Đề Xuất 5/2023 # Nghị Luận: Từ Nhân Vật Ông Hai (Làng # Top 11 Like | Athena4me.com

Đề Xuất 5/2023 # Nghị Luận: Từ Nhân Vật Ông Hai (Làng # Top 11 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Nghị Luận: Từ Nhân Vật Ông Hai (Làng mới nhất trên website Athena4me.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

I. Mở Bài

Kim Lân là nhà văn rất am hiểu cuộc sống của người nông dân ở nông thôn miền Bắc. Tất cả các truyện của ông đều xoay quanh cảnh ngộ và sinh hoạt của người nông dân. Truyện Làng được Kim Lân sáng tác trong thời kì kháng chiến chống Pháp và đăng trên tạp chí văn nghệ năm 1948. Nhân vật chính của truyện là hình ảnh tiêu biểu và chân thực của người nông dân trong mới ngày đầu tiếp xúc với cách mạng, với lòng yêu làng, yêu nước sâu sắc, với sự hồ hởi say mê, tin yêu, chung thuỷ với kháng chiến, với Bác Hồ.

Ông hai nhân vật chính trong truyện là một người yêu làng, yêu nước tình yêu làng của ông có những nét đặc sắc, riêng biệt được thể hiện thành một đức tính đáng quý.

Là một nông dân suốt cuộc đời sống ở quê hương, gắn bó máu thịt với từng con đường, từng nếp nhà, thửa ruộng, từng ngọn cỏ, cành cây và biết bao người ruột thịt , xóm giềng, họ hàng gần xa, vậy mà giờ đây vì giặc ngoại xâm, ông 2 phải xa rời quê hương đi tản cư, sống nhờ nơi đất khách quê người. Do đó lòng ông đau đáu nhớ quê. Ban ngày lo bận việc sản xuất, ổn định cuộc sống, chiều rồi buổi tối ông hai lại sang hàng xóm giãi bày nỗi nhớ của mình.

Trong câu chuyện, ông không ngớt lời khoe những cái đẹp, điều hay ở quê hương mình. Làng Chợ Dầu quê ông đẹp lắm, đường là phong quang sạch sẽ, cái cổng làng rộng như cổng thanh… Ông khoe cả cái “sinh phần”- lăng mộ- của viên tổng đốc người làng, mặc dầu đó là một chứng tích đau khổ của dân làng, trong đó có ông. Đặc biệt là ông hai khoái nhất khoe và kể nhiều nhất là những ngày đầu CMT8. Quê hương được giải phóng, thoát khỏi ách cường hào phong kiến và lũ tay sai thực dân. Dân làng ông bắt đầu cuộc sống mới. Đêm đêm rậm rịch tiếng bước chân của đoàn du kích tập quân sự, sáng, chiều râm ran tiếng trẻ em học bài… lại cả những tiếng hát của thanh niên ngân vang trong những buổi cả làng bàn việc nước, việc dân… nghe những chuyện ấy, mọi người đều thông cảm với lòng nhớ quê da diết của ông.

Không chỉ nhớ mà ông còn luôn tự hào, cho rằng làng chợ Dầu của ông đẹp nhất nhì thiên hạ. Đó là một người yêu quê hương tha thiết bằng một tình cảm tự nhiên, hồn nhiên. Tình cảm đó bắt nguồn từ những kỉ niệm trong cuộc sống hằng ngày, từ những sự vật, con người gắn bó hàng ngày… Tình cảm đó thuần phác và trong sáng biết bao.

Khi nghe tin làng chợ dầu theo Tây ông hai “cổ nghẹn đắng lại, da mặt tê rân rân” . Trước hết là sự xót xa của ông về làng mình , sự phản bội của nơi chôn rau cắt rốn của mình . Ông lão tủi hổ, bàng hoàng trước sự việc đó . Tình yêu làng vẫn thắm thiết trong ông, làng chợ Dầu vẫn là nới ông gửi gắm sinh mệnh, danh dự và niềm hãnh diện , tự hào.

Vậy mà bây giờ… ông lão nghĩ tới việc trở về làng. Song ý nghĩ đó ông gạt phắt đi. Trong sự tuyệt vọng, đau khổ này, lối thoát về làng chợ Dầu loé lên như một tia hi vọng rồi lại tắt ngấm . Từ lâu ông yêu làng ông, mong được trở về với làng ông song trong ông tình yêu nước mạnh hơn , thiêng liêng hơn: không vì làng mà bỏ nước, bỏ kháng chiến.

Giữa sự giằng co trong tâm hồn , ông hai đã thốt lên đầy đau đớn song đầy quyết tâm: “Làng thì yêu thật đấy , nhưng làng theo Tây thì phải thù .. Anh em đồng chí biết cho bố con ông. Cụ Hồ trên đầu trên cổ xét soi cho bố con ông, cái lòng bố con ông là như thế đấy , có bao giờ dám đơn sai. Chết thì bao giờ dám đơn sai.” Khi ông tâm sự với con, ông Hai muốn bảo con nhớ cau”nhà ta ở làng chợ dầu”. Đồng thời ông nhắc con- cũng là tự nhắc mình “Ủng hộ Hồ Chí Minh”. Tình quê và lòng yêu nước của những người nông dân ấy rất sâu nặng và thiêng liêng biết bao. Ông hai đã trải qua những buồn vui, đau khổ, những tự hào, chua chát, những nguyện vọng và hi vọng… hài hoà , gắn bó giữa quê hương và tổ quốc.

Trong cuộc kháng chiên gian khổ ấy thì cách mạng đã đổi đời cho những người nhân dân như ông, ông nguyện đi theo và trung thành với cách mạng. Gặt sang một bên tình cảm riêng của mình mà đi theo kháng chiến, không chịu theo Tây, sống với Tây. Tình cảm gắn bó với cách mạng , với Bác Hồ của những người nông dân như ông nó chất phác, mộc mạc, sâu sắc, nó xuất phát từ đáy lòng, máu thịt.

Vốn là những con người chân thực, chất phác, những ngày đầu tiếp xúc với cách mạng họ vẫn có sự bỡ ngỡ và lạ lẫm ban đầu. Cảm giác ấy nhanh chóng tan đi , người ông dân đón nhận cách mạng với một tình cảm chân thành một lòng hăm hở. Cuộc đời nông dân Việt Nam rẽ sang một bước ngoặt mới tươi sáng hơn. Họ nô nức, háo hức hoà chung vào phong trào cách mạng cả nước, họ hăng hái cầm súng bảo vệ quê hương. Cách mạng trở thành một phần máu thịt của người nông dân, có những người như ông hai day dứt, tủi hổ, khổ sợ khi mình bị hiểu lầm là không trung thành với cách mạng song vẫn không bỏ cách mạng.

Đó là lòng trung thành , là tình cảm sâu sắc, bền chặt mà người nông dân dành cho cách mạng. Cách mạng Tháng Tám đã thổi bùng ngọn lửa đấu tranh trong lòng họ. người nông dân đứng lên kiên quyết giữ làng, giữ nước , đâu còn là hình ảnh con người khổ nhục,khiếp sợ từ tên đầy tớ nhà giàu. Họ- những người như ông hai đứng lên đào hào, đắp luỹ trực tiếp chống lại quân thù . Lòng yêu nước nồng nàn, sự trung thành với cách mạng tất cả trở thánh sức mạnh khiến họ đứng lên bảo vệ quê hương, bảo vệ chính mình. Cách mạng mang đến cho họ cuộc đời mới, họ phải bảo vệ lấy hạnh phúc đó của mình.

III. Kết Bài

Vẻ đẹp tâm hồn của ông hai làng Chợ Dầu tiêu biểu cho những người nông dân Việt Nam tuy trình độ văn hoá thấp nhưng đã có ý thức giác ngộ cao, tha thiết yêu quê hương, Tổ quốc. Nói cách khác, quê hương- Tổ quốc đối với mỗi người Việt Nam chúng ta luôn gắn bó trong niềm tự hào nồng thắm! Sự mở rộng và thống nhất tình yêu quê hương trong tình yêu đất nước là nét mới trong nhận thức và tình cảm của quần chúng cách mạng mà văn học thời kháng chiến chống pháp đã trú trọng làm nổi bật. Truyện ngắn làng của Kim Lân là một trong những thành công đáng quý ấy!

Dàn Ý Phân Tích Nhân Vật Ông Hai Trong Truyện Ngắn Làng

Dàn ý chi tiết phân tích nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng (Kim Lân)

– Giới thiệu tác giả: Kim Lân là một trong những cây bút hiện thực tiêu biểu trong nền văn học Việt Nam, có sở trường về truyện ngắn, ông am hiểu về đời sống sinh hoạt của người nông dân và được mệnh danh là “người một lòng đi về với đất, với người, với thuần hậu nguyên thủy nông thôn”.

– Giới thiệu tác phẩm: Truyện “Làng” được viết trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, đăng lần đầu trên tạp chí Văn nghệ năm 1948; là một trong những truyện ngắn thành công nhất của Kim Lân.

– Giới thiệu vấn đề cần nghị luận: Truyện kể về nhân vật ông Hai, một nông dân cần cù, chất phác, có tình yêu làng, yêu nước, yêu cách mạng thủy chung, son sắt. Đoạn trích cuộc đối thoại giữa ông Hai và đứa con út sau khi ông nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc đã thể hiện cảm động những phẩm chất tốt đẹp của ông.

1. Tóm tắt tác phẩm và nêu tình huống truyện

– Truyện kể về ông Hai – người nông dân yêu làng tha thiết nhưng phải đi tản cư. Ngày ngày ông đều chăm chỉ nghe đọc báo trên đài phát thanh để nắm bắt thông tin về cái làng của mình. Nhưng thật không may, ông phải đối diện với thông tin làng mình theo giặc nên vô cùng đau khổ, tủi nhục, giằng xé, sợ hãi. Ông lo lắng không biết rồi sẽ phải đi đâu về đâu? Ông nghĩ đến việc về làng rồi lập tức loại bỏ suy nghĩ đó: “Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”…

– Đoạn trích là cuộc đối thoại giữa hai cha con ông lão sau khi đưa ra quyết định đó.

2. Phân tích nhân vật ông Hai trong đoạn trích

* Nỗi đau đớn của ông Hai khi nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc: Mấy hôm liền ông chỉ ru rú ở xó nhà, không dám đi đâu vì tủi hổ, nhục nhã, sợ người ta biết ông là người Chợ Dầu.

– Ông lão ôm đứa con trai út vào lòng, trò chuyện với nó như để giải tỏa nỗi lòng: “Những lúc buổn khổ quá chẳng biết nói cùng ai, ông lão lại thủ thỉ với con như vậy. Ông nói như để ngỏ lòng mình, như để mình lại minh oan cho mình nữa”.

– Chuyện về làng Chợ Dầu như một nỗi ám ảnh, xoắn chặt lấy tâm can ông. Dù đau đớn và tủi nhục, ông vẫn không khỏi hướng về làng nên đã hỏi con: “Thế nhà con ở đâu?… Thế con có thích về làng Chợ Dầu không?”, ông hỏi nó nhưng là hỏi chính lòng mình và câu trả lời của đứa trẻ chính là nỗi lòng của ông.

– Ông lão khóc, nước mắt giàn giụa “chảy ròng ròng hai bên má”. Đó là giọt nước mắt của biết bao cay đắng, tủi nhục ê chề mà chỉ những người giàu lòng tự trọng như ông mới có được.

– Tình cảm đó còn thể hiện rõ qua những câu văn nửa trực tiếp – lời văn như lời độc thoại nội tâm của nhân vật: “Anh em đồng chí biết cho bố con ông. Cụ Hồ trên đầu trên cổ xét soi cho bố con ông. Cái lòng bố con ông là như thế đấy, có bao giờ dám đơn sai. Chết thì chết, có bao giờ dám đơn sai”. Lời văn rất mộc mạc, giản dị nhưng thấm đẫm tình cảm chân thành và dường như thấm cả những giọt nước mắt của ông lão. Ông lão nói với con chính là để giãi bày tiếng lòng và minh oan cho mình vậy. Mỗi lời của ông như một lời thể sắt đá, cả cái chết cũng không làm ông thay đổi!

* Niềm vui của ông Hai khi tin làng thoe giặc được cải chính.

Cái cách ông đi từng nhàm gặp từng người chỉ để nói với họ tin cải chính ấy đã thể hiện được tinh thần yêu nước son sắt của ông Hai, cái tình cảm chân thành của người nông dân chất phác.

Ông kể cho mọi người nghe về trận chống càn quét ở làng chợ Dầu với niềm tự hào khôn tả.

– Nhà văn Kim Lân đã tạo dựng một tình huống thử thách tâm lí nhân vật rất đặc sắc, qua đó, tính cách, phẩm chất của nhân vật nổi lên thật rõ ràng. Lối kể chuyện giản dị, tự nhiên, gần gũi; ngòi bút phân tích tâm lí sắc sảo; sự kết hợp hài hòa giữa ngôn ngữ đối thoại và độc thoại nội tâm cũng góp phần tạo nên một hình tượng chân thực và đẹp đẽ về người nông dân Việt Nam.

– Đoạn trích đã cho ta thấy sự phát triển trong nhận thức của người nông dân Việt Nam: tình yêu làng là cơ sở của tình yêu nước, yêu cách mạng song tình yêu nước vẫn bao trùm lên tất cả và là định hướng hành động cho họ.

– Khẳng định lại vẻ đẹp của người nông dân Việt Nam và tấm lòng của nhà văn đối với họ.

Mẫu bài văn tham khảo

Kim Lân là nhà văn rất am hiểu cuộc sống của người nông dân ở nông thôn miền Bắc. Tất cả các truyện của ông đều xoay quanh cảnh ngộ và sinh hoạt của người nông dân. Truyện “Làng” được Kim Lân sáng tác trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp và đăng trên tạp chí Văn nghệ năm 1948. Nhân vật chính là ông Hai người làng chợ Dầu. Tác giả đã miêu tả khá thành công diễn biến tâm trạng của ông khi nghe tin đồn làng ông theo giặc. Qua đó, tác giả muốn ca ngợi tinh thần yêu nước của ông nói riêng và của người dân Việt Nam nói chung.

Ông Hai là người rất tự hào về cái làng chợ Dầu của mình. Khi phải di tản cư ông cứ nhắc đi nhắc lại với những người chung quanh cái không khí cách mạng của làng ông: “Cả giới phụ lão có cụ râu tóc bạc phơ cũng vác gậy đi tập một hai…”. Cứ như vậy, suốt cả buổi tối, ông lão ngồi vén quần lên tận bẹn mà nói liên miên về cái làng của ông. Ông nói cho sướng miệng và để cho đỡ nhớ làng chứ không chú ý người khác có nghe không ? Sau những giây phút làm việc mệt nhọc, nằm gác tay lên trán, ông lại nghĩ về làng. Ông cứ muốn về làng, muốn được “cùng mọi người đào đường, đắp ụ, xẻ hào, khuân đá…”. Vì quá yêu, quá tự hào về cái làng của ông mà ông “nghẹn đắng hẳn lại, da mặt tê rân rân”, “chết lặng đi tưởng như không thở được” khi nghe tin cả làng mình theo Việt gian! Lúc đầu ông không thể tin, ông hỏi đi, hỏi lại “giọng ông như lạc hẳn”: “Liệu có thật không hở bác. Khi có người quả quyết vì ra ở dưới ấy lên và nói chắc như đinh đóng cột ở làng ông “Việt gian từ thằng chủ tịch mà đi”…, thì ông Hai không thể nghe thêm được nữa. Ông đánh trống lảng rồi đi thẳng. Văng vẳng bên tai ông tiếng người đàn bà cho con bú: “Cha mẹ tiên sư chúng nó ! Đói khổ ăn cắp, ăn trộm bắt được người ta còn thương. Còn giống Việt gian bán nước thì cứ cho mỗi đứa một nhát !”. Những lời nói ấy như những nhát dao chém vào ông, tim ông se thắt lại. Bao nhiêu câu hỏi giằng xé trong ông. Tức quá, ông nắm chặt hai tay lại mà rít lên: “Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này !”… Rồi ông nghĩ lại “chả nhẽ cái bọn ở làng lại đốn đến thế được, ông kiểm điểm từng người trong óc. Không mà, họ toàn là những người có tinh thần cả. Trong ông đang diễn ra sự giằng xé, nửa tin, nửa ngờ.

Đêm đó, ông Hai không sao ngủ được, “ông hết trở mình bên này lại trở mình bên kia, thở dài”. Khi mụ chủ nhà nói xa nói gần không chứa chấp người làng làm Việt gian, ông lão ngồi lặng đi. Bao nhiêu ý nghĩ đen tối, ghê rợn nối tiếp bời bời trong đầu ông, ông định quay về làng. Vừa chớm nghĩ như vậy, lập tức ông phản đối ngay: “Về làm gì cái làng ấy nữa. Chúng nó Theo Tây cả rồi, về làng tức từ bỏ kháng chiến”. Nghĩ vậy nước mắt ông giàn dụa. Nhớ lại thuở xưa – thuở cuộc đời đen tối, lầm than, ông “rợn cả người”… Chỉ chừng ấy chi tiết. Kim Lân đã cho người đọc hiểu tình cảm của ông Hai đối với Cách mạng, đối với đất nước như thế nào. Nếu không yêu nước, không tin tưởng vào Cách mạng làm sao ông uất nghẹn, đau khổ đến như thế. Và cũng chính điều đó mà ông đã mừng rơn lên khi biết đích xác những lời kia chỉ là sự đồn đại láo toét. Ông đi tìm bác Thứ để thanh minh: “Chính cái tin làng chợ Dầu chúng tôi đi Việt gian ấy mà. Láo ! Láo hết! Toàn là sai sự mục đích cả ” Ông cứ lặp đi lặp lại câu “láo hết, toàn là sai sự mục đích cả”, ông Hai còn múa tay lên mà khoe tin ấy với mọi nguời… Và tối hôm ấy, ông lại sang bên nhà bác Thứ, lại ngồi trên chiếc chõng tre, vén quần lên tận bẹn mà nói chuyện về cái làng của ông… Kim Lân đã chọn được một tình huống khá độc đáo. Cách thể hiện lòng yêu nước của nhà văn cũng có nét riêng không giống với bất cứ nhà văn nào cùng thời.

Có thể nói “Làng” là một truyện ngắn khá hay. Thành công lớn nhất về mặt nghệ thuật là khả năng miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật. Đoạn ông Hai nghe tin đồn làng ông làm Việt gian đã thể hiện tài năng miêu tả tâm lí nhân vật của Kim Lân. Thông qua nhân vật ông Hai, tác giả muốn ca ngợi tình yêu quê hương, tình yêu đất nước, sự giác ngộ cách mạng của những người nông dân hiền lành, chất phác. Chính tình yêu quê hương đất nước, ý thức giác ngộ cách mạng ấy mà họ một lòng theo Đảng, theo Cách mạng, đứng lên giành quyền sống, giữ vững nền dộc lập tự chủ của dân tộc trước mọi gian nan, thử thách.

Phân Tích Nhân Vật Ông Hai Trong Truyện Ngắn Làng Của Kim Lân

Tác phẩm ra đời năm 1948 lấy bối cảnh là cuộc tản cư kháng chiến của nhân dân ông Hai là người dân làng Chợ Dầu nhưng để phục vụ kháng chiến ông cùng gia đình tản cư đến một nơi khác. Chính tại nơi đây ông luôn trăn trở về cái làng thân yêu của mình với bao tình cảm, suy nghĩ vô cùng cảm động…

Trước hết, ông là một người nông dân chất phác, nồng hậu, chân chất… như bao người nông dân khác. Đến nơi tản cư mới, ông thường đến nhà hàng xóm để cởi mở giãi bày những suy nghĩ tình cảm của mình về cái làng Chợ Dầu thân yêu, về cuộc kháng chiến của dân tộc. Ông đi nghe báo, ông đi nghe nói chuyện, ông bàn tán về những sự kiện nổi bật của cuộc kháng chiến… Ông Hai không biết chữ, ông rất ghét những anh nào “ra vẻ ta đây” biết chữ đọc báo mà chỉ đọc thầm không đọc to lên cho người khác còn biết. Ông ít học nhưng lại rất thích nói chữ, đi đính chính tin làng mình theo giặc ông sung sướng nói to với mọi người: “Toàn là sai sự mục đích cả!”…. Tất cả những điều đó không làm ông Hai xấu đi trong mắt người đọc mà chỉ càng khiến ông đáng yêu, đáng mến hơn.

Không chỉ vậy, điều đáng quý nhất ở ông Hai chính là tấm lòng yêu làng tha thiết. Và biểu hiện của tấm lòng ấy cũng thật đặc biệt.

Cái làng đối với người nông dân quan trọng lắm. Nó là ngôi nhà chung cho cộng đồng, họ mạc. Đời này qua đời khác, người nông dân gắn bó với cái làng như máu thịt, ruột rà. Nó là nhà cửa, đất đai, là tổ tiên, là hiện thân cho đất nước đối với họ. Trước Cách mạng tháng Tám, ông Hai thuộc loại “khố rách áo ôm”, từng bị “bọn hương lí trong làng truất ngôi trừ ngoại xiêu dạt đi, lang thang hết nơi này đến nơi khác, lần mò vào đến tận đất Sài Gòn, Chợ Lớn kiếm ăn. Ba chìm bảy nổi mười mấy năm trời mới lại được trở về quê hương bản quán. Nên ông thấm thía lắm cái cảnh tha hương cầu thực. Ông yêu cái làng của mình như đứa con yêu mẹ, tự hào về mẹ, tôn thờ mẹ, một tình yêu hồn nhiên như trẻ thơ. Cứ xem cái cách ông Hai náo nức, say mê khoe về làng mình thì sẽ thấy. Trước Cách mạng tháng Tám, ông khoe cái dinh phần của viên tổng đốc làng ông: “Chết! Chết, tôi chưa thấy cái dinh cơ nào mà lại được như cái dinh cơ cụ thượng làng tôi.”. Và mặc dù chẳng họ hàng gì nhưng ông cứ gọi viên tổng đốc là “cụ tôi” một cách rất hả hê! Sau Cách mạng, “người ta không còn thấy ông đả động gì đến cái lăng ấy nữa”, vì ông nhặn thức được nó làm khổ mình, làm khổ mọi người, là kẻ thù cùa cả làng: “Xây cái lăng ấy cả làng phục dịch, cả làng gánh gạch, đập đá, làm phu hồ cho nó. […] Cái chân ông đi tập tễnh cũng vì cái lăng ấy” Bây giờ ông khoe làng ông khởi nghĩa, khoe “ông gia nhập phong trào từ hồi kì còn trong bóng tối”, rồi những buối tập quân sự, khoe những hố, những ụ, những giao thông hào cùa làng ông,… Cũng vì yêu làng quá như thế mà ông nhất quyết không chịu rời làng đi tản cư. Đến khi buộc phải cùng gia đình đi tản cư ông buồn khổ lắm, sinh ra hay bực bội, “ít nói, ít cười, cái mặt lúc nào cũng lầm lầm . Ở nơi tản cư, ông nhớ cái làng của ông, nhớ những ngày làm việc cùng với anh em: sao mà độ ấy vui thế. Ông thấy mình như trẻ ra.[…] Trong lòng ông lão lại thấy náo nức hẳn lên.”. Lúc này, niềm vui của ông chỉ là hàng ngày đi nghe tin tức thời sự kháng chiến và khoe về cái làng Chợ Dầu của ông đánh Tây.

Ông lão đang náo nức, “ruột gan ông lão cứ múa cả lên, vui quá!” vì những tin kháng chiến thì biến cố bất ngờ xảy ra. Một người đàn bà tản cư vừa cho con bú vừa ngấm nguýt khi nhắc đến làng Dầu. Cô ta cho biết làng Dầu đã theo giặc chẳng “tinh thần” gì đâu. Ông Hai nhận cái tin ấy như bị sét đánh ngang tai. Càng yêu làng, hãnh diện tự hào về làng bao nhiêu thì bây giờ ông Hai lại càng thấy đau đớn, tủi hổ bấy nhiêu. Nhà văn Kim Lân đã chứng tỏ bút lực dồi dào, khả năng phân tích sắc sảo, tái hiện sinh động trạng thái tình cảm, hành động của con người khi miêu tả diễn biến tâm trạng và hành động của nhân vật ông Hai trong biến cố này.

Cái tin làng Chợ Dầu theo giặc đã làm ông điếng người: “Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tường như đến không thở được. Một lúc lâu ông mới rặng è è, nuốt một cái gì vướng ở cổ […] giọng lạc hẳn đi”, “ông Hai cúi gằm mặt xuống mà đi” và nghĩ đến sự dè bỉu của bà chủ nhà. Ông lão như vừa bị mất một cái gì quý giá, thiêng liêng lắm. Những câu văn diễn tả tâm trạng thật xúc động: “Nhìn lũ con, tủi thân, nước mắt ông lão cứ tràn ra. Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy? Khốn nạn, bằng ấy tuổi đầu…”. Nỗi nhục nhã, mặc cảm phản bội hành hạ ông lão đến khổ sở: ”Chao ôi! Cực nhục chưa, cả làng Việt gian! Rồi đây biết làm ăn buôn bán ra sao? Ai người ta chứa. Ai người ta buôn bán mấy. Suốt cả cái nước Việt Nam này người ta ghê tởm, người ta thù hằn cái giống Việt gian bán nước…”. Cả nhà ông Hai sống trong bầu không khí ảm đạm: “Gian nhà lặng đi, hiu hắt, ánh lửa vàng nhờ nhờ ở ngọn đèn dầu lạc vờn trên nét mặt lo âu của bà lão. Tiếng thở của ba đứa trẻ chụm đầu vào nhau ngủ nhẹ nhàng nổi lên, nghe như tiếng thở của gian nhà.” ông Hai ăn không ngon, ngủ không yên, lúc nào cũng nơm nớp, bất ổn trong nỗi tủi nhục ê chề. Thậm chí ông không dám nhắc tới, phải gọi tên cái chuyện phản bội là “chuyện ấy”. Ông tuyệt giao với tất cả mọi người, “không dám bước chân ra đến ngoài” vì xấu hổ. Và cái chuyện vợ chồng ông lo nhất cũng đã đến. Bà chủ nhà bóng gió đuổi gia đình ông, chỉ vì họ là người của làng theo Tây. Gia đình ông Hai ở vào tình thế căng thẳng. Ông Hai phải đối mặt với tình cảnh khó khăn nhất: “Thật là tuyệt đường sinh sống! [..] đâu đâu có người Chợ Dầu người ta cũng đuổi như đuổi hủi. Mà cho dẫu vì chính sách của Cụ Hồ người ta chẳng đuổi đi nữa, thì mình cũng chẳng còn mặt mũi nào đi đến đâu.”.

Từ chỗ yêu tha thiết cái làng của mình, ông Hai đâm ra thù làng: “Về làm gì cái làng ấy nữa. Chúng nó theo Tây cả rồi. Về làng tức là bỏ kháng chiến. Bỏ Cụ Hồ… Và “nước mắt ông giàn ra”. Ông lại nghĩ đến cảnh sống nô lệ tăm tối, lầm than trước kia. Bao nỗi niềm của ông không biết giãi bày cùng ai đành trút cả vào những lời trò chuyện cùng đứa con thơ dại:

Cụ Hồ trên đầu trên cổ xét soi cho bố con ông.

Nhà văn đã nhìn thấy những nét đáng trân trọng bên trong người nông dân chân lấm tay bùn. Nhân vật ông Hai hiện ra chân thực từ cái tính hay khoe làng, thích nói về làng bất kể người nghe có thích hay không; chân thực ở đặc điếm tâm lí vì cộng đồng, vui cái vui của làng, buồn cái buồn của làng và chân thực ở những diễn biến của trạng thái tâm lí hết sức đặc trư­ng của một người nông dân tủi nhục, đau đớn vì cái tin làng mình phản bội. Nếu như trong biến cố ấy tâm trạng cùa ông Hai đau đớn, tủi cực bao nhiêu thì khi vỡ lẽ ra rằng đó chỉ là tin đồn không đúng, làng Chợ Dầu của ông không hề theo giặc, sự vui sướng càng tưng bừng, hả hê bấy nhiêu. Ỏng Hai như người vừa được hồi sinh. Một lần nữa, những thay đối cùa trạng thái tâm lí lại được khắc hoạ sinh động, tài tình: “Cái mặt buồn thiu mọi ngày bỗng tươi vui, rạng rỡ hẳn lên. Mồm bỏm bẻm nhai trầu, cặp mắt hung hung đỏ hấp háy…”. Ông khoe khắp nơi: “Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ Đốt nhẵn![…] Láo! Láo hết! Toàn là sai sự mục đích cả., “Tây nó đốt nhà tôi rồi ông chủ ậ. Đốt nhẵn.[… ] Ra láo! Láo hết, chẳng có gì sất. Toàn là sai sự mục đích cả!”. Đáng lẽ ra ông phải buồn vì cái tin ấy chứ? Nhưng ông đang tràn ngập trong niềm vui vì thoát khỏi cái ách “người làng Việt gian” Cái tin ấy xác nhận làng ông vẫn nhất quyết đứng về phía kháng chiến. Cái tin ấy khiến ông lại được sống như một người yêu nước, lại có thể tiếp tục sự khoe khoang đáng yêu của mình,… Mâu thuẫn mà vẫn hết sức hợp lí, điểm này cũng là sự sắc sảo, độc đáo của ngòi bút miêu tả tâm lí nhân vật của nhà văn Kim Lân.

Người đọc sẽ không thể quên được một ông Hai quá yêu cái làng của mình như thế. Lúc ông nói thành lời hay khi ông nghĩ, người đọc vẫn nhận thấy rất rõ đặc điểm ngôn ngữ của vùng quê Bắc Bộ, của một làng Bắc Bộ: “Nắng này là bỏ mẹ chúng nó”, “không đọc thành tiếng cho người khác nghe nhờ mấy”, “Thì vườn”, “có bao giờ dám đơn sai”,… Đặc biệt là nhà văn cố ý thể hiện những từ ngữ dùng sai trong lúc quá hưng phấn của ông Hai. Những từ ngữ “sai sự mục đích cả” là dấu ấn ngôn ngữ của người nông dân ở thời điểm nhận thức đang chuyển biến, muốn nói cái mới nhưng từ ngữ chưa hiếu hết. Sự sinh động, chân thực, thú vị của câu chuyện phẩn nào cũng nhờ vào đặc điểm ngôn ngữ này. Trong tác phẩm, nhà văn cũng thể hiện rõ sự thông hiểu về lề thói, phong tục của làng quê. Kim Lân đả vận dụng những hiểu biết đó hết sức khéo léo vào việc xáy dựng tâm lí, hành dộng, ngôn ngữ nhân vật. Cốt truyện đơn giản, sức nặng lại dồn cả vào mạch diễn biến tâm trạng, vào lời thoại của nhân vật nên câu chuyện có sức hấp dẫn riêng, ấn tượng riêng, độc đáo.

Tình yêu làng của ông Hai không đơn giản, hẹp hòi là tình yêu chỉ riêng đối với nơi ông sinh ra và lớn lên. Ê-ren-bua từng tâm đắc: “Tình yêu làng xóm trở nên tình yêu quê hương đất nước”. Và bởi thế, tình yêu làng của ông Hai gắn bó chặt chẽ với tình yêu nước với tinh thần kháng chiến đang lên cao của cả dân tộc. Đó cũng chính là biểu hiện chung của tình yêu đất nước của người nông dân Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp.

Trong số rất nhiều những nhân vật nông dân khác, người đọc khó có thể quên một ông Hai yêu làng quê, yêu đất nước, thuỷ chung với kháng chiến, với sự nghiệp chung của dân tộc. Một ông Hai thích khoe làng, một ông Hai sốt sắng nghe tin tức chính trị, một ông Hai tủi nhục, đau đớn khi nghe tin làng mình theo giặc, một ông Hai vui mừng như trẻ thơ khi biết tin làng mình không theo giặc,… Ai đó đã một lần thấy nhà vàn Kim Lân, nghe ông nói chuyện còn thú vị hơn nữa: hình như ta gặp ông đâu đó trong Làng rồi thì phải.

Ông Hai là một nhân vật độc đáo mang nhiều đặc điếm chung tiêu biểu cho người nông dân Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp nhưng đồng thời cũng mang những đặc điểm tính cách rất riêng, rất thú vị. Ông đã trở thành linh hồn của Làng và thể hiện trọn vẹn tư tưởng của nhà văn và tác phẩm.

Cảm Nhận Về Nhân Vật Ông Hai Trong Tác Phẩm Làng Của Kim Lân

Cảm nhận về nhân vật ông Hai trong tác phẩm Làng của Kim Lân – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi tỉnh Nghệ An

Kim Lân là nhà văn có vốn sống vô cùng phong phú và sâu sắc về nông thôn Việt Nam.Các sáng tác của ông đều xoay quanh cảnh ngộ và sinh hoạt của người nông dân. Văn bản “Làng” đươc sáng tác vào thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ,với nhân vật chính là ông Hai ,một lão nông hiền lành ,yêu làng ,yêu nước và gắn bó với kháng chiến .

Ông Hai cũng như bao người nông dân quê từ xưa luôn gắn bó với làng quê của mình.Ông yêu quí và tự hào về làng Chợ Dầu và hay khoe về nó một cách nhiệt tình, hào hứng.Ở nơi tản cư ông luôn nhớ về làng,theo dõi tin tức kháng chiến và hỏi thăm về Chợ Dầu .Tình yêu làng của ông càng được bộc lộ một cách sâu sắc và cảm động trong hoàn cảnh thử thách . Kim Lân đã đặt nhân vật vào tình huống gay gắt để bộc lộ chiều sâu tình cảm của nhân vật.Đó là tin làng chợ Dầu lập tề theo giặc.Từ phòng thông tin ra,đang phấn chấn,náo nức vì những tin vui của kháng chiến thì gặp những người tản cư,nghe nhắc đến tên làng,ông Hai quay phắt lại,lắp bắp hỏi,hy vọng được nghe những tin tốt lành,nào ngờ biết tin dữ:”Cả làng Việt gian theo Tây “.Tin bất ngờ ấy vừa lọt vào tai đã khiến ông bàng hoàng, đau đớn :”Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại,da mặt tê rân rân ,ông lão lặng đi tưởng như đến không thở được,một lúc lâu ông mới rặn è è nuốt một cái gì vướng ở cổ.Ông cất tiếng hỏi,giọng lạc hẳn đi “nhằm hy vọng điều vừa nghe không phải là sự thật.Trước lời khẳng định chắc chắn của những người tản cư,ông tìm cách lảng về.Tiếng chửi văng vẳng của người đàn bà cho con bú khiến ông tê tái :”cha mẹ tiên sư nhà chúng nó ,đói khổ ăn cắp ăn trộm bắt được người ta còn thương,cái giống Việt gian bán nước thì cứ cho mỗi đứa một nhát”.Về đến nhà ông chán chường “nằm vật ra giường”,nhìn đàn con nước mắt ông cứ giàn ra ” chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư?Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư?”.Ông căm thù những kẻ theo Tây,phản bội làng,ông nắm chặt hai tay lại mà rít lên: “chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này “. Niềm tin,nỗi ngờ giằng xé trong ông.Ông kiểm điểm lại từng người trong óc, thấy họ đều có tinh thần cả “có đời nào lại cam tâm làm cái điều nhục nhã ấy “.Ông đau xót nghĩ đến cảnh “người ta ghê tởm,người ta thù hằn cái giống Việt gian bán nước”.Suốt mấy ngày liền ông chẳng dám đi đâu,”chỉ ở nhà nghe ngóng binh tình”,lúc nào cũng nơm nớp tưởng người ta đang để ý,đang bàn tán đến cái chuyện làng mình.Nỗi ám ảnh,day dứt,nặng nề biến thành sự sợ hãi thường xuyên trong ông.Ông đau đớn,tủi hổ như chính ông là người có lỗi…

May thay,tin đồn thất thiệt về làng Chợ Dầu được cải chính .Ông Hai sung sướng như được sống lại.Ông đóng khăn áo chỉnh tề đi với người báo tin và khi trở về “cái mặt buồn thỉu mọi ngày bỗng tươi vui rạng rỡ hẳn lên “.Ông mua cho con bánh rán đường rồi vội vã,lật đật đi khoe với mọi người.Đến đâu cũng chỉ mấy câu”Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ !Đốt sạch !Đốt nhẵn ! Ông chủ tịch làng tôi vừa mới lên trên này cải chính.Cải chính cái tin làng chợ Dầu chúng tôi Việt gian theo Tây ấy mà .Láo!Láo hết! Toàn là sai sự mục đích cả .” “Ông cứ múa tay lên mà khoe với mọi người”.Ông khoe nhà mình bị đốt sạch,đốt nhẵn như là minh chứng khẳng định làng ông không theo giặc. Mất hết cả cơ nghiệp mà ông không hề buồn tiếc,thậm chí còn rất sung sướng,hạnh phúc.Bởi lẽ,trong sự cháy rụi ngôi nhà của riêng ông là sự hồi sinh về danh dự của làng chợ Dầu anh dũng kháng chiến.Đó là một niềm vui kỳ lạ,thể hiện một cách đau xót và cảm động tình yêu làng,yêu nước,tinh thần hy sinh vì cách mạng của người dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống kẻ thù xâm lược .

Cách miêu tả chân thực,sinh động,ngôn ngữ đối thoại,độc thoại và độc thoại nội tâm đa dạng,tự nhiên như cuộc sống cùng với những mâu thuẫn căng thẳng,dồn đẩy, bức bối đã góp phần không nhỏ tạo nên thành công của câu chuyện, đồng thời còn thể hiện sự am hiểu và gắn bó sâu sắc của nhà văn với người nông dân và công cuộc kháng chiến của đất nước.

Qua nhân vật ông Hai ta hiểu thêm về vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược :Yêu làng,yêu nước và gắn bó với kháng chiến.Có lẽ vì thế mà tác phẩm “Làng ” xứng đáng là một trong những truyện ngắn xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại .

Cảm nhận về nhân vật ông Hai trong tác phẩm Làng của Kim Lân – Bài làm 2

Kim lân là một nhà văn gắn bó, am hiểu sâu sắc về cuộc sống của nông thôn. Các sáng tác của ông hầu như chỉ viết về cảnh ngộ người nông dân và sinh hoạt làng quê. Truyện ngắn “Làng”, một tác phẩn nổi tiếng của ông, được ông viết trong thời kì chống thực dân Pháp. Câu truyện đã phần nào thể hiện một cách chân thực và sâu sắc vẻ đẹp, tâm hồn, của người nông dân qua nhân vật ông Hai. Thông qua câu truyện ta thấy tình yêu làng, yêu quê hương tha thiết của người nông dân Việt Nam dù là trong mọi hoàn cảnh, chiến tranh hay thời bình thì họ vẫn 1 lòng yêu quê hương đất nước. 1 tình cảm cao đẹp và đáng quý.

Thật vậy, ông Hai yêu làng Chợ Dầu của mình bằng một tình cảm đặc biệt. Ở nơi tản cư ông luôn nhớ về làng, nhớ những ngày làm việc với anh em để rồi “trong lòng ông lão lại thấy náo nức hẳn lên” và “Chao ôi! Ông nhớ làng, nhớ cái làng quá.”. Ông cũng không quên theo dõi tin tức kháng chiến và hỏi thăm làng Chợ Dầu. Tình yêu làng thiết tha, sâu nặng ấy càng được thể hiện sâu sắc khi nhà văn đặt nhân vật vào tình huống bất ngờ, độc đáo. Từ phòng thông tin ra, ông lão đang phấn chấn vì nghe ngóng được nhiều tin vui từ kháng chiến thì lại gặp những người tản cư. Ông quay phắt lại lắp bắp hỏi khi nghe nhắc đến tên làng, mong nhận được những tin tốt lành, nào ngờ lại là tin dữ: “Cả làng chúng nó Việt gian theo Tây..”. Lúc này “cổ ông lão nghẹn ắng cả lại, da mặt tê rân rân” vì sự ngạc nhiên đến nỗi bắt ngờ làm ông đau xót, “ông lão lặng đi tưởng như đến không thở được, một lúc lâu ông mới rặn è è, nuốt một cái gì vướng ở cổ, ông cất tiếng hỏi,giọng lạc hẳn đi ” nhằm hi vọng đó không phải là sự thật. Nhưng trước câu nói khẳng định, ông xấu hổ đứng lảng bỏ về, cúi mặt xuống mà đi. Ông xấu hổ vì trước đây hay đi khoe về làng cho mọi người mà bây giờ làng lại là Việt gian, bị người ta chửi bới, chỉ nghĩ đến đó thôi cũng đủ làm ông xấu hổ không dám nhìn mặt ai nữa.

Về đến nhà ông chán chường “nằm vật ra giường”, nhìn đàn con mà nước mắt ông lão cứ giàn ra ” chúng cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng cũng bị người ta rẻ rúng, hắt hủi đấy ư? ******** bằng ấy tuổi đầu…”. Ông thù những kẻ theo Tây, phản bội làng, ông nắm chặt hai tay mà rít lên nhục nhã: “chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này”. Tuy thế nhưng ông vẫn còn niềm tin vào người làng mình, ông kiểm điểm từng người một, họ đều có tinh thần cả, chẳng ai ” lại cam tâm làm điều nhục nhã ấy”. Ông đau xót khi nghĩ đên việc “người ta ghê tởm, người ta thù hằn cái giống Việt gian bán nước”. Mấy ngày sau, ông chẳng dám đi đâu, ông cứ thấy đám đông túm lại là chột dạ, lo lắng người ta nói xấu làng Chợ Dầu. Nỗi ám ảnh day dứt trong ông biến thành nỗi sợ hãi.

Tình huống câu chuyện thật trớ trêu làm sao?!. Nhưng may thay, tin làng Chợ Dầu theo giặc được cải chính. Ông Hai sung sướng như người được sống lại. Ông đóng khăn áo chỉnh tề rồi tất tả chạy theo người báo tin mà quên dặn trẻ coi nhà. Khi trở về “cái mặt buồn thỉu mọi ngày bỗng tươi vui, rạng rỡ hẳn lên”, ông chia quà cho từng đứa xong thì vội vã đi khe với mọi người về tin làng không theo giặc. Đến đâu cũng câu nói “Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ. Đốt nhẵn! Ông chủ tịch làng tôi mới lên trên này cải chính… cải chính cái tin làng Chợ Dầu chúng tôi đi Việt gian ấy mà. Láo! Láo hết! Toàn la sai sự mục đích cả”, vừa nói “ông lão cứ múa tay lên mà khoe”. Ở đây nói chính ra phải dùng từ “mục kích”(nhìn thấy rõ ràng, tận mắt), vì ông Hai cũng được học một khóa bình dân học vụ nhưng ông cứ đọc bập bõm, câu được câu chăng, ngay cả khi đến phòng thông tin vẫn phải nghe lén, nên ông nói sai cũng là chuyện thường. Tác giả đã đặt nhân vật trong ngôn ngữ khá tự nhiên, bộc lộ thêm tính chất người nông dân Việt Nam thời kì kháng chiến chống Pháp. Ông Hai khoe nhà mình bị đốt là minh chứng rằng làng không theo giặc. Mất hết cả cơ nghiệp nhưng ông lão vẫn sung sướng, không hề tiếc nuối. Qua đó ta hiểu thêm, đối với ông vật chất chẳng có giá trị gì cả, nhưng danh dự, tinh thần yêu nước là trên cả. Đó là một niềm vui kì lạ nhưng thể hiện cảm động tình yêu làng, yêu nước, tinh thần hi sinh của người nông dân Việt Nam trong cuộc kháng chống giặc ngoại xâm.

Với cách chọn tình huống độc đáo, bằng lối văn miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật tinh tế, ngôn ngữ nhân vật -lúc đối thoại, khi độc thoại, và độc thoại nội tâm – đa dạng, nhà văn đã thể hiện được chiều sâu tâm trạng của nhân vật, góp một phần không nhỏ tới thành công của tác phẩm.

Qua nhân vật ông Hai, ta hiểu thêm về vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân Việt Nam thời kì chống thực dân Pháp xâm lược. Đó là tình yêu làng hòa quyện với tình yêu nước, yêu kháng chiến. Tác phẩm “Làng” giúp ta hiểu hơn về những con người này, từ đó yêu mến họ, trân trọng, biết ơn họ – thành phần hậu phương vững chắc, cũng như biết tại sao cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta thành công .

Cảm nhận về nhân vật ông Hai trong tác phẩm Làng của Kim Lân – Bài làm 3

Kim Lân (1920-2007) là cây bút chuyên văn về truyện ngắn, vốn gắn bó và am hiểu sâu sắc cuộc sống của nông thôn nên hầu như các tác phẩm của ông chủ yếu viết về cảnh sinh hoạt của làng quê Việt Nam và cảnh ngộ của người nông dân. “Làng” là một truyện ngắn đặc sắc nhất của nhà văn được viết vào thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, truyện thể hiện một cách chân thực, cảm động và sâu sắc tình yêu làng thống nhất với tình yêu nước, tinh thần kháng chiến của người nông dân qua hình tượng nhân vật ông Hai – nhân vật chính.

Tình yêu làng yêu nước là một bản chất có tính truyền thống của nhân vật ông Hai. Đây là tình cảm nổi bật xuyên suốt toàn truyện. Làng của ông Hai là làng chợ Dầu, vì kháng chiến ông cùng gia đình dời làng di tản cư lên vùng Cao Thượng- Nhã Yên, nay thuộc Tân Yên- Bắc Giang. Ở nơi đây ông khoe về làng ” Làng toàn lát đá xanh, chòi phát thanh cao quả ngọn tre, nhà ngói mọc san sát…. có nghĩa ông tự hào làng ông giàu có về vật chất, bởi điều này vô cùng quant rọng với đời sống vật chất và tinh thần của người nông dân lúc bấy giờ. Nhưng sau cách mạng, đi theo kháng chiến ông Hai đã có những chuyển biến mới về tình cảm, được cách mạng giải phóng nên ông tự hào về phong trào cách mạng quê hương, về việc xây dựng làng kháng chiến của quê ông, Phải xa làng ông nhớ quá cái không khí: ” đào đường, đắp ụ, xẻ hào khuân đá, rồi ông lo ” cái chòi gác ở đầu làng đã dựng xong chưa, những đường hầm bí mật đã xong chưa?…, những lúc như này ông đã không kìm nổi cảm xúc nhớ làng:

Điều đáng quý hơn đó là tình yêu làng gắn bó tha thiết với tình yêu nước của ông Hai được bộc lộ sâu sắc hơn, khi nhà văn đã đặt nhân vật trong tình huống đầy thử thách và khó khăn – khi ông Hai nghe tin làng chợ Dầu của mình theo giặc, tin ông nghe từ những người đàn bà tản cư dưới xuôi mới lên, cái tin dữ ấy đã làm nảy sinh ở nhân vật ông Hai, một diễn biến tâm lý vô cùng phức tạp.

Khi mới nghe tin ông Hai bàng hoàng sửng sốt ” cổ nghẹn ắng, da mặt tê dân dân. Ông lão nặng người đi tưởng đến không thở được” vì quá bất ngờ nên ông chưa tin bằng câu hỏi lại kỹ càng ” liệu có thật không hả bác? hay chỉ lại là…” .Những lời kể quá rạnh rọt của những người phụ nữ kia: ” Việt gian từ thằng chủ tịch mà đi cơ ông ạ” khiến ông không thể không tin, ông xấu hổ lảng chuyện ra về: ” Hà nắng gớm về nào”, đau đớn ông cúi gầm mặt xuống mà đi.

Về đến nhà tâm trí ông Hai luôn bị các tin giữ xâm chiến, nó trở thành lỗi ám ảnh day dứt trong lòng ông, ông luôn mặc cảm mình là kẻ phản bội. Chán nản ông nằm vật ra giường nhìn các con, tủi thân nước mắt ông cứ dàn ra: ” Chúng nó cũng là trẻ con của làng việt gian đấy ư? chúng nó cũng bị người ta dẻ dúng hắt hủi đấy ư? khốn nạn, bằng ấy tuổi đầu?”. Càng đau đớn dằn vặt và thương con bấy nhiêu ông càng căm giận những người làng chợ Dầu phản bội bấy nhiêu, ông lão nắm chặt hai bàn tay rồi rít lên ” chúng bay ăn miếng cơm hay ăn miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này? suốt mấy ngày sau đó – ba bốn ngày ông không dám ra khỏi nhà vì đi đâu cũng sợ người ta nhắc đến ” cái chuyện ấy”, ông nghe ngóng binh tình bên ngoài ” Một đám đông túm lại ông cũng để ý, dăm bảy tiếng cười nói xa xa ông cũng chột dạ”. Ông như người có tật giật mình, không khí lặng lề bao trùm cả nhà, trẻ con không đứa nào dám đòi quà, khi vợ ông Hai vừa cất giọng ” này thầy nó ạ! tôi thấy người ta đồn…” đã bị ông cắt ngang bằng giọng gắt lên ” biết rồi”. Đây là tâm lý giận cá chém thớt.

Đặc biệt tình yêu nước và yêu làng của ông Hai lại tiếp tục đặt vào tình huống căng thẳng thử thách hơn khi nghe mụ chủ nhà bảo là có tin đuổi những người làng chợ Dầu ra khỏi nơi tản cư, lúc đó ông rơi vào tâm trạng bế tắc tuyệt vọng và lo lắng cho tương lai ” biết đem nhau đi đâu bây giờ”, biết đâu người ta chứa bố con ông mà đi bây giờ? thật là tuyệt đường sinh sống”. Trong lúc bế tắc tuyệt vọng ấy, ở ông Hai đã diễn ra một cuộc đấu tranh nội tâm gay gắt, ông chớm nghĩ ” hay là quay về làng”, nhưng lập tức ông lão phản đối ngay:” Về làm gì cái làng ấy nữa, chúng nó theo Tây hết cả rồi, về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ” nếu như trước đây tình yêu làng hòa quyện thống nhất với nhau thì bây giờ ông Hai buộc phải lựa chọn yêu làng hay yêu nước. Đây là điều không hề đơn giản, bởi với ông làng chợ Dầu đã trở thành một phần máu thịt không dễ gì từ bỏ cách mạng lại là cứu cánh giúp gia đình ông thoát khỏi cuộc đời nô lệ, qua những ngày đấu tranh tư tưởng dằn vặt đau đớn cuối cùng ông Hai quyết định ” Làng thì yêu thật nhưng làng theo tây mất rồi thì phải thù” nói cứng như vậy nhưng trong lòng ông đau như cắt.

Tình cảm với kháng chiến với cụ Hồ được bộc lộ cảm động nhất khhi ông Hai trút lỗi lòng tâm sự với đứa con út ngây thơ, thực chất như một lời thanh minh với cụ Hồ, với anh em đồng chí và tự như mình vào những lúc khó khăn như thế này. Qua những câu hỏi của bố đứa con ông ông bí tí mà đã biết giơ tay thề: ” Ủng hộ cụ Hồ Chí Minh muôn năm” nữa là ông bố của nó. Lúc này ông mong: “Anh em đồng chí biết cho bố con ông, cụ Hồ trên cổ xét soi cho bố con ông” Đến đây ta thấy được tình yêu nước sâu lặng đối với làng chợ Dầu mang tính truyền thống chứ không phải là làng theo giặc,. Bằng tấm lòng trung thành tuyệt đối với cách mạng, với cụ Hồ đã được ông Hai bộc lộ rất mộc mạc chân thành, tình cảm đó gần gữi sâu nặng vô cùng thiêng liêng: ” có bao giờ giám đơn sai, chết thì chết, có bao giờ giám đơn sai, đặt tình yêu nước yêu kháng chiến lên trên tình yêu làng ở nhân vật ông Hai là tác giả Kim Lân đã thể hiện được nét chuyển biến mới trong tình cảm của người nông dân Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp.

Với tấm lòng, tình cảm cao đẹp ấy, ông Hai đã được đền bù xứng đáng khi cái tin đồn kia được cải chính, gáng nặng tâm lý được trút bỏ. Lúc này ông sống trong tột cùng vui sướng, ông như nắng hạn gặp mưa, ông tiếp tục tự hào về làng Dầu: ” ông sắn quần lên bẹn, múa tay lên mà khoe” đặc biệt cái cách ông khoe ” Tây nó đốt nhà tôi rồi” là biểu hiện cụ thể của ý chí: thà hi sinh tất cả chứ không chịu mất nước không chịu làm nô lệ” của một người nông dân lao động bình thường, thật đáng khâm phục biết bao.

Nhân vật ông hai để lại một dấu ấn không phai mờ là nhờ nghệ thuật miêu tả tâm lý tính cách và ngôn ngữ nhân vật của người nông dân dưới ngòi bút chân thực sinh động của Kim Lân, ông đã đặt nhân vật ông Hai vào tình huống thử thách bên trong( nghe tin xấu về làng) để nhân vật bộc lộ chiều sâu tâm trạng của mình, đặc biệt nghệ thuật miêu tả rất cụ thể gợi cảm qua các diễn biến nội tâm bằng ngôn ngữ đối thoại, độc thoại, và độc thoại nội tâm, ngôn ngữ của ông Hai vừa có nét chung của người nông dân ” dặm khẩu”. ” bỏ mẹ”, ” cơ chừng” ” giữ chịt nấy” lại mang đậm tính cách nhân vật đây chính là thành công của Kim Lân.

Như vậy với tình huống truyện đơn giản tự nhiên mà hợp lý, xây dựng nhân vật qua ngôn ngữ cử chỉ, hành động để thể hiện nội tâm, nhân vật ông Hai trong truyện ngắn” làng” của Kim Lân đã làm cho người đọc thấm thía về tình yêu làng yêu nước mộc mạc chân thành mà vô cùng sâu nặng cao quý, trong những người nông dân bình thường, sự mở rộng và thống nhất tình yêu quê hương trong tình yêu đất nước là nét mới của nhận thức, tình cảm của quần chúng cách mạng mà văn học thời kỳ kháng chiến chống Pháp chú trọng và làm nổi bật. Truyện ngắn “Làng” của Kim Lân là một trong những thành công đáng quý này, và qua truyện ngắn người đọc chúng ta được củng cố thêm tình yêu quê hương đất nước.

Cảm nhận về nhân vật ông Hai trong tác phẩm Làng của Kim Lân – Bài làm 4

Có người từng nói: “Người ta chỉ có thể tách con người ra khỏi quê hương chứ không thể tách quê hương ra khỏi con người.”- dù con người và quê hương có bị cách trở bởi địa lí nhưng những tình cảm thì không gì ngăn cách. Đó là chân lí của cuộc sống và cũng là chân lí của văn chương. Cho đến khi đọc truyện ngắn “Làng” của nhà văn kim Lân- một nhà văn am hiểu, gắn bó với cuộc sống nông thôn, dường như ta lại càng cảm nhận sâu sắc hơn chân lí ấy. Qua hình tượng nhân vật ông Hai, nhà văn đã gửi gắm vào tác phẩm những lời nhắn nhủ, tư tưởng mới mẻ: tình yêu làng quê thống nhất với tình yêu đất nước.

Nhân vật ông Hai là điển hình cho người nông dân Việt Nam thời kì kháng chiến chống Pháp. Đối với ông, tình yêu làng quê gắn với cuộc kháng chiến của cả dân tộc. Tất cả buồn vui của ông đều bắt nguồn tù chuyện làng, tin cách mạng. Thói hay khoe làng cho thấy tình yêu và niềm tự hào của lão nông ấy đối với ngôi làng chợ Dầu: ông khoe làng có chòi phát thnah cao bằng ngọn tre, nhà ngói san sát, khoe đường làng lát toàn đá chúng tôi cách mạng tháng Tám, ông lại khoe về tinh thần kháng chiến ở làng với niêm kiêu hãnh vô bờ. Yêu làng như thế nên khi phải xa làng, đến nơi tản cư, ông lão nhớ làng lắm, nhớ những ngày đào hầm, đắp ụ, nhớ những khóa bình dân học vụ…Phải có tình cảm gắn bó máu thịt với mảnh đất chôn rau cắt rốn, ông Hai mới mang trong mình nỗi nhớ da diêt đến vậy.

Nhưng trớ trêu thay, ngôi làng mà ông lão hết sức tự hào, đi đâu cũng khoe kia lại bị đồn là làng Việt gian. Mới đầu khi nghe giặc vào làng, ông lão giật mình, lắp bắp hỏi: “N..nó vào làng chợ Dầu khủng bố hở bác? Thế ta giết được bao nhiêu thắng?” Câu nói ấy cho thấy ý nghĩ về làng quê luôn thường trực trong tâm trí ông nhưng rồi ” cổ ông lão nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân”. Cảm giác bàng hoàn, sững sờ dến tê dại cả người, và cả nỗi đau quặn thắt khiến ông “lặng đi, tưởng như đến không thở được”. Có thể nói nhà văn Kim Lân đã miêu tả tâm trạng của nhân vật thật tinh tế. Càng yêu làng bao nhiêu giờ đây, ông Hai càng đau xot, tủi hổ bấy nhiêu. Ông cứ “cúi gằm mặt xuống”. Phải chăng nỗi đau dớn nhất lúc này chính là ông khong thể nhận mình là người con của làng chợ Dầu được?

Rời khỏi quán nước, về đến nhà, bộ dạng của ông lão thật tộ nghiệp, ông dã tự rít lên vì không biết trút nỗi lòng vào đâu: “Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này”. Ta có thể thấy những suy nghĩ, tâm trạng của ông chủ yếu được thẻ hiện qua hành động, lời nói và yếu tố miêu tả bên ngoài, có yếu tố đọc thoại nội tâm nhưng không nhiều, điều đó hoàn toàn phù hợp với ông Hai- một lão nông chân quê.

Những ngày sau đó, không có hay nói chính xác hơn là không biết phải tâm sự vơi ai, ông đành trò chuyện với đứa con nhỏ để vơi đi nỗi khổ tâm. Nhưng điều đặc biệt ở đay là cuộc nói chuyện nhắc tới làng chơ Dầu- ngôi làng mà chẳng phải ông đã “thù” đó sao. Có lẽ tâm trí ông vẫn ôm ấp dáng hình một ngôi làng tươi đẹp mà con tim từng hết mực yêu quý? Lời con nhỏ hay chính là tấm lòng của ông với làng, với đất nước?

Đến khi tin làn chợ Dầu Việt gian theo giặc được cải chính, ông Hai phấn khởi vô cùng, ông lại đi khoe khắp nơi về làng, về ngôi nhà bị cháy của mình. Chi tiết tưởng như vô lí nhưng lại có ý nghĩa đặc biệt. Đó là chứng cứ hùng hồn nhất cho việc làng ông đã chiến đấu kiên cường. Ông Hai đã quên đi vật chất riêng để hòa vào niềm vui chung của dân tộc. Giờ đây niềm tin của ông vào ngôi làng kháng chiến càng được khẳng định mạnh mẽ, vững vàng hơn. Và tình yêu làng quê- tình cảm truyền thống của người nông dân Việt Nam đã vang lên trong câu hát:

” Làng ta phong cảnh hửu tình

Dân cư giang khúc như hình con long”.

Truyện ngắn “Làng” đã khắc họa thành công tình yêu làng, yêu nước mộ cmạc chân thành nhưng sâu nặng của những người mông dân. Tác phẩm cũng nêu lên chuyển biến tích cực trong nhận thức của quần chúng cách mạng, thể hiện sự sáng tạo của nhà văn tài ba.

Cảm nhận về nhân vật ông Hai trong tác phẩm Làng của Kim Lân – Bài làm 5

Kim Lân là cây bút xuất sắc về truyện ngắn của nền văn học Việt Nam.Viết về đề tài nông dân và kháng chiến, truyện ” Làng” là tác phẩm thành công để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc.Tác phẩm đã khắc họa thành công nhân vật ông Hai – một lão nông trong hoàn cảnh kháng chiến gắn tình yêu làng với yêu quê hương đất nước.

Chuyện khai thác một tình cảm bao trùm trong kháng chiến chống Pháp.Những nét tình cảm và tính cách riêng tư của ông Hai trong truyện cũng là tình cảm chung của người nông dân trong kháng chiến.

Ông Hai vốn là một lão nông cần cù chất phác và ít chữ.Ông cũng như bao con người Việt Nam khác,cũng có một quê hương để yêu thương gắn bó.Làng chợ Dầu luôn là niềm tự hào kiêu hãnh của ông Hai.Đó là những tình cảm không thể nén nổi đã được bộc lộ ra một cách chân tình gần gũi và cũng là điều dễ hiểu thông thường của con người Việt Nam.Một đặc điểm nổi bật ở người nông dân chất phác này là luôn khoe về cái làng chợ Dầu của mình.Cái tính khoe làng của ông Hai gần như trở thành bản chất,có khác chăng là ở những thời điểm khác nhau.

Trước cách mạng,đi đâu ông Hai cũng khoe làng trù phú và nhà ngói san sát,đường trong làng lát toàn đá xanh trời mưa trời gió tha hồ đi,khắp đầu làng cuối xóm bùn không dính đến gót chân,ngày mùa phơi rơm phơi thóc thì tốt thượng hạng,lại còn cái chòi phát thanh cao bằng ngọn tre chiều chiều loa gọi cả làng nghe thấy.Đặc biệt ông Hai rất tự hào hãnh diện về cái sinh phần của tên viên tổng đốc: chết chết tôi chưa thấy cái dinh cơ nào mà lại được như cái dinh cơ cụ Thượng làng tôi có lắm lắm là của vườn hoa cây cảnh nom như động ấy.Thấy bảo còn hơn cái lăng cụ thiếu Hà Đông.

Nhưng từ sau cách mạng tháng Tám khi có ánh sáng của Đảng soi rọi tâm hồn ông Hai đã có cuộc cách mạng về nhận thức: ông thấy rằng phải căm thù cái sinh phần của tên viên tổng đốc vì nó mà làng đã phải vất vả phục dịch việc xây dựng cái dinh cơ ấy,ngay bản thân ông bị cả một chồng gạch đổ vào chân khiến cái chân giờ vẫn đi tập tễnh.Từ đó đã dẫn tới sự thay đổi về cách khoe làng chợ Dầu: giờ đây ông luôn tự hào về một làng chợ Dầu kháng chiến với những buổi đi tập dân quân một hai những cụ già đầu tóc bạc phơ cũng rất hăng hái.

Kháng chiến bùng nổ,người dân phải dời làng đi tản cư,theo lệnh cụ Hồ ông Hai cũng đi tản cư với tinh thần ” tản cư là yêu nước,yêu nước là tản cư”.Ở nơi ở mới bao công việc bộn bề nhưng ông vẫn luôn nhớ về chợ Dầu”.Theo dõi những tin tức và ông rất vui khi nghe những tin kháng chiến: một em nhỏ trong ban tuyên truyền xung phong bơi ra giữa hồ Hoàn Kiếm cắm quốc kì lên tháp rùa.Một anh trung đội trưởng sau khi giết chết được bảy tên giặc đã tự sát bằng quả lựu đạn cuối cùng.Đội nữ du kích Trưng Trắc giả làm người đi mua hang đã bắt sống tên quan hai bốt thao ngay giữa chợ.Trong lúc đang hồ hởi với những tin tức kháng chiến thì ông Hai đã nhận được một tin sét đánh về làng chợ Dầu: làng Dầu theo Tây.Như một gáo nước lạnh tạt vào mặt ông Hai,nghe tin dữ ông Hai sững sờ ” cổ ông lão nghẹn ắng lại da mặt tê rân rân,ông lão lặng đi tưởng chừng như không thở được”.Khi chấn tĩnh lại ông còn cố tình chư muốn tin điều đó là sự thật thì lại được nghe câu chuyện kể khá dành dọt lại ” vừa ở dưới đấy lên” làm ông không thể không tin.

Từ lúc nhận được tin dữ ông Hai rất buồn xoay quanh tâm trạng ông lúc này chỉ là những ý nghĩ vẩn vơ nó đã ám ảnh ông suốt chặng đường về nhà,ông chỉ dám ” cúi gằm mặt xuống mà đi”.Đặc biệt là tiếng chửi đổng của người đàn bà dưới xuôi ” cha mẹ tiên sư nhà chúng nó đói khổ ăn trộm ăn cắp người ta còn thương chứ cái giống Việt gian thì cho chúng một nhát” như một nhát dao cứa vào lòng ông lão.Về đến nhà ông nằm vật ra giường như người ốm “nước mắt giàn ra” niềm tin về làng chợ Dậu trong ông đã bị đổ vỡ nghiêm trọng biến thành nỗi hoảng hốt xâm lấn toàn bộ cơ thể khi nghe những tiếng : Tây ,Việt gian,cam nhông là ông lại giật mình thất vọng tràn trề,có lúc ông nghĩ quẩn ” hay là quay về làng” nhưng trở về làng là có nghĩa theo Tây bỏ cụ Hồ bỏ cách mạng.Nhưng rồi chính tình cảm với đất nước với kháng chiến đã thức tỉnh ông rồi đi đến một quyết định dứt khoát ” làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi phải thù”.Rõ ràng lòng yêu nước rộng lớn bao trùm lên tình cảm làng quê.Càng yêu làng bao nhiêu ông càng đau khổ day dứt bấy nhiêu.Một tình thế hoàn toàn bế tắc và tuyệt vọng khi mụ chủ nhà muốn đuổi gia đình ông đi ” về làng tức là chịu làm nô lệ cho thằng Tây”.Kim Lân đã quan sát rất tinh tế và sâu sắc để diễn tả những sắc thái buồn vui những lo sợ ám ảnh của người nông dân về cái làng quê của mình.Họ đã yêu làng trong tình yêu bị thử thách,phải đặt tình yêu nước trên tình yêu làng.Phải chăng đó là thứ tình cảm thường trực trong mỗi con người Việt Nam.

Quá bế tắc ông quay ra trò chuyện với đứa con nhỏ vô cùng cảm động.Nghe con nói ngây thơ mà nước mắt ông chảy dòng dòng trên má.Ông muốn chút nỗi lòng mình vào những lời thủ thỉ tâm sự với đứa con nhưng thực chất đó là lời tự nhủ với chính mình.Ông muốn đứa con luôn ghi nhớ ” nhà ta ở làng chợ Dầu” đã chứng tỏ tình yêu làng vô cùng sâu nặng.Tấm lòng thủy chung với kháng chiến với cách mạng với cụ Hồ trở nên bền vững thiêng liêng.Tình yêu làng của ông Hai chân thật giản dị như chính bản chất của người nông dân.Tình cảm ấy hiền hóa như dé lúa nhành hoa trong sáng như giếng khơi đầu làng.Tình cảm ấy đã nâng lên thành tình yêu đất nước và để rồi : tình yêu làng yêu nước luôn hòa quyện trong một con người như là máu thịt.

Đến cuối truyện người đọc đã nhận ra một ông Hai vô cùng sung sướng tư hào khi nghe tin cải chính về làng mình không phải Việt gian.Nhận được tin ấy “ông cứ múa tay lên mà khoe cái tin ấy với mọi người mặt ông tươi vui rạng rỡ hẳn lên.Ông loan báo cho mọi người biết cái tin ” Tây nó đã đốt nhà tôi rồi bác ạ” một cách tự hào như một niềm hạnh phúc thực sự của mình.Đó là nỗi lòng sung sướng trào ra hồn nhiên như không thể kìm được của người dân quê khi được biết làng mình là làng yêu nước.

Với cốt truyện tâm lý tạo được tình huống căng thẳng ngôn ngữ giản dị trong sáng Kim Lân đã đưa người đọc đến với một thứ cảm xúc vô cùng cao đẹp.Tình yêu làng của một lão nông dân chân đất trở thành niềm say mê đến hãnh diện và như một thói quen được khoe về làng mình.Tình yêu làng thống nhất với tinh thần kháng chiến khi đất nước đang có ngoại xâm.Tình cảm ấy của ông Hai cũng là tình cảm chung của người Việt Nam đối với tổ quốc.

Từ khóa tìm kiếm:

cam nhan cua em ve nhan vat ong hai trong doan trich ong lao nao nuc gam mat xuong ma di

trong tác phảm tiễng nói văn nghẹ của nguyễn đình thi có viết tác phẩm nghệ thuật nào cũng xây dựng trên chất liệu

Bạn đang đọc nội dung bài viết Nghị Luận: Từ Nhân Vật Ông Hai (Làng trên website Athena4me.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!