Cập nhật nội dung chi tiết về Nội Dung Và Nghệ Thuật Bài ‘Phò Giá Về Kinh’ mới nhất trên website Athena4me.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Đề bài: Nội dung và nghệ thuật bài ‘Phò giá về kinh’
Đất nước ta dù trải qua hàng ngàn năm Bắc thuộc nhưng trong lịch sử đã có rất nhiều chiến thắng vang dội. Mỗi lần chiến thắng là một lần in sâu vào sử sách Việt tinh thần yêu nước và hào khí ngút trời của quân dân ta, đồng thời làm rạng danh công lao to lớn của các vị vua, vị tướng thời xưa. Họ không chỉ trực tiếp ra quân mà còn sáng tác ra nguồn cổ vũ quân dân về tinh thần qua các tác phẩm văn học. Một trong số những tác phẩm tiêu biểu đó là bài thơ Tụng giá hoàn kinh sư (Phò giá về kinh) của vị tướng-nhà thơ Trần Quang Khải.
Dưới thời Trần không chỉ nhân dân ta mà các vị anh hùng còn viết nên bao trang sử vẻ vang hào hùng. Trần Quang Khải là một vị tướng tài giỏi, có công lớn trong cuộc kháng chiến chống quân Mông-Nguyên, sau chiến thắng Chương Dương, Hàm Tử và giải phóng kinh đô năm 1285, tác giả phò giá hai vua Trần về kinh đô Thăng Long và từ đó bài thơ này ra đời từ cảm hứng của ông. Xuyên suốt bài thơ là lối nói giản dị, cô đúc nhưng đã thể hiện rõ nét nhất hào khí chiến thắng và khát vọng thái bình của nhân dân ta.
Chương Dương cướp tướng giặc
Hàm Tử bắt quân thù
Hai chiến công Chương Dương, Hàm Tử đều được nhắc đến trong lời thơ đầu tiên. Các chiến công oanh liệt đó gợi lại sự kiện lịch sử nổi tiếng thời Trần, hai trận thắng lớn trên sông Hồng đại thắng quân xâm lược Mông-Nguyên. Ta có thể thấy niềm vui hân hoan tự hào sau chiến thắng vẻ vang của quân dân một nước tuy nhỏ nhưng ý chí lớn. Bằng cách đảo vị trí các địa danh lịch sử Chương dương, Hàm Tử gợi nhắc sự kiện và động từ mạnh lên đầu câu, hai câu đầu tiên đã diễn tả hiện thực kháng chiến chống giặc ngoại xâm và không khí chiến thắng oanh liệt của dân tộc ta. Đồng thời tác giả đã phản ánh sự thất bại thảm hại của kẻ thù khi mà tướng giặc bị “cướp” còn quân thù thì bị “bắt”. Từ đó càng nêu cao và làm nổi bật hơn chiến thắng vẻ vang của quân dân ta và ý chí chiến đấu hừng hực của đội quân chính nghĩa trước sự xâm lược phi nghĩa của lũ giặc.
Thái bình nên gắng sức
Non nước ấy ngàn thu.
Hai câu thơ cuối bài thể hiện khát vọng về một đất nước thái bình thịnh trị của tác giả nói riêng và của nhân dân cả nước nói chung. So với hai câu thơ trước thì hai câu sau có giọng điệu trầm lắng hơn, hiền dịu hơn, thể hiện sự suy ngẫm của tác giả. Ông dường như đang nghĩ về việc xây dựng đất nước thời bình, gây dựng đất nước tốt hơn, mong ước đất nước mãi mãi vững bền. “Thái bình nên gắng sức”, từ “nên” là lời động viên xây dựng đất nước sau cuộc chiến. “Non nước ấy ngàn thu” là hy vọng, là ước muốn của nhà thơ và của cả nhân dân nước ta khi bị sự nhòm ngó xâm lược của lũ cướp nước. Đó là khát vọng mạnh mẽ về một đất nước thái bình thịnh trị, về tương lai xây dựng đất nước bền vững muôn đời, một đất nước mạnh đánh thắng mọi sự xâm lược từ bên ngoài.
Về nghệ thuật, tác giả đã sử dụng một số biện pháp nghệ thuật như đảo từ, đối ý, lời thơ ngắn gọn súc tích, dồn nén cảm xúc, nhịp thơ hùng tráng, cùng với giọng điệu sảng khoái, hân hoan tự hào đã tạo nên nhiều xúc cảm cho người đọc.
Từ tâm tư của tác giả trong bài thơ, ta thấy được thời kì thái thịnh khá dài trong lịch sử dân tộc ta- thời Trần. Bởi thời ấy đã có những vị tướng không chỉ tài giỏi về chiến lược, văn thơ mà còn có tấm lòng một lòng chung thủy với đất nước. Lời thơ như thay lời của nhân dân ta: tự hào vinh danh những chiến công lừng lẫy của quân ta, đông thời khát khao và mong ước đất nước mình luôn hòa bình và phát triển.
TU KHOA TIM KIEM:
NOI DUNG VA NGHE THUAT
NOI DUNG VA NGHE THUAT BAI PHO GIA VE KINH
PHO GIA VE KINH
Nội Dung Và Nghệ Thuật Bài Sông Núi Nước Nam
Tham khảo trình bày giá trị nội dung và nghệ thuật qua bài thơ Sông núi nước Nam, nội dung chính của bài thơ mà tác giả muốn muốn người đọc hiểu được
Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ Sông núi nước Nam:
+ Về nội dung: khẳng định chủ quyền của dân tộc và ý chí quyết tâm bảo vệ chủ quyền ấy trước mọi kẻ thù xâm lược
+ Về nghệ thuật: thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, giọng thơ hùng hồn, đanh thép,..
Nội dung diễn đạt của bài Sông núi nước Nam
– Nội dung đầu tiên (2 câu đầu): Nước Nam là của người Nam. Điều đó được sách trời định sẵn, rõ ràng.
+ Thời đó (thế kỉ XI), xưng Nam quốc là có ý nghĩa sâu xa bởi sau một ngàn năm đô hộ nước ta, bọn phong kiến phương Bắc chỉ coi nước ta là một quận của chúng và không thừa nhận nưởc ta là một quốc gia độc lập, có chủ quyền về lãnh thổ. Tiếp đó, xưng Nam đế cũng có nghĩa như vậy. Đế là hoàng đế. Xưng Nam đế có nghĩa đặt vua của nước ta ngang hàng với hoàng đế Trung Hoa (vua các nước chư hầu chỉ được gọi là Vương). Khẳng định nước Nam là của người Nam là khẳng định chủ quyền độc lập của nước ta. Đó là một chân lí không gì có thể bác bỏ được. Đó còn là sự khẳng định tư thê làm chủ đất nước của dân tộc ta – một tư thế tự hào, hiên ngang.
+ Sự thật lịch sử trên lại được ghi “tại thiên thư” – điều ấy đã được trời định nên thiêng liêng và bất khả xâm phạm. Câu 2 nhuốm màu thần linh khiến cho sự khẳng định ở câu 1 tăng thêm.
– Nội dung thứ hai (2 câu sau): Kẻ thù không được xâm phạm. Xâm phạm tất sẽ thảm bại.
+ Sau khi khẳng định chủ quyền của dân tộc, câu 3 bộc lộ thái độ đối với bọn giặc cướp nưởc – đó là thái độ vừa ngạc nhiên, vừa khinh bỉ: Tại sao quân lính của một nước tự xưng là thiên triều lại dám ngang nhiên xâm phạm trái lệnh trời? Đúng là bọn giặc, lũ phản nghịch mới dám hành động như vậy (nghịch lỗ: giặc dữ).
+ Câu 4 như là lời trực tiếp nói với bọn giặc dám xâm phạm tới đạo trời và lòng người, rằng: chúng sẽ thua to và nhất định chuốc lấy thất bại thảm hại. Điều đó chứng tỏ người sáng tác có niềm tin sắt đá là sẽ có đủ sức mạnh để bảo vệ chân lí, bảo vệ chính nghĩa, bảo vệ đất nước. Hai câu sau khẳng định một lần nữa chân lí về chủ quyền độc lập của dân tộc. Chân lí ấy hợp ý trời và thuận lòng người.
Đặc sắc về nghệ thuật của bài Sông núi nước Nam
– Bài thơ được làm theo thể thất ngôn tứ tuyệt hàm súc, cô đọng với việc sử dụng từ ngữ chính xác. Các từ ngữ đế, cư, tiệt nhiên, thiên thư, thủ bại góp phần khẳng dịnh chân lí thiêng liêng cao cả. Nước Nam là của người Việt, nước Nam là một quốc gia độc lập, có chủ quyền.
– Bài thơ viết bằng chữ Hán, có nhiều yếu tố Hán Việt khiến cho lời thì ít nhưng ý vô cùng.
– Giọng điệu chung của bài thơ là đanh thép, dứt khoát như dao chém đá. Cảm xúc của người viết được dồn nén trong ý tưởng. Đó cũng là đặc điểm chung của thơ trung đại Việt Nam viết bằng chữ Hán – bày tỏ ý chí, quan điểm, tấm lòng,… Lời thơ như những câu nghị luận, mang tính chất tuyên ngôn và ẩn trong đó là cảm xúc tự hào dân tộc, là ý chí quyết tâm bảo vệ lãnh thổ, cương vực đất nước.
Huyền Chu (Tổng hợp)
Nêu Nội Dung Và Nghệ Thuật Bài Phú Sông Bạch Đằng
Nội dung – Bài Phú sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu làm theo lối phú cổ thể – loại phú có từ trước thời Đường, có vần, không nhất thiết phải có đối, cuối bài thường được kết bằng thơ. – Phú sông Bạch Đằng là niềm tự hào về truyền thống yêu nước, về những chiến công lịch sử thông qua những hoài niệm sâu sắc về quá khứ oai hùng. Đồng thời, nó cũng là niềm tự hào về truyền thống đạo lí nhân nghĩa, về tư tưởng nhân văn của dân tộc thông qua việc đề cao vai trò, vị trí và đức độ của con người. – Nhà thơ bộc lộ tư tưởng nhân văn sâu sắc tiến bộ: vinh và nhục, thắng và bại, tiêu vong và trường tồn,… – Niềm tự hào, tự tôn dân tộc của bài văn được tạo ra bởi những hình ảnh nghệ thuật phóng khoáng, giàu sức gợi kết hợp trong những câu văn vừa hào sảng, vừa vang vọng vừa đậm chất suy tư.
Nghệ thuật – Cách miêu tả khái quát, ước lệ kết hợp với tả thực trong đoạn mở đầu: – Ước lệ: Nguyên Tương, Vũ Huyệt, Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt, đầm Vân Mộng; sóng kình, muôn dặm, đuôi trĩ, ba thu,… – Cảnh thực: cửa Đại Than, bến Đông Triều, sông Bạch Đằng, bờ lau san sát, bến lách đìu hiu,… – Thủ pháp liệt kê trùng điệp được sử hiệu quả. – Miêu tả không gian rộng lớn, thời gian liên hoàn: “giương buồm giong gió…, lướt bể chơi trăng…; sớm gõ thuyền…, chiều lần thăm…” – Làm nổi bật những kì tích: “Đây là chiến địa buổi Trùng Hưng nhị thánh bắt Ô Mã – Cũng là bãi đất xa thuở trước Ngô chúa phá Hoằng Thao”; “Tất Liệt thế cường, Lưu Cung chước dối,…” – Các hình ảnh đối nhau diễn tả không khí bừng bừng chiến trận (“Thuyền bè muôn đội tinh kì phấp phới – Hùng hổ sáu quân, giáo gươm sáng chói”), hay để miêu tả thế giằng co quyết liệt (“ánh nhật nguyệt chừ phải mờ – Bầu trời đất chừ sắp đổi”). – Về nghệ thuật chọn lọc hình ảnh, sử dụng điển tích Tác giả đã lựa chọn hình ảnh, điển tích diễn tả nổi bật sự thất bại của quân giặc, khẳng định một cách trang trọng tài trí của vua tôi nhà Trần:- “ Trận Xích Bích quân Tào Tháo tan tác tro bay – Trận Hợp Phì, giặc Bồ Kiên hoàn toàn chết trụi.”-“Hội nào bằng hội Mạnh Tân, có lương sư họ Lã – Trận nào bằng trận Dục Thuỷ, có quốc sĩ họ Hàn.” – Vần trong đoạn 1 và 2: – Vần lưng: vơi – chơi, lâu – đâu – Vần chân: Việt – biết – thiết – Vần gián cách: nhiều – Triều – chiều, đối – đổi – dối – lối – nổi, Hàn – nhàn – chan. – Ngôn ngữ tráng lệ, giàu hình ảnh; tác giả sử dụng điển tích, điển cố rất tài tình
Giá Trị Nội Dung Và Nghệ Thuật Của Bài Thơ Ánh Trăng (Nguyễn Duy)
Hướng dẫn nêu và phân tích giá trị về nội dung và nghệ thuật của bài thơ Ánh trăng (Nguyễn Duy), nhận xét về những đặc sắc nghệ thuật và ý nghĩa nội dung bài thơ.
Bạn đang tìm tài liệu phân tích giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ Ánh trăng? Không cần tìm thêm nữa, Đọc Tài Liệu tổng hợp và gửi đến các bạn những ý cơ bản nhất về đặc sắc nội dung và nghệ thuật của bài thơ Ánh trăng giúp bạn làm bài tốt hơn với đề tài này.
Giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ Ánh trăng (Nguyễn Duy)
1. Giới thiệu về tác giả, tác phẩm
– Nêu ngắn gọn vài nét về nhà thơ Nguyễn Duy
– Bài thơ trích từ tập thơ cùng tên của Nguyễn Duy được viết vào năm 1978 tại TP. Hồ Chí Minh.
2. Giá trị nội dung
– Vầng trăng trong bài thơ không đơn thuần là vầng trăng thiên nhiên trên bầu trời, mà đó là trăng tình, trăng nghĩa của tuổi thơ trong thời chiến tranh và hiện tại. Vì vậy, bài thơ đã lay động lòng người về một triết lí sống sâu sắc.
– Ý nghĩa của vầng trăng trong từng quãng đời của tác giả
+ Vầng trăng tuổi thơ: Trăng gắn bó với tác giả từ thuở ấu thơ. Trăng gắn liền với đồng ruộng, dòng sông, biển cả và trăng luôn bên cạnh như một người bạn thuỷ chung. Điều đó nhằm biểu hiện niềm hạnh phúc của tuổi thơ gắn liền với vầng trăng thân thương.
+ Vầng trăng trong chiến tranh: Trăng được miêu tả trong sự suy ngẫm của nhà thơ. Khi xa quê đi vào cuộc chiến, nỗi nhớ thương chợt hiện về đến quay quắt tâm hồn và vì vậy, đến bây giờ – khi đối diện với cuộc chiến khốc liệt, trăng mới thực sự trở thành là người bạn tri kỉ, tri âm của tác giả. Khi trăng xuất hiện, thì nhịp thơ cũng chậm lại như thủ thỉ tâm tình “hồn nhiên như cây cỏ” và ân tình ấy “ngỡ không bao giờ quên – cái vầng trăng tình nghĩa”.
+ Vầng trăng thời bình giữa thành phố phồn hoa. Thật xót xa cho vầng trăng tuổi thơ, vầng trăng đi bên nhau một thời chinh chiến như tri kỉ, vậy mà khi người ta sống giữa phồn hoa đô thị thì vầng trăng “tình nghĩa” bị lãng quên: “vầng trăng đi qua ngõ – như người dưng qua đường”. Thế mới biết hoàn cảnh đã tác động ghê gớm đến hành vi sống của con người. Hình ảnh nhân hoá vầng trăng lặng lẽ đi qua ngõ như lời nhắc nhở nhẹ nhàng mà thấm thía: mọi người hãy sống có tình với nhau hơn.
– Tác giả gặp lại vầng trăng
+ Trong tình huống “phòng buyn – đinh tối om” vầng trăng xuất hiện thật bất ngờ đã khơi dậy những kỉ niệm đã qua làm bàng hoàng tâm hồn tác giả. Cấu trúc thơ song hành, nhịp thơ như thúc hối, niềm vui oà vỡ, kỉ niệm đẹp ùa về làm sống lại một thời đã qua bằng giọng thơ chân thành tha thiết, khiến người đọc nhận ra vẻ đẹp nhân văn trong tâm hồn nhà thơ qua vầng trăng tình nghĩa. Vầng trăng soi sáng những tâm hồn lãng quên.
3. Giá trị nghệ thuật
– Kết cấu: Sự chung thể thơ năm chữ, mỗi khổ bốn dòng thơ và chữ đầu dòng thơ không viết hoa.
– Giọng điệu
+ Giọng thơ không hoa mỹ, không lộng ngữ mà như lời thủ thỉ tâm tình tự nhiên chân thành, như sự trải lòng, như đang độc thoại. Chính điều đó tạo nên sự truyền cảm sâu sắc của bài thơ.
+ Với giọng điệu và kết cấu như thế, nhà thơ nhằm gửi gắm lời nhắn nhủ về những năm tháng đã qua của cuộc đời người lính như một kỉ niệm không thể nào quên, không được phép quên, để nhắc nhở mọi người sống ân tình thuỷ chung, uống nước nhớ nguồn.
– Bài thơ có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa trữ tình và tự sự, hình ảnh thơ vừa cụ thể, vừa sinh động vừa giàu tính biểu cảm (hình ảnh trăng).
+ Bài thơ mang dáng dấp một câu chuyện nhỏ, một lời tâm tình kể theo trình tự thời gian. Dòng cảm hứng trữ tình của nhà thơ men theo mạch tự sự đó. Ở quãng thời gian quá khứ đã có một sự biến đổi, một sự thực đáng chú ý: bắt đầu từ hồi ức về “hồi nhỏ”, “hồi chiến tranh” sống gần gũi, gắn bó với thiên nhiên, với vầng trăng: “ngỡ không bao giờ quên – cái vầng trăng tình nghĩa”. Tiếp đó là sự đổi thay của hoàn cảnh hiện tại: “Từ hồi về thành phố”, con người sống với những tiện nghi hiện đại mà quên đi vầng trăng: “vầng trăng đi qua ngõ – như người dưng qua đường”.
Tâm Phương (Tổng hợp)
Bài Văn Phân Tích Nét Đặc Sắc Về Nội Dung Và Nghệ Thuật Trong Bài Thơ
Đề bài: Phân tích nét đặc sắc về nội dung và nghệ thuật trong bài thơ Qua đèo Ngang
Phân tích nét đặc sắc về nội dung và nghệ thuật trong bài thơ Qua đèo Ngang
Bài văn mẫu Phân tích nét đặc sắc về nội dung và nghệ thuật trong bài thơ Qua đèo Ngang
Bà Huyện Thanh Quan là một trong số những nữ sĩ tài danh xuất sắc của nền văn học trung đại Việt Nam, tuy nhiên những sáng tác của bà còn tồn tại đến ngày nay không còn nhiều. Có thể nói, bài thơ Qua đèo Ngang là một trong số những sáng tác xuất sắc nhất của bà. Ra đời khi Bà Huyện Thanh Quan lần đầu tiên xa nhà, xa quê hương, vào kinh đô Huế nhận chức “cung trung giáo tập”, bài thơ mang những nét đặc sắc cả về nội dung và nghệ thuật.
Trước hết, bài thơ đã vẽ nên một cảnh tượng, một bức tranh Đèo Ngang vừa thoáng đãng, vừa heo hút, hoang sơ nhưng vẫn thấp thoáng ở đó bóng hình, sự sống của con người. Mở đầu bài thơ cảnh tượng Đèo Ngang thoáng hiện lên nỗi buồn hiu quạnh.
Bước tới Đèo Ngang bóng xế tàCỏ cây chen lá đá chen hoa
Hai câu thơ mở đầu bài thơ đã gợi lên thời gian, không gian nghệ thuật cho bài thơ, để rồi, từ trong khoảng không gian, thời gian ấy cảnh tượng đèo Ngang cứ thế dần hiện ra. Thời gian trong bài thơ được gợi lên thông qua cụm từ “bóng xế tà”. Có thể thấy đó là một buổi chiều chạng vạng – khoảng thời gian thường gợi lên trong mỗi người nỗi buồn man mác với nỗi trống vắng, cô đơn. Không chỉ là thời gian chiều tà, bài thơ còn gợi lên một không gian cảnh vật nơi đèo Ngang rộng lớn, mênh mông – sự rộng lớn của không gian càng làm tăng thêm nỗi buồn và sự trống vắng. Và để rồi, trong khoảng không gian rộng lớn ấy, từng cảnh vật cứ thế chen chúc nhau mọc lên. Sự chật chội, chen chúc ấy của cảnh vật được thể hiện rõ nét qua động từ “chen”. Động từ này không chỉ gợi lên sự chen chúc, hoang sơ, không có trật tự của cảnh vật mà qua đó nó còn thể sức sống của vạn vật trước sự khắc nghiệt của khí hậu và sự mênh mông của không gian. Thêm vào đó, bức tranh thiên nhiên nơi đèo Ngang còn hiện lên thấp thoáng sự sống của con người.
Lom khom dưới núi tiều vài chúLác đác bên sông chợ mấy nhà
Hai từ láy “lom khom”, “lác đác” để diễn tả dáng hình của chú tiều và những ngôi nhà cùng nghệ thuật đảo ngữ, chúng được đặt lên ở đầu câu đã nhấn mạnh sự thưa thớt, ít ỏi. Thêm vào đó, việc sử dụng các từ ngữ “vài”, “mấy” đã làm tăng thêm sự nhỏ bé của bóng hình con người và sự thưa thớt, hoang vắng của cảnh vật. Để rồi từ những hình ảnh và từ ngữ ấy, tác giả đã gợi nên một bức tranh cảnh vật thưa thớt, hoang vắng dẫu đã có ánh lên sự sống của con người. Như vậy, bài thơ Qua đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan đã vẽ nên một bức tranh cảnh vật đèo Ngang lúc chiều tà rộng lớn, mênh mông, thấp thoáng hiện lên bóng hình của con người, của sự sống nhưng vẫn còn hoang vắng, đìu hiu, gợi lên cảm giác man mác buồn và sự vắng lặng, cô đơn.
Không dừng lại ở đó, bài thơ Qua đèo Ngang còn thể hiện tâm trạng và nỗi lòng của nhà thơ.
Nhớ nước đau lòng con quốc quốcThương nhà mỏi miệng cái gia gia
Hai câu thơ đã cho thấy nghệ thuật sử dụng từ ngữ điêu luyện và tài tình của nữ sĩ Bà Huyện Thanh Quan – chữ quốc là nước là từ đồng âm với từ “cuốc” – chỉ một loài chim và “gia gia” là từ có âm gần giống với loài chim đa đa. Với nghệ thuật chơi chữ tài năng, hai câu thơ đã nói lên tâm trạng của bà vào thời điểm bước tới đèo Ngang. m thanh văng vẳng của hai loài chim ấy phải chăng cũng chính là nỗi lòng của bà ngay lúc này – nỗi “nhớ nước”, “thương nhà”. Đồng thời, nỗi lòng ấy càng được tỏ rõ và nhấn mạnh khi tác giả khéo léo sử dụng nghệ thuật đảo ngữ, đưa hai từ “nhớ nước”, “thương nhà” lên đầu hai câu thơ.
Thêm vào đó, bài thơ còn diễn tả một cách trực tiếp nỗi cô đơn của nữ thi sĩ qua hai câu thơ kết thúc bài thơ.
Dừng chân đứng lại trời, non, nướcMột mảnh tình riêng, ta với ta
Giữa khoảng không gian rộng lớn của đất trời, dường như càng làm tô đậm thêm sự nhỏ bé, cô đơn của tác giả. Thêm vào đó, những sự vật tưởng như luôn song hành, đi cùng và quyện hòa vào nhau nên lại chia lìa, xa cách nhau – điều này thể hiện rõ nét qua việc sử dụng các dấu phẩy, tách các sự vật “trời”, “non”, “nước’. Dường như, chính cái nhìn chia lìa, chính tâm trạng của tác giả đã có tác động sâu sắc tới cái nhìn đầy sự chia cách ở của cảnh vật. Và để rồi, câu thơ kết thúc bài thơ như một tiếng thở dài diễn tả trực tiếp nỗi niềm của nhà thơ. Không gian rộng lớn nhưng nơi đây chỉ có “mảnh tình riêng” – chỉ một mảnh tình riêng “ta với ta”. Nếu như “ta” thường dùng để chỉ cái chung cho cả cộng đồng, tập thể thì giờ đây nó chỉ còn là cái cá nhân, cái riêng của tác giả. Để rồi, hai câu thơ cuối đã cho chúng ta thấy nỗi cô đơn, bơ vơ, lạc lõng giữa cái mênh mông, bao la, rộng lớn của thiên nhiên. Như vậy, bài thơ đã cho chúng ta thấy nỗi niềm của tác giả khi bước tới đèo Ngang – nỗi nhớ nước, nhớ nhà và nỗi cô đơn, lạc lõng.
Không chỉ thành công về mặt nội dung, bài thơ Qua đèo Ngang còn hấp dẫn bạn đọc bởi những nét độc đáo, đặc sắc về nghệ thuật. Trước hết, bài thơ đã đạt đến sự chuẩn mực trong việc sử dụng thể thơ Đường luật. Với thể thơ thất ngôn bát cú, mặc dù đã được Việt hóa, song bài thơ không những tuân thủ một cách nghiêm ngặt mà còn đạt đến độ chuẩn mực của thể thơ này về niêm, luật, vần với ngôn ngữ trau chuốt, giàu giá trị. Thêm vào đó, thành công của bài thơ còn ở nghệ thuật tả cảnh ngụ tình được sử dụng tài năng và đem đến hiệu quả nghệ thuật to lớn. Ẩn sau bức tranh cảnh vật nơi đèo Ngang vào buổi xế chiều đã thể hiện một cách rõ nét nỗi niềm tâm trạng – nỗi buồn man mác của nhà thơ khi phải rời xa quê hương. Và cuối cùng, nghệ thuật đảo ngữ, chơi chữ cùng việc sử dụng các từ láy góp phần không nhỏ vào thành công của tác phẩm.
Tóm lại, bài thơ Qua đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan với những nét đặc sắc về nghệ thuật đã vẽ nên bức tranh cảnh vật chiều tà nơi đèo Ngang rộng lớn, mênh mông, đâu đó hiện lên sự sống của con người nhưng vẫn còn hoang dại và để rồi từ đó thể hiện rõ nét nỗi niềm tâm trạng của nữ thi sĩ.
Bạn đang đọc nội dung bài viết Nội Dung Và Nghệ Thuật Bài ‘Phò Giá Về Kinh’ trên website Athena4me.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!