng vẫn thủy chung, son sắt – “cứ tròn vành vạnh” nhưng người thì lại quá “vô tình”. Trăng vốn dĩ không biết noi và không thể phát ra bất kì âm thanh gì, nhưng trước ánh trăng “im phăng phắc”, tác giả lại “giật mình”. Người ta vì âm thanh đột ngột mà giật mình. Còn thi nhân, vì thấy bản thân bạc bẽo mà giật mình. Thê nên, chữ “đủ” cuối bài thơ càng in sâu hơn vào tâm trí người đọc. Bấy nhiêu đó thôi cũng chứng tỏ được con người hiện đại vì chạy theo ánh sáng xa hoa mà quên đi tình xưa nghĩa cũ, quên đi nguồn cội, quê hương. Đó cũng chính là thông điệp cảnh tỉnh rất nhân văn, nhân đạo của Nguyễn Duy.

Với bài thơ ngũ ngôn song không viết hoa đầu mỗi dòng thơ nên người đọc cảm giác thấy chất thú vị của một bài thơ gần như tự do trong ngôn từ, giọng điệu, nhịp điệu và cảm xúc. ” Ánh trăng ” của Nguyễn Duy đã chứng tỏ thiên chức phản ánh hiện thực, cảnh tỉnh lối sống, thanh lọc tâm hồn đồng thời cũng đậm bản chất trữ tình của thơ ca nói chung.

Hoài Lê

Bạn đang đọc nội dung bài viết Ôn Tập, Củng Cố Kiến Thức Bài Thơ “Ánh Trăng” Của Nguyễn Duy trên website Athena4me.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!