Cập nhật nội dung chi tiết về Những Điểm Mới Của Luật Doanh Nghiệp 2014 ? mới nhất trên website Athena4me.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Theo quy định tại Khoản 22 Điều 4 Luật doanh nghiệp 2005 thì Doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp trong đó Nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ“và đã có sự thay đổi là đến Khoản 8 Điều 4 Luật doanh nghiệp 2014 thì quy định “Doanh nghiệp nhà nước là là doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% Vốn điều lệ”
Luật doanh nghiệp 2014 đã điều chỉnh và cụ thể hóa loại hình doanh nghiệp xã hội tại Điều 10, qua đó để chúng ta hiểu được doanh nghiệp xã hội cũng là một trong những loại hình doanh nghiệp thông thường, là pháp nhân và hoạt động chịu sự điều chỉnh của Luật doanh nghiệp và khác với các loại hình doanh nghiệp khác ở mục đích hoạt động, phân chia và sử dụng lợi nhuận.
3. Bổ sung quy định về nộp Phiếu lý lịch tư pháp cho cơ quan đăng ký kinh doanh
Tại Khoản 2 Điều 18 Luật doanh nghiệp 2014 quy định: “Trường hợp Cơ quan Đăng ký kinh doanh có yêu cầu, người đăng ký thành lập doanh nghiệp phải nộp Phiếu lý lịch tư pháp cho Cơ quan đăng ký kinh doanh”.
5. Hồ sơ đăng ký doanh nghiệp đã tách biệt thành lập doanh nghiệp và điều kiện kinh doanh
Luật Doanh nghiệp 2014 quy định trong hồ sơ đăng ký doanh nghiệp cho phép các cá nhân, tổ chức thành lập doanh nghiệp, còn điều kiện về ngành nghề kinh doanh, vốn pháp định, chứng chỉ hành nghề, …phải tuân thủ mới được làm.
Luật doanh nghiệp 2014 đã chính thức bãi bỏ nội dung Giấy chứng nhận đầu tư đồng thời là Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh theo quy định tại Điều 20 Luật doanh nghiệp 2005. Theo đó, các nhà đầu tư nước ngoài muốn thành lập doanh nghiệp tại Việt Nam đều phải được cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư sau đó sẽ thành lập doanh nghiệp theo quy định của Luật doanh nghiệp (Điểm c Khoản 4 Điều 22 Luật doanh nghiệp 2014).
Tại Điều 27 Luật doanh nghiệp 2014 đã rút ngắn thời hạn cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp chỉ còn trong thời hạn 03 ngày làm việc so với 05 ngày làm việc quy định tại Nghị định 43/2010 về đăng ký doanh nghiệp.
Theo Điều 29 Luật doanh nghiệp 2014 thì Nội dung Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp đã bỏ mục ngành nghề kinh doanh, vốn pháp định, danh sách cổ đông sáng lập Công ty cổ phần,…Theo đó, khi thay đổi ngành, nghề kinh doanh; thay đổi cổ đông sáng lập đối với công ty cổ phần và cổ đông là nhà đầu tư nước ngoài,… doanh nghiệp chỉ cần thông báo với cơ quan đăng ký kinh doanh để được bổ sung trong hồ sơ đăng ký doanh nghiệp mà không phải đăng ký thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp để được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp mới như Luật doanh nghiệp 2005 (theo quy định tại Điều 32 Luật Doanh nghiệp năm 2014).
Đây có thể coi là điểm đột phá của Luật doanh nghiệp 2014 so với Luật doanh nghiệp 2005, theo đó Điều 44 Luật doanh nghiệp 2014 cho phép doanh nghiệp được quyền quyết định về hình thức, số lượng và nội dung con dấu thay cho quy định Luật doanh nghiệp 2005 việc cấp, sử dụng con dấu của doanh nghiệp do Bộ Công an quy định. Trước khi sử dụng, doanh nghiệp chỉ cần thông báo mẫu dấu với cơ quan đăng ký kinh doanh để đăng tải công khai trên Cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp mà không phải đăng ký với cơ quan Công an theo Luật doanh nghiệp 2005.
III. CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN HAI THÀNH VIÊN TRỞ LÊN
Tại Điều 48 Luật Doanh nghiệp năm 2014 đã quy định thống nhất thời hạn phải thanh toán đủ phần vốn góp khi thành lập công ty, quy định rút ngắn thời hạn góp vốn đối với chủ sở hữu, thành viên công ty TNHH phải góp đủ và đúng loại tài sản như đã cam kết khi đăng ký thành lập doanh nghiệp trong thời hạn 90 ngày, kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp như loại hình Công ty cổ phần thay vì quy định tại Luật doanh nghiệp 2005, Nghị định 102/2010 hướng dẫn thi hành Luật doanh nghiệp về thời hạn góp vốn tối đa đối với Công ty TNHH một thành viên và hai thành viên trở lên là 36 tháng.
Quy định tại Điều 59 Luật doanh nghiệp 2014 về điều kiện tiến hành họp Hội đồng thành viên so với Điều 51 Luật doanh nghiệp 2005 có sự thay đổi về tỷ lệ trong cuộc họp lần thứ nhất, cụ thể Luật doanh nghiệp 2005 quy định tỷ lệ họp lần thứ nhất được tiến hành khi có số thành viên dự họp đại diện ít nhất 75% Vốn điều lệ, thì đến Luật doanh nghiệp 2014 đã giảm tỷ lệ này xuống còn 65% Vốn điều lệ.
Luật doanh nghiệp 2014 cho phép Công ty TNHH một thành viên được giảm Vốn điều lệ thay bằng quy định tại Điều 76 Luật doanh nghiệp 2005 quy định Công ty TNHH một thành viên không được giảm Vốn điều lệ, cụ thể Khoản 1 Điều 87 Luật doanh nghiệp 2014 quy định như sau:
a) Hoàn trả một phần vốn góp trong vốn điều lệ của công ty nếu đã hoạt động kinh doanh liên tục trong hơn 02 năm, kể từ ngày đăng ký doanh nghiệp và bảo đảm thanh toán đủ các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác sau khi đã hoàn trả cho chủ sở hữu;
Luật doanh nghiệp 2014 bổ sung Chương IV Doanh nghiệp Nhà nước. Đây là quy định hoàn toàn mới so với Luật Doanh nghiệp năm 2005.
1. Xuất hiện thành viên Hội đồng quản trị độc lập trong cơ cấu tổ chức quản lý công ty cổ phần
Điều 134 Luật doanh nghiệp 2014 đã bổ sung thêm điều kiện đối với công ty cổ phần có cơ cấu tổ chức quản lý theo mô hình không có Ban kiểm soát thì ít nhất 20% số thành viên Hội đồng quản trị phải là thành viên độc lập và có Ban kiểm toán nội bộ trực thuộc Hội đồng quản trị.
Ai sẽ muốn làm thành viên Hội đồng quản trị độc lập? Nên chăng Luật doanh nghiệp quy định riêng giữa việc bầu thành viên HĐQT thông thường và bầu thành viên HĐQT độc lập hoặc bổ sung quy định vào Luật doanh nghiệp 2014 là thành viên Hội đồng quản trị có số phiếu bầu thấp nhất sẽ làm thành viên Hội đồng quản trị độc lập bởi thực tế rất ít thành viên HĐQT muốn làm thành viên HĐQT độc lập.
Theo quy định tại Điều 98 Luật doanh nghiệp 2005 thì danh sách cổ đông có quyền dự họp ĐHĐCĐ được lập khi có quyết định triệu tập và phải lập xong chậm nhất 30 ngày trước ngày khai mạc ĐHĐCĐ nếu Điều lệ công ty không quy định một thời hạn ngắn hơn thì đến Điều 137 Luật doanh nghiệp 2014 quy định danh sách cổ đông có quyền dự họp ĐHĐCĐ được lập không sớm hơn 05 ngày trước ngày gửi giấy mời họp ĐHĐCĐ nếu Điều lệ công ty không quy định một thời hạn khác dài hơn.
Nếu như Điều 102 Luật doanh nghiệp 2005 quy định
1. Cuộc họp Đại hội đồng cổ đông được tiến hành khi có số cổ đông dự họp đại diện ít nhất 65% tổng số cổ phần có quyền biểu quyết; tỷ lệ cụ thể do Điều lệ công ty quy định.
thì đến Điều 141 Luật doanh nghiệp 2014, tỷ lệ trên đã giảm xuống còn 51% và 33%.
Điều 104 Luật doanh nghiệp 2005 quy định:
Điều 144 Luật doanh nghiệp 2014 quy định tỷ lệ trên thay đổi lần lượt như sau: 51%- 65%- 51%. Quy định như vậy là phù hợp với thông lệ quốc tế Nghị quyết số 71 /2006/QH11 của Quốc hội ngày 29 tháng 11 năm 2006.
Luật doanh nghiệp 2014 bổ sung quy định rõ hơn về hình thức công ty mẹ – công ty con và các quy định hạn chế sở hữu vốn góp của công ty mẹ và công ty con, cụ thể tại Điều 189 Luật doanh nghiệp 2014:
Như vậy, theo quy định trên thì công ty con trong cùng một nhóm công ty không được cùng nhau góp vốn, mua cổ phần để sở hữu chéo lẫn nhau và cấm công ty con đầu tư, góp vốn mua cổ phần của công ty mẹ. Quy định như vậy, hạn chế được rủi ro gì? Và gây khó khăn gì cho doanh nghiệp?
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 165 Luật Doanh nghiệp năm 2005 thì có 8 trường hợp doanh nghiệp bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và bị xoá tên trong sổ đăng ký kinh doanh nhưng đến Điều 211 Luật Doanh nghiệp năm 2014 đã giảm xuống còn 5 trường hợp bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.
Những Điểm Mới Của Luật Doanh Nghiệp Năm 2014
LUẬT DOANH NGHIỆP 2014 VÀ NHỮNG ĐIỂM MỚI Luật Doanh nghiệp và quyền tự do trong kinh doanh
Ngày 01/7/2015 tới đây Luật Doanh nghiệp được ban hành năm 2014 sẽ có hiệu lực. Một trong những văn bản luật được đánh giá là có rất nhiều những điểm mới, đánh dấu sự cải cách trong tư duy quản lý Nhà nước cũng như thúc đẩy đưa các quy định của Hiến pháp năm 2013 đi vào cuộc sống.
Luật Doanh nghiệp 2014 đã kế thừa những quy định còn phù hợp đã và đang đi vào cuộc sống của Luật Doanh nghiệp năm 2005 nhưng cũng đã đưa ra các giải pháp nhằm tháo gỡ những hạn chế, bất cập, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp cũng như phù hợp với các thông lệ quốc tế.Tại điều 33 Hiến pháp năm 2013 có quy định “mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm” chính là tiền đề để tại Luật Doanh nghiệp 2014, Nhà nước đã trao cho doanh nghiệp được tự do, thỏa thuận dựa trên các quy định của pháp luật. Doanh nghiệp có thể chủ động lựa chọn những mô hình, phương thức sao cho phù hợp với hoạt động, nguồn lực của doanh nghiệp. Ví dụ tại điều 134 Luật Doanh nghiệp năm 2014 có quy định về mô hình tổ chức doanh nghiệp của công ty cổ phần đã cho phép doanh nghiệp được lựa chọn giữa 2 kiểu mô hình tổ chức có Ban Kiểm soát hay có Ban Kiểm toán nội bộ. Tuy rằng cho phép doanh nghiệp lựa chọn nhưng vẫn có thể đảm bảo vấn đề kiểm tra nội bộ của doanh nghiệp mà lại có thể giúp doanh nghiệp cắt giảm 1 phần chi phí.
Và điểm đáng được các doanh nghiệp chú ý đó chính là quyền được có nhiều người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp. Trước đây mỗi doanh nghiệp (công ty TNHH và ) chỉ được phép có 1 người đại diện theo pháp luật dẫn tới nhiều hạn chế trong quá trình hoạt động, đặc biệt khi người đại diện của doanh nghiệp vắng mặt dẫn tới không có người đủ thẩm quyền giải quyết các vấn đề của doanh nghiệp. Bên cạnh đó nhìn nhận từ khía cạnh của Luật Thương mại thì thực tế trong quá trình triển khai cho thấy nhiều vụ tranh chấp xảy ra do người ký hợp đồng không đủ thẩm quyền, làm ảnh hưởng tới lợi ích chính đáng của các bên. Nhưng nhiều nhà làm luật cũng như doanh nghiệp lại đặt ra câu hỏi. Liệu khi cho phép doanh nghiệp có nhiều người đại diện như vậy thì có gặp vấn đề khó khăn trong quản lý hay không và liệu khi giải quyết các vấn đề trong doanh nghiệp, những người đại diện đó lấy gì để chứng minh thẩm quyền của mình trong khi chỉ có Điều lệ của Công ty mới là văn bản có giá trị pháp lý ghi nhận quyền hạn, thẩm quyền của từng người đại diện (trừ những cá nhân là người đại diện đương nhiên của doanh nghiệp).
Vậy, Luật Doanh nghiệp năm 2014 đã đưa ra những quy định giúp doanh nghiệp tự do hơn trong quá trình kinh doanh, tạo ra môi trường kinh doanh thông thoáng nhưng nó cũng đặt ra nhiều vấn đề cần phải xem xét thêm và cần cụ thể hóa để đảm bảo tối đa lợi ích chính đáng của các bên cũng như tạo ra hành lang pháp lý vững chắc hỗ trợ công tác quản lý Nhà nước.
Tác giả bài viết: Tư vấn luật Doanh Nghiệp
Những Điểm Mới Nổi Bật Của Luật Doanh Nghiệp 2014
Những điểm mới của Luật doanh nghiệp 2014. Luật Doanh nghiệp mới ra đời đã xóa bỏ được những hạn chế, thể hiện được ý chí, nguyện vọng của đại đa số doanh
Những điểm mới nổi bật của Luật Doanh Nghiệp 2014.
+ Luật doanh nghiệp 2014
Luật Doanh nghiệp năm 2014 có 10 chương, 213 điều, tăng 41 điều; chương IV quy định về Doanh nghiệp Nhà Nước với 22 điều là chương mới hoàn toàn; Điều 10 quy định về tiêu chí, quyền và nghĩa vụ của Doanh nghiệp xã hội cũng mới hoàn toàn.
Các điểm mới của Luật Doanh nghiệp 2014 được quy định cụ thể như sau:
1.Qui định mới về nội dung Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp:
Điều 29. Chuyển quyền sở hữu tài sản
1. Thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh và cổ đông công ty cổ phần phải chuyển quyền sở hữu tài sản góp vốn cho công ty theo quy định sau đây:
a) Đối với tài sản có đăng ký hoặc giá trị quyền sử dụng đất thì người góp vốn phải làm thủ tục chuyển quyền sở hữu tài sản đó hoặc quyền sử dụng đất cho công ty tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Việc chuyển quyền sở hữu đối với tài sản góp vốn không phải chịu lệ phí trước bạ;
b) Đối với tài sản không đăng ký quyền sở hữu, việc góp vốn phải được thực hiện bằng việc giao nhận tài sản góp vốn có xác nhận bằng biên bản. Biên bản giao nhận phải ghi rõ tên và địa chỉ trụ sở chính của công ty; họ, tên, địa chỉ thường trú, số Giấy chứng minh nhân dân, Hộ chiếu hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp khác, số quyết định thành lập hoặc đăng ký của người góp vốn; loại tài sản và số đơn vị tài sản góp vốn; tổng giá trị tài sản góp vốn và tỷ lệ của tổng giá trị tài sản đó trong vốn điều lệ của công ty; ngày giao nhận; chữ ký của người góp vốn hoặc đại diện theo uỷ quyền của người góp vốn và người đại diện theo pháp luật của công ty;
c) Cổ phần hoặc phần vốn góp bằng tài sản không phải là tiền Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng chỉ được coi là thanh toán xong khi quyền sở hữu hợp pháp đối với tài sản góp vốn đã chuyển sang công ty.
2. Tài sản được sử dụng vào hoạt động kinh doanh của chủ doanh nghiệp tư nhân không phải làm thủ tục chuyển quyền sở hữu cho doanh nghiệp.
Theo Điều 29 Luật Doanh nghiệp 2014 thì Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp được rút gọn chỉ còn 04 nội dung chính (trước đây theo Luật Doanh nghiệp 2005 là 10 nội dung chính) bao gồm:
– Tên doanh nghiệp và mã số doanh nghiệp;
– Địa chỉ trụ sở chính của doanh nghiệp;
– Thông tin người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp;
– Vốn điều lệ doanh nghiệp.
Đây là một điểm mới đặc biệt khi không ghi nhận ngành nghề kinh doanh trên giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, bỏ việc xác định vốn pháp định, chứng chỉ hành nghề khi đăng ký ngành nghề kinh doanh. Điều này ghi nhận quyền tự do kinh doanh tất cả ngành nghề mà pháp luật không cấm theo quy định tại Hiến pháp
Điều 13 Luật Doanh nghiệp 2014 qui định hoàn toàn mới về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp: “Công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần có thể có một hoặc nhiều người đại diện theo pháp luật. Điều lệ công ty quy định cụ thể số lượng, chức danh quản lý và quyền, nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.Doanh nghiệp phải bảo đảm luôn có ít nhất một người đại diện theo pháp luật cư trú tại Việt Nam. Trường hợp doanh nghiệp chỉ có một người đại diện theo pháp luật thì người đó phải cư trú ở Việt Nam và phải ủy quyền bằng văn bản cho người khác thực hiện quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật khi xuất cảnh khỏi Việt Nam. Trường hợp này, người đại diện theo pháp luật vẫn phải chịu trách nhiệm về việc thực hiện quyền và nghĩa vụ đã ủy quyền”. Theo đó, doanh nghiệp được có quyền có nhiều người đại diện theo pháp luật.
Theo Điều 44 Luật Doanh nghiệp 2014 thì doanh nghiệp có quyền quyết định về hình thức, số lượng và nội dung con dấu của doanh nghiệp theo quy định của pháp luật. Thay vì trước ngày 01/07/2015 doanh nghiệp phải đăng ký với cơ quan Công an thì kể ngày Luật Doanh nghiệp 2014 có hiệu lực doanh nghiệp chỉ cần thông báo mẫu dấu với cơ quan đăng ký kinh doanh để đăng tải công khai trên Cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp. Qui định này là một “cuộc cách mạng” về con dấu pháp nhân của doanh nghiệp. Nó mang tính tự chủ, tự quản lý và tự chịu trách nhiệm về dấu pháp nhân của doanh nghiệp. Việc này đã góp phần giải quyết rất nhiều vướng mắc, bất cập hiện nay về con dấu.
Cùng với Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp 2014 đã chính thức bãi bỏ nội dung Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư có thể đồng thời là Giấy CNĐKDN. Qua đó, các nhà đầu tư nước ngoài muốn thành lập doanh nghiệp tại Việt Nam đều phải được cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư sau đó sẽ thành lập doanh nghiệp theo quy định của Luật Doanh nghiệp.
Điều 13 Luật Doanh nghiệp 2014 qui định hoàn toàn mới về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp doanh nghiệp được có quyền có nhiều người đại diện theo pháp luật. “Công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần có thể có một hoặc nhiều người đại diện theo pháp luật. Điều lệ công ty quy định cụ thể số lượng, chức danh quản lý và quyền, nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.Doanh nghiệp phải bảo đảm luôn có ít nhất một người đại diện theo pháp luật cư trú tại Việt Nam. Trường hợp doanh nghiệp chỉ có một người đại diện theo pháp luật thì người đó phải cư trú ở Việt Nam và phải ủy quyền bằng văn bản cho người khác thực hiện quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật khi xuất cảnh khỏi Việt Nam. Trường hợp này, người đại diện theo pháp luật vẫn phải chịu trách nhiệm về việc thực hiện quyền và nghĩa vụ đã ủy quyền”.
chúng tôi định về các nguyên tắc, đăng ký vốn thực của công ty:
Theo qui định của Luật Doanh nghiệp 2014 Công ty TNHH một thành viên được phép giảm vốn điều lệ. Qui định này đã giải quyết được tình trạng vốn ảo không thể xử lý được như hiện nay.
Luật Doanh nghiệp 2014 chính thức thay đổi theo đúng thông lệ quốc tế khi giảm tỷ lệ dự họp từ 65% (Luật doanh nghiệp 2005 xuống còn 51%. Khi có số cổ đông dự họp đại diện ít nhất 51% tổng số phiếu biểu quyết là cuộc họp Đại hội đồng cổ đông được tiến hành. Đồng thời, Luật quy định về thành viên hội đồng quản trị độc lập, không tham gia điều hành trực tiếp doanh nghiệp; Bãi bỏ việc Đại hội đồng cổ đông bầu trực tiếp Chủ tịch hội đồng quản trị.
Luật Doanh nghiệp 2014 không yêu cầu các công ty cùng loại mới được hợp nhất, sáp nhập, chia, tách đồng thời quy định rõ ràng về quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm cũng như trình tự thủ tục, hồ sơ .v.v. Quy định này hết sức quan trọng chắc chắn sẽ thúc đẩy thị trường mua bán doanh nghiệp (M&A) rất sôi động hiện nay.
Luật Doanh nghiệp 2014 Bãi bỏ nhiều điều khoản thiếu tính thực thi và cản trở hoạt động của doanh nghiệp như: đăng ký danh sách cổ đông nắm giữ 5% vốn điều lệ công ty cổ phần, hoặc bãi bỏ việc gây cản trở cho hoạt động của Doanh nghiệp như cấm một người đã làm Giám đốc (Tổng Giám đốc) công ty cổ phần không được làm Giám đốc (Tổng Giám đốc) các loại hình doanh nghiệp khác. Đồng thời Luật mới cũng có các quy định giúp Doanh nghiệp rút khỏi thị trường nhanh hơn và rẻ hơn.
mong là những gì chúng tôi tư vấn nêu trên sẽ giúp cho quý khách có thêm những kiến thức tốt nhất về lĩnh lực vực pháp luật doanh nghiệp. Còn bất cứ vướng mắc gì quý khách vui lòng liên hệ Tổng đài tư vấn luật doanh nghiệp miễn phí 24/7: 19006500 để gặp luật sư tư vấn trực tiếp và yêu cầu cung cấp dịch vụ hoặc gủi thư qua địa chỉ Email: lienhe@luattoanquoc.com . Chúng tôi hy vọng sẽ nhận được ý kiến đòng góp của mọi người dân trên cả nước để chúng tôi ngày một chuyên nghiệp hớn.
Xin chân thành cảm ơn sự đồng hành của quý khách.
Những Điểm Đổi Mới Nổi Bật Của Luật Doanh Nghiệp 2014 So Với Luật Doanh Nghiệp 2005
Luật doanh nghiệp 2014 ra đời tiếp tục thừa kế, luật hóa những quy định còn phù hợp đã và đang đi vào cuộc sống của Luật doanh nghiệp 2005 đồng thời sửa đổi, bổ sung nhiều quy định mới nhằm tháo gỡ những hạn chế, bất cập của Luật cũ, tiếp tục tạp lập môi trường Đầu tư, kinh doanh thuận lợi, phù hợp với thông lệ quốc tế. Những điểm đổi mới nổi bật của Luật doanh nghiệp 2014 so với Luật doanh nghiệp 2005 đó là:
Tách riêng thủ tục thành lập doanh nghiệp với thủ tục về đầu tư dự án theo Luật Đầu tư
Cùng với Luật Đầu tư 2014, Luật Doanh nghiệp năm 2014 đã chính thức bãi bỏ nội dung Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư có thể đồng thời là Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. Theo đó, các nhà đầu tư nước ngoài muốn thành lập doanh nghiệp tại Việt Nam đều phải được cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư sau đó sẽ thành lập doanh nghiệp theo quy định của Luật Doanh nghiệp. Luật Doanh nghiệp 2014 đã tách riêng thủ tục thành lập doanh nghiệp với các thủ tục về đầu tư dự án. Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp là hình thức để Nhà nước ghi nhận sự hình thành và việc gia nhập thị trường của doanh nghiệp. Tại thời điểm thành lập doanh nghiệp, hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp chưa phát sinh, do vậy Luật đã tách biệt rõ giữa thủ tục thành lập doanh nghiệp với thủ tục đăng ký cấp giấy chứng nhận đầu tư và việc đảm bảo các điều kiện kinh doanh trong quá trình đi vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Thời gian cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp mới cho các loại hình doanh nghiệp, đơn vị trực thuộc của doanh nghiệp (chi nhánh, văn phòng đại diện, địa điểm kinh doanh); đăng ký thay đổi nội dung giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp được rút ngắn từ 05 ngày làm việc xuống còn 3 ngày làm việc, kể từ ngày nhận hồ sơ.
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 27 và Khoản 3 Điều 31 Luật Doanh nghiệp 2014:Thời hạn để Cơ quan Đăng ký kinh doanh xem xét tính hợp lệ của hồ sơ đăng ký doanh nghiệp và cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp mới; đăng ký thay đổi nội dung giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp là trong thời hạn 3 ngày làm việc, kể từ ngày nhận hồ sơ. Như vậy, so với Luật Doanh nghiệp năm 2005, thì thời hạn xem xét, cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp giảm 02 ngày làm việc.
Về Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp:Được thể hiện dưới hình thức văn bản hoặc bản điện tử.Theo quy định tại Điều 29 Luật Doanh nghiệp năm 2014 thì nội dung của Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp chỉ còn 4 nội dung chính: tên doanh nghiệp và mã số doanh nghiệp; địa chỉ trụ sở chính của doanh nghiệp; thông tin chi tiết nhân thân của cá nhân là người đại diện theo pháp luật, chủ DNTN, thành viên hợp danh, thành viên công ty và thông tin của thành viên tổ chức; vốn điều lệ của doanh nghiệp.
Như vậy, trong giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp sẽ không có nội dung ngành, nghề kinh doanh kinh doanh và danh sách cổ đông sáng lập (đối với Công ty cổ phần). Điều này dẫn đến việc khi thay đổi ngành, nghề kinh doanh; thay đổi cổ đông sáng lập đối với công ty cổ phần và cổ đông là nhà đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp chỉ phải thông báo với cơ quan đăng ký kinh doanh để được bổ sung trong hồ sơ đăng ký doanh nghiệp mà không phải đăng ký thay đổi nội dung đăng ký kinh doanh để được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp mới như hiện nay (Điều 32 Luật Doanh nghiệp năm 2014). Như vậy, mỗi khi Doanh nghiệp thay đổi, bổ sung nhành nghề kinh doanh; thay đổi cổ đông sáng lập đối với công ty cổ phần, sẽ không mất thời gian và thủ tục để chờ cấp lại Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.
Điều quan trọng hơn cả là việc bỏ ghi ngành nghề kinh doanh trong Giấy CNĐKDN; bỏ việc xác định vốn pháp định, chứng chỉ hành nghề … Điều này đã hiện thực hóa quyền tự do kinh doanh tất cả ngành nghề mà pháp luật không cấm theo quy định tại Hiến pháp, làm cho doanh nghiệp trở thành công cụ kinh doanh thực sự an toàn, đa công năng và rẻ hơn…
Theo quy định tại Điều 33 Luật Doanh nghiệp: Sau khi được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc khi thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp, doanh nghiệp phải công bố công khai trên Cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp. Đây là điểm mới trong lần sửa đổi này. Bởi theo quy định hiện nay, doanh nghiệp được lựa chọn phương thức công bố như đăng trên mạng thông tin doanh nghiệp của cơ quan đăng ký kinh doanh hoặc một trong các loại tờ báo viết hoặc báo điện tử trong 3 số liên tiếp.
Về Phiếu lý lịch tư pháp trong Hồ sơ đăng ký doanh nghiệp: Theo quy định tại Khoản 2 Điều 18 quy định: trong một số trường hợp, khi đăng ký thành lập doanh nghiệp, Cơ quan Đăng ký kinh doanh có thể yêu cầu người đăng ký thành lập doanh nghiệp phải nộp Phiếu lý lịch tư phápcho Cơ quan đăng ký kinh doanh.Đây là quy định mới của Luật Doanh nghiệp năm 2014. Tuy nhiên, về cơ bản phiếu lý lịch tư pháp không phải là tài liệu bắt buộc trong Hồ sơ đăng ký thành lập doanh nghiệp bởi nếu bắt buộc sẽ làm tăng thêm thời gian thành lập doanh nghiệp tạo ra gánh nặng chi phí tuân thủ rất lớn cho cả cơ quan nhà nước và doanh nghiệp, sẽ có tác động không thuận lợi cho môi trường đầu tư, kinh doanh ở nước ta.
Về vấn đề người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp: Theo quy định tại Khoản 2 Điều 13 Luật Doanh nghiệp năm 2014: Công ty TNHH và công ty cổ phần có thể có một hoặc nhiều người đại diện theo pháp luật. Như vậy, so với Luật Doanh nghiệp năm 2005, Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định Công ty hoàn toàn có thể tự quyết định, chỉ định một người đại diện theo pháp luật hoặc trong trường hợp cần thiết thì có quyền tự chủ quyết định việc có nhiều người đại diện theo pháp luật, số lượng, chức danh quản lý và quyền, nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp được quy định tại Điều lệ Công ty.
Ngoài ra theo quy định tại Khoản 7 Điều 13 Luật Doanh nghiệp 2014 quy định: Trong một số trường hợp đặc biệt, Tòa án có thẩm quyền có quyền chỉ định người đại diện theo pháp luật trong quá trình tố tụng tại Tóa án.
Về con dấu của doanh nghiệp: Theo quy định tại Điều 44 Luật Doanh nghiệp năm 2014: Doanh nghiệp có quyền quyết định về hình thức, số lượng và nội dung con dấu doanh nghiệp. Và trước khi sử dụng con dấu, doanh nghiệp có nghĩa vụ thông báo mẫu con dấu với Cơ quan đăng ký kinh doanh để đăng tải công khai trên Cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp.
Như vậy, đây là cách tiếp cận mới hoàn toàn về con dấu doanh nghiệp, dù chưa thể bỏ hoàn toàn việc sử dụng con dấu nhưng đã có bước cải cách lớn. Trước đây việc cấp, sử dụng con dấu của doanh nghiệp do Bộ Công an quy định thì nay theo Luật Doanh nghiệp 2014, doanh nghiệp Doanh nghiệp có quyền quyết định về hình thức, số lượng và nội dung con dấu của doanh nghiệp theo quy định của pháp luật. Thay vì phải đăng ký với cơ quan Công an như hiện nay, Doanh nghiệp chỉ cần thông báo mẫu dấu với cơ quan đăng ký kinh doanh để đăng tải công khai trên Cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp. Quy định này giúp doanh nghiệp đỡ phiền hà, tốn kém về chi phí, thời gian. Theo xu hướng phát triển phương thức giao dịch điện tử, thì việc dùng con dấu sẽ không còn ý nghĩa nữa. Vì vậy, việc cải cách về con dấu là hoàn toàn phù hợp với xu thế chung của thế giới. Hiện nay, con dấu doanh nghiệp còn bị ràng buộc bởi nhiều quy định về giao dịch trong một số bộ luật, nếu bỏ hoàn toàn sẽ phát sinh số lượng công việc rất lớn và có thể chưa đảm bảo chặt chẽ trong quản lý.
Về vốn điều lệ và thời hạn góp vốn của công ty:Luật Doanh nghiệp năm 2014quy định các nguyên tắc để xác định, đăng ký vốn thực góp của công ty, giải quyết tình trạng vốn không có thực (ảo) nhưng không thể xử lý được như hiện nay. Trong đó điểm mới nhất là cho phép Công ty TNHH một thành viên, công ty cổ phầnđược giảm vốn điều lệ.
Theo đó, Công ty TNHH một thành viên, công ty cổ phần, công ty TNHH hai thành viên trở lên nếu không góp đủ vốn điều lệ trong thời hạn quy định như đã cam kết khi đăng ký thành lập doanh nghiệp thì được quyền đăng ký điều chỉnh giảm vốn bằng giá trị số vốn thực góp. Trong trường hợp này, chủ sở hữu, thành viên, cổ đông chưa thanh toán hoặc chưa thanh toán đủ vốn điều lệ đã đăng ký góp, số cổ phần đã đăng ký mua phải chịu trách nhiệm tương ứng với tổng giá trị phần vốn góp, mệnh giá cổ phần đã đăng ký mua đối với các nghĩa vụ tài chính của công ty phát sinh trong thời hạn cam kết góp.
Trong quá trình hoạt động doanh nghiệp cũng có thể điều chỉnh giảm vốn bằng cách hoàn trả một phần vốn góp trong vốn điều lệ của Công ty theo các điều kiện quy định tại Luật Doanh nghiệp năm 2014.
Luật Doanh nghiệp năm 2014 áp dụng thống nhất thời hạn phải thanh toán đủ phần vốn góp khi thành lập công ty, quy định rút ngắn thời hạn góp vốn đối với chủ sở hữu, thành viên công ty TNHH phải góp đủ và đúng loại tài sản như đã cam kết khi đăng ký thành lập doanh nghiệp trong thời hạn 90 ngày, kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp trong khi quy định hiện hành về thời hạn góp vốn tối đa đối với Công ty TNHH một thành viên và hai thành viên trở lên là 36 tháng.
Về điều kiện tiến hành họp và thông qua nghị quyết Đại hội đồng cổ đông công ty:
Chính thức thay đổi theo đúng thông lệ quốc tế khi giảm tỷ lệ dự họp từ 65% (Luật Doanh nghiệp năm 2005) xuống còn 51%. Và các nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông được thông qua khi được số cổ đông đại diện cho ít nhất 51% tổng số phiếu biểu quyết của tất cả các cổ đông dự họp tán thành (Luật Doanh nghiệp năm 2005 là 65%; trường họp thông qua nghị quyết dưới hình thức lấy ý kiến bằng văn bản là ít nhất 75%).
Luật quy định về thành viên hội đồng quản trị độc lập, không tham gia điều hành trực tiếp doanh nghiệp; Bãi bỏ việc Đại hội đồng cổ đông bầu trực tiếp Chủ tịch hội đồng quản trị.
Về doanh nghiệp xã hội:Đây là một khái niệm mới được luật hóa quy định cụ thể tại Điều 10 Luật Doanh nghiệp năm 2014. Doanh nghiệp xã hội không phải là một loại hình doanh nghiệp mà cũng giống như doanh nghiệp thông thường khác được tổ chức và hoạt động theo một trong các loại hình doanh nghiệp nhất định như: công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn…, chỉ phân biệt ở mục tiêu hoạt động và mục đích việc sử dụng lợi nhuận của doanh nghiệp. Theo quy định tại Điều 10 Luật Doanh nghiệp năm 2014 thì doanh nghiệp xã hội là doanh nghiệp được đăng ký thành lập theo quy định của Luật này, mục tiêu hoạt động nhằm giải quyết vấn đề xã hội, môi trường vì lợi ích cộng đồng và sử dụng ít nhất 51% tổng lợi nhuận hằng năm của doanh nghiệp để tái đầu tư nhằm thực hiện mục tiêu xã hội, môi trường như đã đăng ký. Ngoài các quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2014, doanh nghiệp xã hội còn có một số quyền và nghĩa vụ quy định tại Khoản 2 Điều 10 Luật Doanh nghiệp .
Doanh nghiệp Nhà nước quy định tại Chương IV Luật Doanh nghiệp 2014. Đây làchương mới hoàn toànso với Luật Doanh nghiệp năm 2005: Khái niệm Doanh nghiệp nhà nước theo quy định tại Khoản 8 Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2014 đã có sự thay đổi so với trước đây: thay vì quy định Doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp trong đó Nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ thì Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định: Doanh nghiệp Nhà nước là doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ. Trong Chương này cũng nêu rõ hơn địa vị pháp lý tập đoàn kinh tế, bổ sung quy định rõ hơn về hình thức công ty mẹ – công ty con; cấm các công ty con trong cùng một nhóm công ty cùng nhau góp vốn, mua cổ phần để sở hữu chéo lẫn nhau; bổ sung quy định nhằm minh bạch hóa cơ cấu và mối quan hệ giữa các công ty trong tập đoàn kinh tế, như công khai điều lệ hoặc thỏa thuận về quy chế hoạt động chung tập đoàn….
Về tổ chức lại, thu hồi giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp:
Luật Doanh nghiệp năm 2014 không yêu cầu các công ty cùng loại mới được hợp nhất, sáp nhập, chia, tách đồng thời quy định rõ ràng về quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm cũng như trình tự thủ tục, hồ sơ thực hiện các loại thủ tục này. Luật Doanh nghiệp năm 2005 chỉ cho phép các công ty cùng loại hình mới được hợp nhất hay sáp nhập. Đây là điểm đổi mới hết sức quan trọng, điều này sẽ góp phần thúc đẩy thị trường mua bán doanh nghiệp (M&A) trong thời gian tới.
Luật Doanh nghiệp năm 2014 bỏ Chương quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp, thay bằng một vài điều khoản tại Chương X tổ chức thực hiện, theo đó các cơ quan nhà nước quản lý doanh nghiệp theo chức năng, nhiệm vụ quyền hạn đã được pháp luật chuyên ngành quy định, không phải và không cần thiết ghi điều đó vào Luật Doanh nghiệp.
Việc quy định biên bản cuộc họp có thể được ghi bằng bản giấy và có thể có thể ghi âm hoặc ghi và lưu giữ dưới hình thức điện tử khác đã có bước tiến bộ vượt bậc so với quy định cũ là chỉ ghi vào sổ biên bản. Luật cũng thống nhất cách hiểu về nhiều điểm mà từ trước tới nay gây nhiều tranh cãi như việc chốt lại địa điểm họp được xác định là nơi chủ tọa tham dự họp, mọi người không nhất thiết phải cùng ngồi họp một chỗ.
Luật hóa việc dùng mã số thuế làm mã số doanh nghiệp, chuyển đổi doanh nghiệp tư nhân thành công ty TNHH, tăng cường việc bảo vệ cổ đông nhỏ (cổ đông, nhóm cổ đông sở hữu ít nhất 1% số cổ phần phổ thông liên tục trong thời hạn 06 tháng có quyền tự mình hoặc nhân danh công ty khởi kiện …). Bãi bỏ nhiều điều khoản đã được chứng minh là hiệu quả thực thi rất thấp, như việc đăng ký danh sách cổ đông nắm giữ 5% vốn điều lệ công ty cổ phần, hoặc bãi bỏ việc gây cản trở cho hoạt động của Doanh nghiệp như cấm một người đã làm Giám đốc (Tổng Giám đốc) công ty cổ phần không được làm Giám đốc (Tổng Giám đốc Công ty khác.
Bạn đang đọc nội dung bài viết Những Điểm Mới Của Luật Doanh Nghiệp 2014 ? trên website Athena4me.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!