Cập nhật nội dung chi tiết về Luận Văn: Văn Bản Quy Phạm Pháp Luật Của Hđnd &Amp; Ubnd, Hot mới nhất trên website Athena4me.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là xu thế khách quan, mang tính quy luật của quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội, đây là nhân tố quyết định cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay. Một trong những tiêu chí quan trọng để xây dựng nhà nước pháp quyền là phải có hệ thống pháp luật hoàn thiện, chính vì vậy tại Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/8/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 đã đề ra mục tiêu Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; đổi mới căn bản cơ chế xây dựng và thực hiện pháp luật; phát huy vai trò và hiệu lực của pháp luật để góp phần quản lý xã hội, giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, thực hiện quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân, góp phần đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Để có hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, trong thời gian qua nhà nước đã đề ra nhiều giải pháp để nâng cao chất lượng xây dựng, ban hành văn bản. Năm 2004, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy pham pháp luật của HĐND và UBND. Luật này quy định thẩm quyền, trình tự, thủ tục ban hành văn bản QPPL của HĐND và UBND. Đây là một văn bản pháp lý quan trọng giúp cho các cấp chính quyền địa phương ban hành những văn bản QPPL để cụ thể hóa các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, từng bước nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong hoạt động quản lý nhà nước. 9. 2 Kể từ khi triển khai thực hiện Luật 2004, tại tỉnh Quảng Ngãi, HĐND và UBND các cấp đã ban hành một số lượng văn bản QPPL tương đối lớn. Có rất nhiều hoạt động đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất được triển khai trong quá trình ban hành văn bản QPPL của HĐND và UBND như: thẩm định, kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa, theo dõi thi hành pháp luật được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được thì văn bản QPPL của HĐND và UBND các cấp vẫn chưa đáp ứng được với yêu cầu quản lý, những thay đổi hàng ngày của đời sống xã hội và bộc lộ một số vấn đề bất cập. Đối với cấp huyện, qua khảo sát việc kiểm tra văn bản theo quy định tại Nghị định số 40/2010/NĐ-CP ngày 12/4/2010 của Chính phủ về kiểm tra và xử lý văn bản QPPL (sau đây gọi tắt là Nghị định 40) và Chỉ thị số 32/2005/CT-TTg ngày 10/10/2005 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường công tác kiểm tra, xử lý văn bản QPPL (sau đây gọi tắt là Chỉ thị 32) đã đạt được một số kết quả, góp phần tích cực vào việc đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất trong ban hành văn bản cũng như từng bước nâng cao dần chất lượng của hoạt động soạn thảo, ban hành văn bản của HĐND và UBND cấp huyện. Tuy nhiên, hoạt động kiểm tra văn bản QPPL ở cấp huyện vẫn còn nhiều tồn tại như: Công tác kiểm tra văn bản chưa được cơ quan kiểm tra tiến hành thường xuyên, liên tục; hoạt động kiểm tra còn sơ sài, qua loa, chủ yếu kiểm tra về thể thức và kỹ thuật trình bày mà chưa đi sâu vào nội dung văn bản; nhiều huyện không tuân thủ tính kịp thời trong việc gửi văn bản đến cơ quan có thẩm quyền để thực hiện kiểm tra theo đúng quy định; các phương thức kiểm tra chưa triển khai đồng đều; nhiều văn bản có dấu hiệu trái pháp luật chưa được phát hiện xử lý kịp thời hoặc phát hiện chưa đầy đủ; việc theo dõi quá trình xử lý văn bản trái pháp luật của các cơ quan ban hành chưa chặt
MÃ TÀI LIỆU: 20185
PHÍ TÀI LIỆU: 50.000
ĐỊNH DẠNG: WORD+PDF
THANH TOÁN QUA MOMO, CHUYỂN KHOẢN, THẺ CÀO ĐIỆN THOẠI (X2)
NỘI DUNG: MÃ TÀI LIỆU – EMAIL NHẬN ( VÍ DỤ: 0324 – trinhnam34gmailcom) có thể bỏ chữ @ mới gửi được)
CHECK EMAIL (1-15 PHÚT)
NẾU CHỜ QUÁ 15 PHÚT CHƯA THẤY MAIL VUI LÒNG NHẮN ZALO: 0932091562
NHẬP TÀI LIỆU BẠN CẦN TÌM VÀO ĐÂY
Luận Văn: Kiểm Tra, Xử Lý Văn Bản Quy Phạm Pháp Luật, Hay
, DOWNLOAD ZALO 0932091562 at BẢNG BÁO GIÁ DỊCH VỤ VIẾT BÀI TẠI: chúng tôi
Published on
Luận văn thạc sĩ ngành luật: Kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật ở Bộ Nội Vụ, cho các bạn tham khảo làm đề tài nghiên cứu
1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN VĂN KHIÊM KIỂM TRA, XỬ LÝ VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT Ở BỘ NỘI VỤ LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội – 2015
2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN VĂN KHIÊM KIỂM TRA, XỬ LÝ VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT Ở BỘ NỘI VỤ Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật Mã số : 60380101 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: chúng tôi Phạm Hồng Thái Hà Nội – 2015
3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƢỜI CAM ĐOAN Trần Văn Khiêm
4. LỜI CẢM ƠN Trong quá trình thực hiện viết Luận văn, mặc dù còn gặp nhiều khó khăn về thời gian, tƣ liệu, song, đƣợc sự giúp đỡ tận tình của các thầy, cô giáo Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, Học viện Hành chính Quốc gia, Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật – Bộ Tƣ pháp cũng nhƣ các cán bộ, công chức Bộ Nội vụ, học viên đã hoàn thành Luận văn “Kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật ở Bộ Nội vụ”, theo đúng thời gian và yêu cầu của nhà Trƣờng. Với tình cảm trân trọng và biết ơn, tôi xin trân thành cảm ơn đến: – Ban chủ nhiệm Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, các thầy, cô giáo, cán bộ, viên chức các Phòng của Khoa. – Đặc biệt, tôi xin cám ơn chúng tôi Phạm Hồng Thái đã tận tình hƣớng dẫn, giúp đỡ tôi hoàn thành Luận văn; – Các đồng nghiệp công tác tại Bộ Tƣ pháp, Bộ Nội vụ đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu này; Trong quá trình làm đề tài, bản thân tôi đã cố gắng tìm hiểu tài liệu, học hỏi kinh nghiệm để tổng hợp, đánh giá. Tuy nhiên, Luận văn không tránh khỏi những hạn chế, rất mong nhận đƣợc sự góp ý của các thầy, cô giáo, các anh, chị và các bạn. Trân trọng!
6. 2.1. Khái quát chung về Bộ Nội vụ……………………………………………………………………….. 41 2.2. Văn bản QPPL do Bộ, cơ quan ngang bộ, HĐND và UBND cấp tỉnh ban hành thuộc lĩnh vực quản lý nhà nƣớc của Bộ Nội vụ. ………………………… 44 2.2.1.VBQPPL không đúng căn cứ pháp lý……………………………………………………………. 45 2.2.2.VBQPPL không đúng thẩm quyền ……………………………………………………………….. 47 2.2.3.VBQPPL không phù hợp với văn bản đƣợc áp dụng làm căn cứ ban hành………………………………………………………………………………………….52 2.2.4.VBQPPL không đƣợc ban hành đúng trình tự, thủ tục, thể thức, kỹ thuật trình bày ………………………………………………………………………………………56 2.3. Hoạt động kiểm tra, xử lý VBQPPL của Bộ Nội vụ từ năm 2007 đến nay………………………………………………………………………………………………. 59 2.3.1. Xây dựng, hoàn thiện thể chế………………………………………………………………………. 59 2.3.2. Tổ chức tập huấn, bồi dƣỡng nghiệp vụ và kiện toàn tổ chức biên chế, xây dựng đội ngũ cộng tác viên ……………………………………………………………………………. 61 2.3.3. Xây dựng hệ cơ sở dữ liệu phục vụ kiểm tra VBQPPL…………………………………… 61 2.3.4. Bố trí kinh phí, nhân lực cho hoạt động kiểm tra, xử lý VBQPPL. ………………….. 61 2.4. Những kết quả đạt đƣợc và những hạn chế trong kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật ở Bộ Nội vụ………………………………………………………………. 64 2.4.1. Kết quả và nguyên nhân……………………………………………………………………………… 64 2.4.1.1. Kết quả đạt đƣợc……………………………………………………………………………. 64 2.4.1.2. Nguyên nhân của kết quả ………………………………………………………………. 71 2.4.2. Hạn chế và nguyên nhân…………………………………………………………………………….. 72 2.4.2.1. Hạn chế trong hoạt động kiểm tra, xử lý VBQPPL …………………………….72 2.4.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế trong hoạt động kiểm tra, xử lý VBQPPL …………………………………………………………………………………………………..74 Kết luận chƣơng 2…………………………………………………………………………….80 Chƣơng 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG HOẠT ĐỘNG KIỂM TRA, XỬ LÝ VBQPPL CỦA BỘ NỘI VỤ……………………………..82 3.1. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về kiểm tra, xử lý VBQPPL4 …………………. 82 3.2. Tăng cƣờng năng lực cho đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác kiểm tra, xử lý VBQPPL ở Bộ Nội vụ4………………………………………………………………… 87 3.3. Tăng cƣờng sự phối hợp giữa các cơ quan trong hoạt động kiểm tra, xử lý VBQPPL4…………………………………………………………………………………………………. 88 3.4. Bảo đảm sự tham gia rộng rãi của các tổ chức chính trị – xã hội, của các phƣơng tiện thông tin đại chúng và của mọi tầng lớp nhân dân 4………………………. 88
7. 3.5. Củng cố, kiện toàn tổ chức, biên chế và thực hiện chế độ đãi ngộ thích hợp đối với ngƣời làm công tác kiểm tra văn bản4……………………………………………………….. 89 3.6. Thực hiện tốt việc xây dựng và quản lý hệ cơ sở dữ liệu phục vụ cho công tác kiểm tra, xử lý văn bản trong phạm vi thẩm quyền đƣợc giao4 ……………… 91 3.7. Bố trí kinh phí kiểm tra và thực hiện tốt chế độ báo cáo công tác kiểm tra VBQPPL4 ………………………………………………………………………………………. 93 Kết luận chƣơng 34 …………………………………………………………………………………….91 KẾT LUẬN4 ……………………………………………………………………………………95 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO14………………………………………..99
8. DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT HĐND Hội đồng nhân dân QPPL Quy phạm pháp luật UBND Ủy ban nhân dân VBQPPL Văn bản quy phạm pháp luật
9. 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Hiến pháp năm 2013 khẳng định Nhà nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân (Điều 2). Xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền đòi hỏi thực hiện quản lý đời sống xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cƣờng pháp chế. Đảng và Nhà nƣớc ta xác định: “quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật ( Điều 8). Để quản lý xã hội bằng pháp luật, các cơ quan Nhà nƣớc đã ban hành nhiều Bộ luật, Luật và các văn bản quy phạm pháp luật trên tất cả các lĩnh vực của đời sống nhà nƣớc và xã hội, nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý và hội nhập quốc tế. Đảng và Nhà nƣớc ta luôn xác định: “Nâng cao năng lực quản lý và điều hành của Nhà nƣớc theo pháp luật, tăng cƣờng pháp chế xã hội chủ nghĩa và kỷ luật, kỷ cƣơng” [13, tr.247]. Xuất phát từ thẩm quyền quản lý nhà nƣớc, đặc điểm, điều kiện địa lý, kinh tế, văn hóa khác nhau ở các địa phƣơng nên các văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nƣớc ở Trung ƣơng ban hành có nhiều quy định mang tính “định hƣớng”, “khung” để các cơ quan, ngƣời có thẩm quyền quy định cụ thể cho phù hợp, theo tinh thần phân cấp quản lý nhà nƣớc. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực của các quy định mang tính định hƣớng cũng đã bộc lộ một số hạn chế nhất định. Dựa trên các tiêu chí mang tính “đặc thù” của mình, nhiều Bộ, ngành, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp đã ban hành văn bản có một số nội dung không phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành. Thực tiễn xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật vẫn còn những văn bản chất lƣợng chƣa cao; văn bản quy phạm pháp luật đƣợc ban hành chậm đi vào cuộc sống, có những văn bản không có hiệu quả, có những văn bản mới ban hành đã phải sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ… Điều này phản ánh tình trạng không triệt để tuân thủ quy định về thẩm quyền, cơ sở pháp lý, trình tự, thủ tục trong việc xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Yêu cầu của việc xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật là phải đảm bảo tính pháp chế, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật. Cơ quan, ngƣời có thẩm quyền ban hành VBQPPL phải tuân thủ trình tự, thủ tục, thẩm quyền, bảo đảm hợp
10. 2 hiến, hợp pháp và tính thống nhất với hệ thống pháp luật hiện hành. Do vậy, kiểm tra, xử lý VBQPPL chính là tăng cƣờng pháp chế trong xây dựng và ban hành VBQPPL của các Bộ, ngành, HĐND và UBND các cấp, đồng thời còn có vai trò quan trọng trong việc bảo đảm kỷ luật, kỷ cƣơng trong xây dựng và ban hành VBQPPL, từng bƣớc hoàn thiện hệ thống VBQPPL, bảo đảm VBQPPL đƣợc xây dựng, thực hiện đồng bộ, thống nhất từ trung ƣơng đến địa phƣơng, góp phần xây dựng nhà nƣớc pháp quyền của dân, do dân và vì dân. Thực hiện chủ trƣơng đổi mới, xây dựng nhà nƣớc pháp quyền, hội nhập quốc tế, cùng với yêu cầu phát huy dân chủ, tăng cƣờng pháp chế thì yêu cầu quan trọng đặt ra là phải xây dựng một hệ thống pháp luật công khai, minh bạch, thống nhất và đồng bộ. Việc xây dựng một hệ thống pháp luật nhƣ trên đòi hỏi không chỉ quan tâm đến công tác xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật mà việc xây dựng, tạo ra một cơ chế kiểm tra, xử lý văn bản đã đƣợc ban hành cũng cần đƣợc quan tâm đúng mức. Cơ quan nhà nƣớc, ngƣời có thẩm quyền trong quá trình xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền đã vô tình hay cố ý ban hành những văn bản không đúng thẩm quyền, trình tự do pháp luật quy định, làm cho hệ thống pháp luật không đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất và đồng bộ. Những nội dung sai trái trong các văn bản của các Bộ, ngành, địa phƣơng ban hành nếu không đƣợc kiểm tra, phát hiện và xử lý kịp thời sẽ cản trở sự nghiệp đổi mới, xây dựng nhà nƣớc pháp quyền và hội nhập quốc tế, làm chậm tiến độ của việc thực hiện các mục tiêu kinh tế – xã hội của đất nƣớc. Mặt khác, những văn bản sai trái cũng làm ảnh hƣởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của nhà nƣớc, tổ chức và công dân. Công tác kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật nhằm phát hiện và xử lý những văn bản không hợp hiến, hợp pháp của cơ quan, ngƣời có thẩm quyền đã đƣợc quy định tại Nghị định số 135/2003/NĐ-CP ngày 14/11/2003 và hiện nay là Nghị định số 40/2010/NĐ-CP ngày 12/4/2010 của Chính phủ. Khác với thẩm định văn bản quy phạm pháp luật (đƣợc thực hiện trƣớc khi văn bản đƣợc ban hành), hoạt động kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật đƣợc tiến hành sau khi văn bản đƣợc ban hành nhƣng cũng góp phần đảm bảo tính minh bạch, đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật.
14. 6 bản quy phạm pháp luật của Bộ Nội Vụ thời gian qua, chỉ ra nguyên nhân của những hạn chế trong công tác này; trên cơ sở đó đề xuất giải pháp góp phần nâng cao hiệu qủa công tác kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật của Bộ Nội Vụ trong thời gian tới. – Nhiệm vụ: + Phân tích cơ sở lý luận về kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật; + Đánh giá thực trạng về xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật và công tác kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật của Bộ Nội Vụ; + Trên cơ sở phân tích thực trạng, luận văn đƣa ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lƣợng hoạt động kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật của Bộ Nội Vụ trong thời gian tới. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn – Đối tượng nghiên cứu: Công tác kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật của Bộ Nội Vụ bao gồm các văn bản quy phạm pháp luật ban hành theo thẩm quyền của Bộ Nội Vụ; các văn bản quy phạm pháp luật do các Bộ, cơ quan ngang bộ, HĐND và UBND cấp tỉnh ban hành thuộc thẩm quyền quản lý nhà nƣớc của Bộ Nội Vụ. – Phạm vi nghiên cứu: Phạm vi nghiên cứu đƣợc giới hạn dƣới góc độ luật học; nghiên cứu về công tác kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật theo thẩm quyền của Bộ Nội Vụ từ năm 2007 đến năm 2013. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn – Phương pháp luận: Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về Nhà nƣớc và pháp luật, nhất là các quan điểm, chủ trƣơng xây dựng và hoàn thiện pháp luật; xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền và tăng cƣờng pháp chế. – Phương pháp nghiên cứu: Để thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu đƣợc đặt ra các phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể đƣợc sử dụng gồm: Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, khảo sát thực tiễn nhằm đánh giá, kết luận và đƣa
16. 8 Chƣơng 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KIỂM TRA, XỬ LÝ VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT 1.1. Khái quát về văn bản quy phạm pháp luật và thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Bộ, cơ quan ngang bộ (cấp bộ) 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm văn bản quy phạm pháp luật Theo nghĩa rộng, văn bản đƣợc hiểu là một phƣơng tiện để ghi nhận và truyền đạt các thông tin, quyết định từ chủ thể này sang chủ thể khác bằng một ký hiệu hay ngôn ngữ nhất định nào đó. Ví dụ: các văn bản pháp luật, các công văn, tài liệu, giấy tờ. Theo nghĩa hẹp, văn bản đƣợc hiểu là các tài liệu, giấy tờ có giá trị pháp lý nhất định, đƣợc sử dụng trong hoạt động của các cơ quan nhà nƣớc, các tổ chức chính trị, chính trị – xã hội, các tổ chức kinh tế,… Ngày nay với sự phát triển của công nghệ thông tin, văn bản điện tử đƣợc sử dụng rộng rãi. Hiện nay, văn bản điện tử đƣợc sử dụng trong giao dịch giữa các cơ quan nhà nƣớc. Theo quy định của pháp luật hiện hành, văn bản điện tử phù hợp với pháp luật về giao dịch điện tử có giá trị pháp lý tƣơng đƣơng với văn bản giấy trong giao dịch giữa các cơ quan nhà nƣớc. Việc ghi chép văn bản trên giấy hay trên các file điện tử chỉ thuần túy là cách thức ghi nhận các thông tin. Dù tồn tại dƣới dạng trên giấy hay trên file điện tử thì cũng không ảnh hƣởng đến bản chất của văn bản “là phƣơng tiện ghi nhận và truyền đạt các thông tin”. a) Khái niệm, đặc điểm VBQPPL: Sau khi Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật đƣợc ban hành thì “văn bản quy phạm pháp luật” trở thành một thuật ngữ pháp lý đƣợc sử dụng rộng rãi, thống nhất trong nghiên cứu và thực tiễn ban hành văn bản. Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 quy định: “Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan nhà nƣớc ban hành hoặc phối hợp ban hành theo thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục do pháp luật quy định, trong đó có
17. 9 quy tắc xử sự chung, có hiệu lực bắt buộc chung, đƣợc Nhà nƣớc bảo đảm thực hiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội” [27, Điều 1]. Nhƣ vậy, từ khái niệm này, chúng ta có thể thấy, văn bản quy phạm pháp luật là văn bản có những đặc điểm sau đây: Một là, do cơ quan nhà nƣớc ban hành hoặc phối hợp ban hành theo thẩm quyền. Hai là, đƣợc ban hành theo đúng hình thức, trình tự, thủ tục quy định đối với từng hình thức văn bản. Ba là, có chứa các quy tắc xử sự chung, đƣợc áp dụng nhiều lần, đối với mọi đối tƣợng hoặc một nhóm đối tƣợng, có hiệu lực trong phạm vi toàn quốc hoặc từng địa phƣơng. Văn bản quy phạm pháp luật không chỉ đích danh một sự việc cụ thể mà chỉ dự liệu trƣớc những điều kiện, hoàn cảnh xảy ra, khi đó con ngƣời tham gia các quan hệ xã hội mà văn bản điều chỉnh phải tuân theo quy tắc xử sự nhất định. Bốn là, đƣợc Nhà nƣớc bảo đảm thực hiện bằng biện pháp nhƣ tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục và các biện pháp về tổ chức, hành chính, kinh tế. Trong trƣờng hợp cần thiết, Nhà nƣớc có thể áp dụng biện pháp cƣỡng chế bắt buộc thi hành và quy định chế tài đối với ngƣời vi phạm (chế tài hình sự, chế tài hành chính, chế tài dân sự,…). b) Văn bản QPPL do Bộ, cơ quan ngang bộ ban hành. Điều 2 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 quy định hệ thống VBQPPL hiện nay gồm: Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội; Pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội; Lệnh, quyết định của Chủ tịch nƣớc; Nghị định của Chính phủ; Quyết định của Thủ tƣớng Chính phủ; Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Thông tƣ của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; Thông tƣ của Viện trƣởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; Thông tƣ của Bộ trƣởng, Thủ trƣởng cơ quan ngang bộ; Quyết định của Tổng Kiểm toán Nhà nƣớc; Nghị quyết liên tịch giữa Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội hoặc giữa Chính phủ với cơ quan trung ƣơng của tổ chức chính trị – xã hội; Thông tƣ liên tịch giữa Chánh
18. 10 án Tòa án nhân dân tối cao với Viện trƣởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; giữa Bộ trƣởng, Thủ trƣởng cơ quan ngang bộ với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trƣởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; giữa các Bộ trƣởng, Thủ trƣởng cơ quan ngang bộ; Văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân (gồm: Nghị quyết của Hội đồng nhân dân; Quyết định, Chỉ thị của Ủy ban nhân dân). Đối với Bộ, cơ quan ngang bộ, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 quy định: Chỉ có Bộ trƣởng, Thủ trƣởng cơ quan ngang bộ mới có thẩm quyền ban hành VBQPPL. Đây là thẩm quyền của ngƣời đứng đầu Bộ, cơ quan ngang bộ. Hình thức VBQPPL do Bộ trƣởng, Thủ trƣởng cơ quan ngang bộ ban hành là thông tƣ (Thông tƣ của Bộ trƣởng, Thủ trƣởng cơ quan ngang bộ) và thông tƣ liên tịch (Thông tƣ liên tịch giữa Bộ trƣởng, Thủ trƣởng cơ quan ngang bộ với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trƣởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; giữa các Bộ trƣởng, Thủ trƣởng cơ quan ngang bộ). Tuy nhiên, có thể thấy định nghĩa về VBQPPL nói chung cũng nhƣ VBQPPL của Bộ trƣởng, Thủ trƣởng cơ quan ngang bộ nói riêng chƣa thực sự đáp ứng yêu cầu của việc thực thi pháp luật. Bởi vì, trên thực tế, dù đã có định nghĩa, nhƣng vẫn thƣờng gặp khó khăn khi xác định một văn bản cụ thể có phải là VBQPPL hay không vì, chƣa có tiêu chí xác định thế nào là quy tắc xử sự chung. Đây là vấn đề thƣờng gặp khi tiến hành kiểm tra VBQPPL của các Bộ, cơ quan ngang bộ, HĐND và UBND cấp tỉnh. 1.1.2. Thẩm quyền ban hành VBQPPL của Bộ Nội Vụ Thẩm quyền ban hành VBQPPL đƣợc hiểu là giới hạn quyền lực do pháp luật quy định cho chủ thể ban hành VBQPPL để giải quyết những vấn đề thuộc phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn. Thẩm quyền ban hành VBQPPL bao gồm thẩm quyền hình thức và thẩm quyền nội dung. Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 quy định: “Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền ban hành hoặc phối hợp ban hành theo thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục đƣợc quy định Trong Luật này hoặc trong Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, trong đó có quy tắc
19. 11 xử sự chung, có hiệu lực bắt buộc chung, đƣợc Nhà nƣớc đảm bảo thực hiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội [27, Điều 1]. * Thẩm quyền hình thức là quyền của chủ thể ban hành VBQPPL trong việc lựa chọn, sử dụng đúng tên loại VBQPPL theo quy định của pháp luật. Pháp luật quy định, mỗi cá nhân, cơ quan trong thẩm quyền của mình chỉ đƣợc ban hành một hoặc một số hình thức VBQPPL (ví dụ: Chính phủ ban hành Nghị định, Thủ tƣớng Chính phủ ban hành Quyết định; Bộ trƣởng, Thủ trƣởng cơ quan ngang bộ ban hành Thông tƣ, Thông tƣ liên tịch…). Theo quy định tại Khoản 8 Điều 2 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 thì Bộ trƣởng, Thủ trƣởng cơ quan ngang bộ đƣợc ban hành VBQPPL bằng hình thức thông tƣ hoặc thông tƣ liên tịch. Nhƣ vậy, chỉ có Bộ trƣởng, Thủ trƣởng cơ quan ngang bộ mới có thẩm quyền ban hành VBQPPL. Đây là thẩm quyền của ngƣời đứng đầu Bộ, cơ quan ngang bộ. Đồng thời, ngƣời đứng đầu Bộ, cơ quan ngang bộ không đƣợc ban hành VBQPPL bằng các hình thức nhƣ công văn, thông báo hoặc các văn bản hành chính khác. Về nguyên tắc, văn bản của Bộ trƣởng, Thủ trƣởng cơ quan ngang bộ tuy bản thân nó có chứa đựng QPPL nhƣng nếu không đƣợc ban hành theo hình thức luật định thì sẽ không có hiệu lực thi hành vì đã vi phạm các quy định của pháp luật ban hành VBQPPL về hình thức văn bản. Về hình thức VBQPPL của Bộ, cơ quan ngang bộ cần đề cập đến một vấn đề là mối quan hệ giữa văn bản chính và văn bản kèm theo. Trên thực tế, không ít VBQPPL đƣợc hợp thành từ hai loại: Văn bản có hình thức là VBQPPL và văn bản kèm theo. Đó là: Thông tƣ ban hành kèm theo một văn bản khác nhƣ quy chế, quy định…Ví dụ: Thông tƣ số 16/2012/TT-BNV ngày 28/12/2012 của Bộ trƣởng Bộ Nội Vụ ban hành quy chế thi tuyển, xét tuyển viên chức; quy chế thi thăng hạng chức danh nghề nghiệp đối với viên chức và Nội quy kỳ thi tuyển, thi thăng hạng chức danh nghề nghiệp đối với viên chức… Hiện nay, chƣa có quy tắc chung về việc sử dụng loại văn bản nói trên. Việc lựa chọn tên gọi của văn bản đƣợc ban hành kèm theo là “quy chế” hay “quy định”… là tùy thuộc vào cơ quan ban hành.
20. 12 * Thẩm quyền nội dung là quyền của chủ thể ban hành VBQPPL trong việc xem xét và quyết định thể hiện trong VBQPPL những QPPL điều chỉnh quan hệ xã hội thuộc phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của chủ thể đó. Về thực chất, đó là giới hạn của việc sử dụng quyền lực nhà nƣớc mà pháp luật đã đặt ra đối với mỗi cá nhân, cơ quan trong bộ máy nhà nƣớc. Điều 16 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 quy định: “Thông tƣ của Bộ trƣởng, Thủ trƣởng cơ quan ngang bộ đƣợc ban hành để quy định các vấn đề sau: 1. Quy định chi tiết thi hành luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nƣớc, nghị định của Chính phủ, quyết định của Thủ tƣớng chính phủ; 2. Quy định về quy trình, quy chuẩn kỹ thuật, định mức kinh tế – kỹ thuật của ngành, lĩnh vực do mình phụ trách; 3. Quy định biện pháp để thực hiện chức năng quản lý ngành, lĩnh vực do mình phụ trách và những vấn đề khác do Chính phủ giao”. Nhƣ vậy, việc ban hành VBQPPL của Bộ, cơ quan ngang bộ gắn với việc thực hiện chức năng của cơ quan quản lý nhà nƣớc ở Trung ƣơng, để thực hiện VBQPPL của cơ quan nhà nƣớc cấp trên, gắn với việc thực hiện quản lý nhà nƣớc đối với ngành, lĩnh vực đƣợc phân công. * Thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Bộ Nội Vụ: Bộ Nội Vụ là một trong 22 Bộ, cơ quan ngang bộ của Chính phủ. Bộ Nội Vụ thực hiện các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy theo Nghị định số 36/2012/NĐ- CP ngày 18/4/2012 của Chính phủ quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ, cơ quan ngang bộ và Nghị định số 61/2012/NĐ-CP ngày 10/8/2012 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Nội Vụ. Theo đó, Bộ Nội Vụ là cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà nƣớc về các ngành, lĩnh vực: Tổ chức hành chính, sự nghiệp nhà nƣớc; chính quyền địa phƣơng, địa giới hành chính; cán bộ, công chức, viên chức nhà nƣớc; hội, tổ chức phi chính phủ; thi đua, khen thƣởng; tôn giáo; văn thƣ, lƣu
21. 13 trữ nhà nƣớc; thanh niên và quản lý nhà nƣớc đối với các dịch vụ công thuộc lĩnh vực quản lý của Bộ theo quy định của pháp luật. Theo Nghị định số 36/2012/NĐ-CP ngày 18/4/2012 và Nghị định số 61/2012/NĐ-CP ngày 10/8/2012 của Chính phủ, Bộ Nội Vụ thực hiện chức năng quản lý nhà nƣớc về các ngành, lĩnh vực, cụ thể nhƣ sau: – Trình Chính phủ dự án luật, dự thảo nghị quyết của Quốc hội, dự án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết của Ủy ban Thƣờng vụ Quốc hội, dự thảo nghị quyết, nghị định của Chính phủ theo chƣơng trình, kế hoạch xây dựng pháp luật hàng năm của Bộ đã đƣợc phê duyệt và các dự án, đề án theo sự phân công của Chính phủ, Thủ tƣớng Chính phủ; chiến lƣợc, quy hoạch, kế hoạch phát triển dài hạn, năm năm, hàng năm và các dự án, công trình quan trọng quốc gia thuộc ngành, lĩnh vực do Bộ Nội Vụ quản lý. – Trình Thủ tƣớng Chính phủ dự thảo quyết định, chỉ thị và các văn bản khác thuộc ngành, lĩnh vực do Bộ Nội Vụ quản lý hoặc theo phân công; – Ban hành thông tƣ, thông tƣ liên tịch thuộc phạm vi quản lý nhà nƣớc của Bộ; hƣớng dẫn, kiểm tra việc thực hiện các văn bản đó. – Chỉ đạo, hƣớng dẫn, kiểm tra và chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật, chiến lƣợc, quy hoạch, kế hoạch phát triển dài hạn, năm năm, hàng năm và các dự án, công trình quan trọng quốc gia đã đƣợc ban hành hoặc phê duyệt thuộc phạm vi quản lý nhà nƣớc của Bộ; thông tin, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật thuộc phạm vi quản lý nhà nƣớc của Bộ….. 1.1.3. Khái niệm, đặc điểm, mục đích của kiểm tra, xử lý VBQPPL a) Khái niệm kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật Kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật là hoạt động xem xét, đánh giá và kết luận của cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền về tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất đối với các VBQPPL do Bộ trƣởng, Thủ trƣởng cơ quan ngang bộ, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp ban hành hoặc liên tịch ban hành và một số văn bản khác theo quy định của pháp luật, nhằm phát hiện và xử lý kịp thời
22. 14 những văn bản trái pháp luật, đồng thời, xử lý trách nhiệm đối với các cơ quan, ngƣời có thẩm quyền đã ban hành văn bản sai trái đó [20, tr.3]. Kiểm tra, xử lý VBQPPL là hoạt động đƣợc tiến hành sau khi văn bản đƣợc ban hành, nằm trong hệ thống các hoạt động nhằm nâng cao chất lƣợng và hoàn thiện hệ thống pháp luật bằng cách loại bỏ những quy định mâu thuẫn, chồng chéo, làm cho hệ thống pháp luật đồng bộ, minh bạch. Việc đặt ra nhiệm vụ kiểm tra, xử lý VBQPPL trong khi văn bản đó đã đƣợc thẩm định, thẩm tra trƣớc khi ban hành và đƣợc rà soát, giám sát sau khi ban hành là vì: – Kiểm tra VBQPPL giúp phát hiện, xử lý những quy định mâu thuẫn, chồng chéo, trái pháp luật của văn bản mà các cơ quan có thẩm quyền thẩm định, thẩm tra có thể không hoặc chƣa phát hiện đƣợc hết. Hơn nữa, hoạt động thẩm định, thẩm tra chỉ mang tính chất khuyến nghị nên không thể xử lý triệt để những mâu thuẫn, chồng chéo trong dự thảo VBQPPL (nếu những đề nghị của cơ quan thẩm định không đƣợc cơ quan soạn thảo tiếp thu). – Sau khi VBQPPL đƣợc ban hành và tổ chức thực hiện trong thực tế, tình hình kinh tế – xã hội có thể thay đổi hoặc cơ quan nhà nƣớc cấp trên ban hành VBQPPL mới làm cho nội dung của văn bản đó không còn phù hợp, nếu không đƣợc phát hiện và xử lý kịp thời sẽ gây ra những hậu quả nhất định. – Hoạt động kiểm tra văn bản có thể phát hiện và xử lý nhanh chóng, kịp thời những văn bản trái pháp luật vì hoạt động này đƣợc tiến hành thƣờng xuyên, ngay sau khi văn bản đƣợc ban hành với sự tham gia đồng thời của nhiều chủ thể (khác với hoạt động định kỳ, không thƣờng xuyên của hoạt động giám sát, rà soát văn bản). Ngoài ra, kiểm tra, xử lý văn bản góp phần thực hiện nhiệm vụ đổi mới quy trình xây dựng, ban hành VBQPPL, vì thông qua việc xem xét, đánh giá văn bản, công tác này chỉ ra đƣợc những thiếu sót, khiếm khuyết trong quy trình ban hành văn bản, để có những kiến nghị nhằm đổi mới, hoàn thiện quy trình xây dựng và ban hành VBQPPL. Hoạt động kiểm tra văn bản còn có ý nghĩa đối với việc duy trì trật tự quản lý nhà nƣớc và bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Thực tế cho thấy, một số VBQPPL trái pháp luật đã xâm phạm đến trật tự quản lý,
23. 15 làm suy giảm hiệu lực, hiệu quả quản lý của cơ quan nhà nƣớc và ảnh hƣởng tới quyền, lợi ích của các cơ quan, tổ chức, công dân, nếu không đƣợc kiểm tra, xử lý kịp thời sẽ ảnh hƣởng đến lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nƣớc. Hoạt động kiểm tra, xử lý VBQPPL cũng góp phần tạo dựng môi trƣờng pháp lý minh bạch, ổn định, lành mạnh, thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế. Bởi vì các nhà đầu tƣ và các đối tác nƣớc ngoài luôn quan tâm tới những rủi ro về chính sách, pháp luật; muốn giảm thiểu rủi ro, thì trƣớc hết cần phải loại bỏ mâu thuẫn, chồng chéo, trái pháp luật, và đó chính là nhiệm vụ của hoạt động kiểm tra, xử lý văn bản. Do tính chất và tầm quan trọng nhƣ vậy, nên ở nƣớc ta trƣớc đây, hoạt động kiểm tra văn bản cũng đã đƣợc đặt ra và giao cho hệ thống Viện kiểm sát nhân dân. Qua thời gian thực hiện, bên cạnh những kết quả đạt đƣợc, hoạt động kiểm sát văn bản của Viện kiểm sát nhân dân đã bộc lộ những khiếm khuyết, hạn chế, chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu của thực tiễn. Từ thực tế đó và nhằm tạo điều kiện cho Viện kiểm sát nhân dân tập trung thực hiện tốt chức năng công tố, Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25/12/2001 của Quốc hội Việt Nam sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992 đã quy định Viện kiểm sát nhân dân chỉ thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tƣ pháp, không thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân thủ pháp luật đối với các văn bản quy phạm pháp luật của Bộ, cơ quan ngang Bộ, HĐND và UBND các cấp. Đồng thời, trên cơ sở Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Luật Tổ chức HĐND và UBND, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 135/2003/NĐ-CP ngày 14/11/2003 về kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật, hiện nay đƣợc thay thế bằng Nghị định số 40/2010/NĐ-CP ngày 12/4/2010 của Chính phủ về kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật (sau đây gọi tắt là Nghị định số 40/2010/NĐ-CP) đã tạo cơ sở pháp lý cho việc triển khai hoạt động kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật trên phạm vi toàn quốc. b) Mục đích của kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật Mục đích của việc kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật là nhằm phát hiện những nội dung trái pháp luật của văn bản để kịp thời đình chỉ việc thi hành,
24. 16 sửa đổi, huỷ bỏ hoặc bãi bỏ văn bản, bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của hệ thống pháp luật, đồng thời kiến nghị cơ quan, ngƣời có thẩm quyền xác định trách nhiệm của cơ quan, ngƣời có thẩm quyền đã ban hành văn bản trái pháp luật, góp phần nâng cao chất lƣợng, hiệu quả công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật [6, Điều 2]. Nhƣ vậy, mục đích kiểm tra văn bản bao gồm: Thứ nhất, phát hiện những nội dung trái pháp luật của văn bản. Đây là mục đích trực tiếp của hoạt động kiểm tra. Ngƣời kiểm tra phải xem xét kỹ, tỷ mỉ toàn bộ nội dung cũng nhƣ hình thức thể hiện của văn bản đƣợc kiểm tra, từ tiêu ngữ, quốc hiệu, tên cơ quan ban hành, số và ký hiệu, địa danh, ngày, tháng, năm ban hành văn bản, tên loại văn bản, trích yếu, nội dung đến nơi nhận, chữ ký, đóng dấu. Trong phần nội dung của văn bản, ngƣời kiểm tra phải xem xét kỹ, xác định đƣợc những điểm trái pháp luật về căn cứ pháp lý, về thẩm quyền ban hành, về nội dung từng quy định cụ thể, về ngày có hiệu lực của văn bản đã đƣợc ban hành…; Thứ hai, căn cứ vào tính chất, mức độ trái pháp luật của nội dung văn bản, ngƣời kiểm tra kiến nghị các hình thức xử lý phù hợp đối với nội dung sai trái đó: Đình chỉ việc thi hành, sửa đổi, huỷ bỏ, bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ nội dung văn bản, đính chính văn bản, đồng thời kiến nghị xử lý cơ quan, ngƣời đã ban hành văn bản trái pháp luật; Thứ ba, mục đích có tính chất bao trùm toàn bộ hoạt động kiểm tra, xử lý văn bản là: Thông qua hoạt động này, không chỉ phát hiện và xử lý những nội dung sai trái của các văn bản quy phạm pháp luật đã đƣợc ban hành mà còn góp phần bảo đảm việc soạn thảo, ban hành văn bản có chất lƣợng cao hơn, nhằm xây dựng một hệ thống pháp luật thống nhất, đồng bộ, minh bạch, bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tính khả thi, phục vụ trực tiếp yêu cầu xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phát huy dân chủ, tăng cƣờng pháp chế, mở rộng quan hệ quốc tế, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. c) Đặc điểm của kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật Từ những phân tích ở trên và thực tiễn hoạt động kiểm tra văn bản, có thể rút
25. 17 ra một số đặc điểm cơ bản của kiểm tra, xử lý VBQPPL nhƣ sau: Thứ nhất, hoạt động kiểm tra, xử lý văn bản mang tính quyền lực nhà nước, trƣớc hết, khi kiểm tra văn bản, tính hợp hiến, tính hợp pháp phải đƣợc đặc biệt coi trọng. Kiểm tra văn bản luôn luôn là hoạt động mang tính quyền lực nhà nƣớc. Việc kiểm tra VBQPPL phải do chủ thể là cơ quan công quyền có thẩm quyền riêng đƣợc pháp luật quy định. Là hoạt động mang tính quyền lực nhà nƣớc, chủ thể thực hiện quyền kiểm tra phải đƣợc pháp luật quy định. Thứ hai, hoạt động kiểm tra, xử lý văn bản là hoạt động có tính phòng ngừa, kiểm tra văn bản là hoạt động có tính hệ thống và mang tính phòng ngừa đƣợc áp dụng với đối tƣợng là một số VBQPPL do cơ quan, ngƣời có thẩm quyền ban hành, đƣợc pháp luật quy định nhƣ đã nêu ở trên. Hoạt động kiểm tra phải đƣợc tiến hành thƣờng xuyên, các VBQPPL thuộc đối tƣợng kiểm tra không kể văn bản đã phát hiện có sai phạm hay không. Thông thƣờng, hoạt động kiểm tra nói chung cũng nhƣ kiểm tra văn bản nói riêng đều có thể chia thành hai phƣơng thức: Kiểm tra một cách hệ thống và có tính phòng ngừa từ xa thể hiện vai trò quản lý vĩ mô của một nhà nƣớc. Kiểm tra VBQPPL là nhằm phát hiện dấu hiệu trái pháp luật của VBQPPL để kịp thời sửa chữa, khắc phục. Do vậy, ngay cả khi chƣa thấy văn bản có dấu hiệu trái pháp luật thì cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền chịu trách nhiệm kiểm tra văn bản vẫn phải thực hiện nhiệm vụ kiểm tra theo quy định của pháp luật. Thứ ba, hoạt động kiểm tra, xử lý văn bản là hoạt động độc lập và có tính chủ động cao, chủ thể kiểm tra (khác với chủ thể tự kiểm tra) phải là chủ thể độc lập với đối tƣợng chịu sự kiểm tra. Trong việc kiểm tra VBQPPL, cơ quan kiểm tra độc lập với cơ quan ban hành văn bản. Tính độc lập này giúp cơ quan kiểm tra có thể chủ động thực hiện quyền kiểm tra đối với bất kỳ một văn bản nào thuộc thẩm quyền kiểm tra của mình. Các cơ quan kiểm tra phải đƣợc pháp luật trao cho những quyền hạn nhất định để thực hiện nhiệm vụ đƣợc giao. Giống nhƣ hoạt động kiểm sát, giám sát, cơ quan kiểm tra văn bản có trách nhiệm đƣa ra các biện pháp xử lý cụ thể và phải trên cơ sở quy định của pháp luật. Thứ tư, hoạt động kiểm tra, xử lý văn bản đòi hỏi có sự xử lý, giải quyết dứt điểm, nếu nhƣ hoạt động thẩm định, thẩm tra nhằm hạn chế tối đa sự mâu thuẫn,
26. 18 chồng chéo, không hợp pháp, thiếu đồng bộ cũng nhƣ thiếu tính khả thi của văn bản trƣớc khi văn bản đƣợc ban hành, thì hoạt động kiểm tra nhằm loại bỏ, khắc phục sự mâu thuẫn, chồng chéo, không hợp pháp của văn bản sau khi văn bản đƣợc ban hành. Do vậy, việc kiểm tra văn bản không chỉ dừng lại ở việc xem xét, đánh giá mà còn kết luận, xử lý vụ việc, đƣa ra những kiến nghị để sửa chữa kịp thời, sớm khắc phục hậu quả, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nƣớc, tăng cƣờng pháp chế và kỷ luật, kỷ cƣơng, tuân thủ pháp luật đối với chính các cơ quan nhà nƣớc đã ban hành văn bản thuộc đối tƣợng kiểm tra. Nếu thẩm định (hoặc thẩm tra) chỉ có tính chất tƣ vấn, tham khảo đối với cơ quan soạn thảo, ban hành văn bản còn thẩm quyền quyết định thuộc về cơ quan ban hành thì đặc trƣng của việc kiểm tra sau khi văn bản đƣợc ban hành là cơ quan kiểm tra văn bản có quyền đề nghị áp dụng chế tài trong trƣờng hợp văn bản đã ban hành có vi phạm (ví dụ: Văn bản có nội dung trái với văn bản của cơ quan nhà nƣớc cấp trên) và cao hơn nữa là có thẩm quyền xử lý ở một mức độ nào đó, có thể làm ngƣng hiệu lực của văn bản nhƣ: Đình chỉ việc thi hành, bãi bỏ, hủy bỏ nội dung quy định trái pháp luật. Việc xử lý văn bản đƣợc kiểm tra không phải là tùy tiện mà thẩm quyền xử lý văn bản trái pháp luật cũng phải đƣợc pháp luật quy định cụ thể. 1.2. Nội dung hoạt động kiểm tra, xử lý VBQPPL 1.2.1. Sự hình thành cơ chế kiểm tra, xử lý VBQPPL Khởi nguồn về thẩm quyền kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan thuộc hệ thống hành pháp đƣợc xác định và xuất phát trên cơ sở các quy định của Hiến pháp 1992, Luật tổ chức Chính phủ, Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 1994 quy định về thẩm quyền xử lý văn bản trái pháp luật của các chủ thể khác nhau. Nhiệm vụ kiểm tra VBQPPL đƣợc Quốc hội giao Chính phủ thực hiện từ năm 1997 (Ngày 12/11/1996, Quốc hội khóa IX kỳ họp thứ 10 đã thông qua Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Tại Điều 83 và Điều 84 của Luật quy định trách nhiệm của Chính phủ, Thủ tƣớng Chính phủ, Bộ trƣởng, Thủ trƣởng cơ quan ngang bộ, Thủ trƣởng cơ quan thuộc Chính phủ kiểm tra, xử lý văn bản trái pháp luật của các Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, HĐND, UBND cấp
27. 19 tỉnh. Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/1997). Mặc dù vậy, trƣớc năm 2002, công tác kiểm tra, xử lý văn bản trái pháp luật chƣa đƣợc Chính phủ dành sự quan tâm thỏa đáng. Các Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, HĐND và UBND chƣa đƣợc giao trách nhiệm cụ thể giúp Chính phủ thực hiện nhiệm vụ này. Quy trình, thủ tục kiểm tra, trình tự xử lý văn bản trái pháp luật cũng chƣa đƣợc quy định cụ thể. Có thể nói, một trong những lý do dẫn đến tình trạng này là theo quy định của pháp luật tại thời điểm đó thì VBQPPL của các Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và chính quyền địa phƣơng còn chịu sự kiểm sát của Viện Kiểm sát nhân dân các cấp (Từ năm 1960, thẩm quyền kiểm sát chung, trong đó có hoạt động kiểm sát việc tuân thủ pháp luật trong các văn bản pháp quy của các cơ quan của Chính phủ và chính quyền địa phƣơng các cấp đã đƣợc Hiến pháp và Luật tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân giao cho Viện kiểm sát nhân dân các cấp thực hiện. Tuy nhiên, thực tế thì công tác này chỉ đƣợc Viện kiểm sát các cấp quan tâm và thực hiện có kết quả từ năm 1992). Từ năm 2002, theo Hiến pháp 1992 (đƣợc sửa đổi theo Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Quốc hội khóa X) và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2001, Viện Kiểm sát nhân dân không thực hiện chức năng kiểm sát chung, trong đó có kiểm sát việc tuân theo pháp luật đối với văn bản của các cơ quan của Chính phủ và chính quyền địa phƣơng các cấp nữa (Viện Kiểm sát nhân dân chỉ thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tƣ pháp). Cuối năm năm 2002, Luật ban hành VBQPPL đƣợc sửa đổi, tiếp tục giao Chính phủ kiểm tra VBQPPL của các Bộ, cơ quan ngang bộ, HĐND và UBND cấp tỉnh, đồng thời Bộ Tƣ pháp giúp Chính phủ thống nhất quản lý nhà nƣớc về công tác kiểm tra VBQPPL, giúp Thủ tƣớng Chính phủ kiểm tra, xử lý văn bản trái pháp luật của các Bộ, cơ quan ngang bộ, HĐND và UBND cấp tỉnh. Thực tế, Chính phủ đã chủ động triển khai công tác này vì ngay sau khi Hiến pháp 1992 đƣợc sửa đổi, ngày 19/3/2002, Thủ tƣớng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 10/2002/CT-TTg về việc triển khai thực hiện Nghị quyết số 08/NQ-TƢ ngày 12/0/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tƣ pháp trong thời gian tới, và ngày 24/4/2002, Chính phủ cũng đã có Nghị quyết số 05/2002/NQ- CP về một số giải pháp để triển khai thực hiện kế hoạch kinh tế – xã hội năm 2002,
29. 21 xã hội, gây bất bình trong xã hội và làm giảm lòng tin của nhân dân, các nhà đầu tƣ, doanh nghiệp và cán bộ, công chức. Sau một thời gian triển khai thực hiện, Nghị định 135/2003/NĐ-CP ngày 14/11/2003 về kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật, đã bộc lộ một số bất cập, hạn chế, không còn phù hợp với Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật mới đƣợc ban hành (năm 2008) và các văn bản pháp luật hiện hành khác cũng nhƣ có những vấn đề cần phải sửa đổi, bổ sung hoặc quy định mới để đáp ứng yêu cầu thực tiễn về kiểm tra, xử lý VBQPPL. Do đó, ngày 12/4/2010, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 40/2010/NĐ-CP về kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật thay thế. Nhƣ vậy, việc hình thành cơ chế kiểm tra, xử lý văn bản gắn liền với việc Nhà nƣớc giao quyền, hay nói cách khác là Nhà nƣớc phân công thực hiện nhiệm vụ này cho các cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền, trƣớc đây là Viện Kiểm sát nhân dân, nay là các cơ quan thuộc hệ thống cơ quan hành pháp, gồm: Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và UBND các cấp (riêng UBND cấp xã là hoạt động tự kiểm tra). Chúng ta có thể thấy, cơ chế kiểm tra, xử lý VBQPPL ở Việt Nam hiện nay khác với nhiều nƣớc trên thế giới. Ví dụ, ở Nhật Bản thẩm quyền xem xét tính hợp pháp của văn bản đƣợc giao cho cơ quan Tòa án. Ở Mỹ, Australia thì thẩm quyền này cũng đƣợc giao cho Tòa án. Ở Pháp thì việc xem xét tính hợp pháp của VBQPPL đƣợc giao cho Tham Chính viện – đây là cơ quan thuộc Chính phủ và có tính độc lập cao, thẩm quyền lớn trong việc xem xét, xử lý văn bản, cơ quan này có thẩm quyền xem xét tính hợp pháp của các văn bản dƣới hiến pháp. a) Chủ thể có thẩm quyền kiểm tra VBQPPL Theo Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân 2004, Luật Tổ chức Chính phủ và các văn bản hƣớng dẫn thi hành và đƣợc quy định cụ thể tại Nghị định số 40/2010/NĐ-CP, nhƣ sau: Thứ nhất, Bộ trƣởng, Thủ trƣởng cơ quan ngang bộ
31. 23 Bộ trƣởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ thực hiện thẩm quyền kiểm tra theo quy định nói trên và giúp Thủ tƣớng Chính phủ kiểm tra: – Thông tƣ do Bộ trƣởng Bộ Tƣ pháp ban hành về ngành, lĩnh vực quản lý nhà nƣớc của Bộ Tƣ pháp; thông tƣ liên tịch giữa Bộ trƣởng Bộ Tƣ pháp với các Bộ trƣởng, Thủ trƣởng cơ quan ngang bộ, với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trƣởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; – Các văn bản khác khi đƣợc Chính phủ hoặc Thủ tƣớng Chính phủ giao. Trƣờng hợp có tranh chấp thẩm quyền kiểm tra thì Bộ trƣởng Bộ Tƣ pháp báo cáo Thủ tƣớng Chính phủ quyết định . Thứ tư, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện – Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tổ chức kiểm tra văn bản do Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân cấp huyện ban hành. – Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện tổ chức kiểm tra văn bản do Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp xã ban hành. Giám đốc Sở Tƣ pháp, Trƣởng Phòng Tƣ pháp giúp Chủ tịch Ủy ban nhân dân cùng cấp thực hiện việc kiểm tra văn bản theo thẩm quyền nêu trên. Thứ năm, Đoàn kiểm tra VBQPPL theo chuyên đề, theo địa bàn hoặc theo ngành, lĩnh vực: Kiểm tra văn bản theo chuyên đề, theo địa bàn hoặc theo ngành, lĩnh vực là một trong các phƣơng thức kiểm tra văn bản. Đây là hoạt động không thƣờng xuyên và theo quy định Bộ trƣởng, Thủ trƣởng cơ quan ngang bộ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện phê duyệt kế hoạch, quyết định thành lập Đoàn kiểm tra liên ngành kiểm tra văn bản theo chuyên đề, địa bàn hoặc theo ngành, lĩnh vực thuộc thẩm quyền kiểm tra và đôn đốc, chỉ đạo, kiểm tra việc thực hiện kế hoạch đó. Trƣớc khi thực hiện việc kiểm tra theo chuyên đề, địa bàn hoặc theo ngành, lĩnh vực, cơ quan kiểm tra phải thông báo cho cơ quan có văn bản đƣợc kiểm tra
32. 24 biết; cơ quan có văn bản đƣợc kiểm tra có trách nhiệm phối hợp với Đoàn kiểm tra trong việc thực hiện kiểm tra văn bản. b) Đối tượng của hoạt động kiểm tra, xử lý VBQPPL Thứ nhất, các văn bản quy phạm pháp luật do Bộ trƣởng, Thủ trƣởng cơ quan ngang bộ ban hành thuộc đối tƣợng kiểm tra, gồm: – Thông tƣ do các Bộ trƣởng, Thủ trƣởng cơ quan ngang bộ ban hành; Thông tƣ liên tịch do Bộ trƣởng, Thủ trƣởng cơ quan ngang bộ liên tịch ban hành. – Văn bản có chứa quy phạm pháp luật nhƣng không đƣợc ban hành bằng hình thức văn bản quy phạm pháp luật và văn bản do cơ quan không có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật ban hành là đối tƣợng đƣợc kiểm tra. (Văn bản do Bộ trƣởng, Thủ trƣởng cơ quan ngang bộ ban hành có chứa quy phạm pháp luật nhƣng không đƣợc ban hành bằng hình thức thông tƣ của Bộ trƣởng, Thủ trƣởng cơ quan ngang bộ. Ví dụ: Các công văn, thông báo, điện báo, các loại giấy tờ hành chính khác do Bộ trƣởng, Thủ trƣởng cơ quan ngang bộ ban hành có chứa quy tắc xử sự chung ; Văn bản của các cơ quan , tổ chức, cá nhân khác ở bộ , cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ ban hành có thể thức và nội dung nhƣ văn bản quy phạm pháp luật. Ví dụ: Quyết định do Thủ trƣởng các cơ quan chuyên môn của bộ, cơ quan ngang bộ ban hành; các công văn, thông báo, điện báo, các loại giấy tờ hành chính khác có chứa quy phạm pháp luật cũng do các cơ quan này ban hành). Thứ hai, các văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân gồm: – Nghị quyết của Hội đồng nhân dân; quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân. – Văn bản có chứa quy phạm pháp luật nhƣng không đƣợc ban hành bằng hình thức VBQPPL và văn bản do cơ quan không có thẩm quyền ban hành VBQPPL ban hành là đối tƣợng đƣợc kiểm tra. (Văn bản của HĐND, UBND có chứa quy phạm pháp luật nhƣng không đƣợc ban hành bằng hình thức nghị quyết của HĐND, quyết định, chỉ thị của UBND. Ví dụ: Các công văn, thông báo, điện báo, các loại giấy tờ hành chính khác của HĐND, UBND ban hành có chứa quy tắc xử sự chung; văn bản của các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác ở địa phƣơng có thể
34. 26 Thứ ba, kiểm tra văn bản theo chuyên đề, địa bàn (tại cơ quan ban hành văn bản) hoặc theo ngành, lĩnh vực [6, Điều 5]. Ngoài ra, còn có hoạt động kiểm tra của cơ quan, ngƣời có thẩm quyền ban hành đối với chính văn bản của chính cơ quan mình ban hành (còn gọi là tự kiểm tra). Hoạt động này đƣợc tiến hành thƣờng xuyên ngay sau khi văn bản đƣợc ban hành; khi nhận đƣợc yêu cầu, kiến nghị, thông báo của cơ quan, ngƣời có thẩm quyền kiểm tra văn bản hoặc của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác và các phƣơng tiện thông tin đại chúng. 1.2.4. Nội dung kiểm tra VBQPPL Nội dung kiểm tra văn bản là kiểm tra sự phù hợp của văn bản đƣợc kiểm tra với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội và văn bản của cơ quan nhà nƣớc cấp trên; sự phù hợp của hình thức văn bản với nội dung văn bản; sự phù hợp của nội dung văn bản với thẩm quyền của cơ quan ban hành văn bản; sự thống nhất giữa VBQPPL hiện hành với VBQPPL của cùng một cơ quan. Việc xem xét, đánh giá, kết luận về tính hợp pháp của văn bản dựa trên các tiêu chí sau đây: Thứ nhất, văn bản quy phạm pháp luật đƣợc ban hành đúng căn cứ pháp lý . Đúng căn cứ pháp lý là có căn cứ cho việc ban hành văn bản và căn cứ pháp lý làm cơ sở ban hành văn bản quy phạm pháp luật là những văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý cao hơn đang có hiệu lực hoặc đã đƣợc ký ban hành, thông qua mà chƣa có hiệu lực tại thời điểm ban hành nhƣng có hiệu lực trƣớc hoặc cùng thời điểm với văn bản đƣợc ban hành đó (đây là điểm mới so với quy định tại Nghị định số 135 và Thông tư số 01 trước đây), bao gồm: Văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nƣớc cấp trên có thẩm quyền quy định về chức năng, nhiệm vụ của cơ quan ban hành văn bản; văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nƣớc cấp trên có thẩm quyền quy định về vấn đề thuộc đối tƣợng, phạm vi điều chỉnh của văn bản. Thứ hai, văn bản quy phạm pháp luật đƣợc ban hành đúng thẩm quyền . Văn bản quy phạm pháp luật ban hành đúng thẩm quyền gồm thẩm quyền về hình thức và thẩm quyền về nội dung:
35. 27 – Thẩm quyền về hình thức: Cơ quan, ngƣời có thẩm quyền ban hành văn bản chỉ đƣợc ban hành văn bản theo đúng hình thức (tên gọi) văn bản quy phạm pháp luật đã đƣợc quy định cho cơ quan, ngƣời có thẩm quyền đó (đƣợc quy định tại Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân năm 2004); – Thẩm quyền về nội dung: Cơ quan, ngƣời có thẩm quyền chỉ đƣợc ban hành các văn bản có nội dung phù hợp với thẩm quyền của mình đƣợc pháp luật cho phép hoặc đã đƣợc phân công, phân cấp. Thẩm quyền này đƣợc xác định trong các văn bản của cơ quan nhà nƣớc cấp trên có thẩm quyền quy định về phân công, phân cấp, quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn quản lý nhà nƣớc cụ thể của từng cơ quan, từng cấp, từng ngành đối với từng lĩnh vực. Thứ ba, nội dung văn bản phù hợp với quy định của pháp luật, thể hiện: – Thông tƣ và Thông tƣ liên tịch của Bộ trƣởng, Thủ trƣởng cơ quan ngang bộ ban hành hoặc liên tịch ban hành phải phù hợp với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết, nghị quyết liên tịch của Uỷ ban thƣờng vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nƣớc, nghị định, nghị quyết liên tịch của Chính phủ, quyết định của Thủ tƣớng Chính phủ và thông tƣ của Bộ trƣởng, Thủ trƣởng cơ quan ngang bộ khác về lĩnh vực do Bộ trƣởng, Thủ trƣởng cơ quan ngang bộ đó quản lý; – Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh phải phù hợp với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết, nghị quyết liên tịch của Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nƣớc, nghị định, nghị quyết liên tịch của Chính phủ, quyết định của Thủ tƣớng Chính phủ và thông tƣ, thông tƣ liên tịch của Bộ trƣởng, Thủ trƣởng cơ quan ngang bộ (sau đây gọi chung là văn bản của các cơ quan nhà nƣớc Trung ƣơng). – Quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh phải phù hợp với văn bản của các cơ quan nhà nƣớc Trung ƣơng và nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh.
36. 28 – Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp huyện phải phù hợp với văn bản của các cơ quan nhà nƣớc Trung ƣơng và văn bản của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh. – Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp xã phải phù hợp với văn bản của các cơ quan nhà nƣớc Trung ƣơng, văn bản của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh và huyện; – Quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân cấp huyện phải phù hợp với văn bản của các cơ quan nhà nƣớc Trung ƣơng, văn bản của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh và nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp huyện. – Quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân cấp xã phải phù hợp với văn bản của các cơ quan nhà nƣớc Trung ƣơng, văn bản của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, huyện và nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp xã. – Văn bản quy phạm pháp luật không quy định lại các nội dung đã đƣợc quy định trong văn bản quy phạm pháp luật khác và bảo đảm thống nhất giữa văn bản hiện hành với văn bản mới đƣợc ban hành của cùng một cơ quan. Ngoài ra, văn bản đƣợc kiểm tra còn phải phù hợp với các Điều ƣớc quốc tế mà nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc gia nhập. Đối với văn bản đƣợc kiểm tra điều chỉnh những vấn đề đã đƣợc quy định tại Điều ƣớc quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập thì Điều ƣớc quốc tế đó cũng là cơ sở pháp lý để kiểm tra văn bản đó. Thứ tư, văn bản đƣợc kiểm tra phải đƣợc ban hành đúng trình tự, thủ tục, thể thức, kỹ thuật trình bày theo quy định của pháp luật. Trình bày đúng thể thức và kỹ thuật, bao gồm các nội dung: Tiêu đề (tiêu ngữ, quốc hiệu); tên cơ quan, tổ chức ban hành; số và ký hiệu của văn bản (ghi năm ban hành ở giữa số và ký hiệu); địa danh, ngày, tháng, năm ban hành; tên loại văn bản và trích yếu nội dung của văn bản; nội dung văn bản; viết đúng chính tả, ngữ pháp tiếng Việt và văn phong pháp luật; nơi nhận; chức vụ, họ tên và chữ ký của ngƣời có thẩm quyền; đóng dấu của cơ quan, tổ chức (kể cả các dấu chỉ mức độ mật…).
38. 30 thủ tục, tính hợp hiến, hợp pháp chứ không phải là cơ quan chuyên môn mà góp ý sâu vào từng nội dung quy định của dự thảo ấy. Mặc dù Nghị định số 40/2010/NĐ-CP không quy định “tính khả thi, không vi phạm quyền và nghĩa vụ của công dân” trong nội dung kiểm tra văn bản, nhƣng tôi cho đây là vấn đề cần thiết, cần bổ sung trong việc kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật của các Bộ, ngành và địa phƣơng. 1.2.5. Quy trình kiểm tra VBQPPL Trong công tác kiểm tra, quy trình kiểm tra rất quan trọng, quy trình kiểm tra là một chỉnh thể khép kín, gồm nhiều khâu, nhiều bƣớc, từ việc gửi, nhận, tổ chức kiểm tra và kiến nghị xử lý văn bản. Quy trình kiểm tra mà hợp lý, khoa học sẽ giúp cho ngƣời kiểm tra thực hiện việc kiểm tra đƣợc nhanh chóng, hiệu quả và đạt chất lƣợng cao. a) Thứ nhất, quy trình tự kiểm tra Về nguyên tắc, việc tự kiểm tra đƣợc tiến hành thƣờng xuyên tại chính cơ quan ban hành văn bản đối với văn bản do mình ban hành. Tuy nhiên, tuỳ theo tính chất, phạm vi, yêu cầu quản lý và số lƣợng văn bản đƣợc ban hành của Bộ, cơ quan ngang bộ, và từng địa phƣơng, việc tự kiểm tra văn bản có thể đƣợc giao cho tổ chức pháp chế Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan tƣ pháp địa phƣơng trực tiếp thực hiện hoặc phân công cho các đơn vị thuộc Bộ, cơ quan ngang bộ, các Sở, ban, ngành của địa phƣơng thực hiện theo lĩnh vực đƣợc giao phụ trách với điều kiện bảo đảm sự phối hợp chặt chẽ và phát huy vai trò làm đầu mối của cơ quan pháp chế, tƣ pháp trong việc xây dựng kế hoạch, đôn đốc theo dõi công tác tự kiểm tra, tổng hợp và báo cáo kết quả tự kiểm tra với các cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền. Riêng đối với văn bản có chứa quy phạm pháp luật, việc tự kiểm tra đƣợc tiến hành khi có yêu cầu, kiến nghị, khiếu nại của cơ quan, tổ chức, các cơ quan thông tin đại chúng, cán bộ, công chức cơ quan kiểm tra văn bản tự phát hiện trong quá trình kiểm tra văn bản. Khi phát hành văn bản quy phạm pháp luật, cơ quan, đơn vị có trách nhiệm phát hành gửi văn bản cho cơ quan, đơn vị đƣợc phân công làm đầu mối tự kiểm tra để thực hiện việc tự kiểm tra. Trong trƣờng hợp nhận đƣợc yêu cầu, kiến nghị, khiếu nại của cơ quan, tổ
39. 31 chức, cá nhân hoặc cơ quan thông tin đại chúng về những văn bản có chứa quy phạm pháp luật nhƣng không đƣợc ban hành bằng hình thức văn bản quy phạm pháp luật và văn bản do cơ quan, ngƣời không có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật ban hành, thì cơ quan, đơn vị có trách nhiệm ban hành những văn bản đó phải gửi ngay cho cơ quan, đơn vị đƣợc phân công làm đầu mối tự kiểm tra. Quá trình tự kiểm tra phát hiện văn bản có nội dung trái pháp luật hoặc không còn phù hợp, cơ quan, đơn vị đƣợc phân công tự kiểm tra có trách nhiệm thông báo ngay cho cơ quan, đơn vị đã chủ trì soạn thảo, trình văn bản, đồng thời phối hợp trao đổi để thống nhất những nội dung trái pháp luật hoặc không còn phù hợp, thống nhất các biện pháp xử lý và chuẩn bị dự thảo văn bản xử lý, báo cáo với cơ quan, ngƣời đã ban hành văn bản để kịp thời xử lý theo thẩm quyền. Việc tự kiểm tra đƣợc tiến hành theo các bƣớc sau: – Bước 1: Gửi văn bản kiểm tra. Đối với VBQPPL đã đƣợc cơ quan, ngƣời có thẩm quyền ký ban hành, khi phát hành văn bản, đơn vị phát hành văn bản có trách nhiệm đồng thời gửi văn bản cho đơn vị đƣợc phân công kiểm tra văn bản để thực hiện việc kiểm tra. Đối với văn bản liên tịch, mặc dù không chủ trì soạn thảo và phát hành, nhƣng là chủ thể phối hợp thì khi nhận đƣợc văn bản phải sao gửi tới cơ quan, đơn vị đƣợc phân công làm đầu mối tự kiểm tra để thực hiện việc tự kiểm tra. – Bước 2: Nhận văn bản tự kiểm tra. Cơ quan, đơn vị đƣợc phân công nhiệm vụ kiểm tra khi nhận đƣợc văn bản phải vào “sổ văn bản đến”. Việc lập riêng Sổ văn bản đến giúp ngƣời quản lý theo dõi, kiểm tra chính xác số văn bản mà cơ quan có thẩm quyền phát hành đã đƣợc tự kiểm tra, đồng thời cũng theo dõi đƣợc thời gian kiểm tra đối với văn bản đó. Công chức nhận đƣợc văn bản lãnh đạo cơ quan, đơn vị đƣợc giao kiểm tra phải thực hiện việc tự kiểm tra hoặc giao cho cộng tác viên thực hiện. – Bước 3: Tiến hành tự kiểm tra. Bƣớc này do ngƣời kiểm tra thực hiện trên cơ sở đối chiếu tỉ mỉ, cẩn thận từng nội dung văn bản đƣợc kiểm tra với văn bản làm cơ sở pháp lý.
Quy Định Của Pháp Luật Về Văn Bản Quy Phạm Pháp Luật
Như vậy, khi đánh giá một văn bản có phải là văn bản quy phạm pháp luật hay không cũng như xem xét một văn bản có chứa ”quy phạm pháp luật” hay không cần đặc biệt chú ý đến các dấu hiệu đặc trưng của quy phạm pháp luật, gồm: tính áp dụng chung (quy tắc ràng buộc chung và được tôn trọng chung), tính phi cá nhân (không nhằm vào một đối tượng, một con người nào cụ thể hay một nhóm đối tượng cụ thể), tính bắt buộc – tính cưỡng chế nhà nước (đối tượng bắt buộc phải thực hiện, không thể thoái thác) và phải được cơ quan có thẩm quyền ban hành (chủ thể được pháp luật trao thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật).
Pháp luật là biểu hiện hoạt động của các chính sách Thứ hai, văn bản quy phạm pháp luật thể chế hóa và bảo đảm thực hiện các chính sách [1] . Pháp luật được ban hành có thể đưa ra các biện pháp gián tiếp, thông qua việc tạo ra hành lang pháp lý mà trong phạm vi đó, từng cá nhân đóng vai trò là động lực. Luật pháp có thể đem lại công bằng xã hội, giảm đói nghèo, tạo ra động lực cho xã hội phát triển.Tuy nhiên, cần lưu ý làphát triển thôi chưa đủ mà còn cần phải phát triển bền vững. Yêu cầu phát triển bền vững đặt ra cho các cơ quan ban hành văn bản của địa phương phải có các biện pháp quản lý bảo đảm cho sự phát triển bền vững. Điều đó có nghĩa là sẽ không chỉ khai thác cạn kiệt các nguồn lực mà không tính các hệ quả tiếp theo và môi trường sau này. Phát triển bền vững đòi hỏi khi đưa ra các biện pháp quản lý, nhà quản lý phải tính đến việc bảo vệ môi trường. Thông qua các văn bản quy phạm pháp luật, địa phương đưa ra các biện pháp để quản lý tốt các trường học, bệnh viện, xây dựng và quản lý tốt hệ thống nước sạch, đường giao thông… Bằng các văn bản quy phạm pháp luật, chính quyền địa phương đưa ra các biện pháp thu hút đầu tư, khuyến khích sự phát triển của các doanh nghiệp, các cơ chế thực thi hiệu quả.
Thứ ba, văn bản quy phạm pháp luật có thể tạo ra/phân bổ/phát huy các nguồn lực nhằm phát triển kinh tế Pháp luật có thể tạo điều kiện để tăng việc làm và tăng thu nhập.Pháp luật tạo điều kiện cho các chủ sở hữu tiếp cận với các công nghệ thông tin và thị trường, với các kỹ năng về tín dụng và quản lý, qua đó giúp họ tăng năng suất lao động và tăng thu nhập. Trong trường hợp pháp luật thiếu hiệu quả dẫn đến việc đất nước hay từng vùng địa phương nghèo đói và kém phát triển, người ta gọi đó là “thể chế có vấn đề” . Đặc điểm ở các vùng nông thôn là người dân có mức vốn thấp, hoạt động dựa vào các công nghệ có chi phí thấp và có sẵn ở địa phương (sản xuất có thể gọi là manh mún, tiểu thủ công, phần nhiều là lao động tay chân), sử dụng các công cụ làm bằng tay nhiều hơn là sử dụng máy móc hay thiết bị hiện đại (do thiếu vốn hoặc điều kiện tiếp cận thông tin hạn chế); hơn nữa, nông thôn còn có nhiều người thất nghiệp. Các nhà soạn thảo cần phải chú ý đưa ra các biện pháp pháp lý để mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hóa, thị trường lao động… đồng thời phát huy được các nguồn lực.
Thứ tư, văn bản quy phạm pháp luật góp phần làm ổn định trật tự xã hội, tạo cơ hội quản lý tốt và phát triển Cần phân biệt quy phạm pháp luật với các quy phạm xã hội khác. Trong khi các quy phạm mang tính xã hội, dù được xã hội thừa nhận, nhưng vẫn không được bảo đảm bằng các biện pháp cưỡng chế của nhà nước, thì trái lại, quy phạm pháp luật luôn luôn được bảo đảm bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước.
. Nếu như những người đại diện cho dân chúng không bảo đảm cho những người mà họ đại diện có cuộc sống ấm no, an bình nghĩa là họ thực hiện trách nhiệm chưa đầy đủ. Để tránh việc văn bản pháp luật trao cho các cán bộ thực thi pháp luật quyền tự định đoạt quá lớn, bên cạnh các cơ quan dân cử, vẫn cần phải có sự tham gia trực tiếp của người dân vào quá trình ra quyết định của các cơ quan nhà nước. Để tránh sự lộng quyền của cán bộ thực thi pháp luật, chỉ có sự quy định chặt chẽ của văn bản pháp luật mới bảo đảm trách nhiệm của những cơ quan thực thi pháp luật, cán bộ thực thi pháp luật, từ đó bảo đảm lợi ích của người dân. Thứ năm, văn bản quy phạm pháp luật làm thay đổi các hành vi xử sự không mong muốn và thiết lập các hành vi xử sự phù hợp Muốn tạo điều kiện cho phát triển, chúng ta cần phải sử dụng pháp luật để làm thay đổi hành vi xử sự của phần lớn nhân dân, đặc biệt là của các cán bộ nhà nước. Các cán bộ nhà nước là những người đầu tiên có trách nhiệm bảo đảm một xã hội công bằng, văn minh, dân chủ và thay mặt cho những người mà họ đại diện, đó là nhân dân. Các cán bộ địa phương một mặt thực hiện các nhiệm vụ mà pháp luật quy định nhưng mặt khác, đây cũng là sự phó thác của nhân dân đối với đại diện trực tiếp (Hội đồng nhân dân) hay gián tiếp (Uỷ ban nhân dân) của mình trong bộ máy chính quyền ”Thiếu sự quản lý bằng pháp luật, cơ chế trách nhiệm, tính minh bạch và sự tham gia của người dân, các quyết định sẽ trở nên tùy tiện, cán bộ chính quyền sẽ sử dụng quyền lực nhà nước không phải vì lợi ích của đa số nhân dân mà là cho riêng họ” .
– . Văn bản hành chính thông thường có các hình thức cũng như nội dung phong phú, đa dạng, có thể liệt kê một số loại chủ yếu như: Văn bản hành chính thông thường là những văn bản mang tính thông tin điều hành nhằm triển khai thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật hoặc dùng để giải quyết các tác nghiệp cụ thể, phản ánh tình hình, giao dịch, trao đổi, ghi chép công việc… của các cơ quan hành chính nhà nước công văn hành chính (là công cụ giao dịch chính thức giữa các cơ quan: mời họp, đề xuất hoặc trả lời các yêu cầu, câu hỏi, chất vấn, hoặc kiến nghị … hoặc dùng để đôn đốc, nhắc nhở cấp dưới triển khai thi hành công việc theo kế hoạch hay theo thẩm quyền pháp luật quy định…); thông cáo, thông báo, điện báo, biên bản, giấy đi đường, giấy giới thiệu...
Phần thứ ba
I. Các nguyên tắc bảo đảm khi xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật
+ Đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh phải nêu rõ sự cần thiết ban hành văn bản; đối tượng, phạm vi điều chỉnh của văn bản; những quan điểm,
Công khai, minh bạch trong xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật là một trong những nguyên tắc quan trọng cần được các cơ quan soạn thảo, ban hành đặc biệt quan tâm trong quá trình soạn thảo các dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết. Theo đó, Luật năm 2008 đặt ra yêu cầu t rong quá trình soạn thảo dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết,cơ quan, tổ chức chủ trì soạn thảo phải lấy ý kiến cơ quan, tổ chức hữu quan và đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản; nêu những vấn đề cần xin ý kiến phù hợp với từng đối tượng lấy ý kiến và xác định cụ thể địa chỉ tiếp nhận ý kiến; đăng tải toàn văn dự thảo trên Trang thông tin điện tử của Chính phủ hoặc của cơ quan, tổ chức chủ trì soạn thảo trong thời gian ít nhất là sáu mươi ngày để các cơ quan, tổ chức, cá nhân góp ý kiến.
+ Báo cáo thẩm định đối với dự án, dự thảo do Chính phủ trình; ý kiến của Chính phủ đối với dự án, dự thảo không do Chính phủ trình; bản tổng hợp ý kiến góp ý về dự án, dự thảo;
2. Soạn thảo, ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân
2.1. Soạn thảo, ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
Trường hợp đề nghị đưa ra khỏi Chương trình : Trong trường hợp không bảo đảm tiến độ và chất lượng soạn thảo hoặc không cần thiết phải ban hành văn bản vì lý do khách quan, cơ quan, tổ chức, cá nhân đề nghị xây dựng nghị quyết có thể đề nghị đưa ra khỏi chương trình xây dựng nghị quyết của Hội đồng nhân dân văn bản đã dự kiến. Trong trường hợp này, cơ quan, tổ chức, cá nhân phải có Tờ trình gửi Thường trực Hội đồng nhân dân, đồng thời gửi Uỷ ban nhân dân, trong đó phải giải trình rõ lý do đề nghị đưa ra khỏi Chương trình.
Theo quy định tại Điều 27 của Luật năm 2004 thì dự thảo nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh phải được các ban của Hội đồng nhân dân cùng cấp thẩm tra trước khi trình Hội đồng nhân dân. Do vậy, việc phân công cho từng ban của hội đồng nhân dân thẩm tra các dự thảo nghị quyết cụ thể đã được Thường trực Hội đồng nhân dân xác định rõ trong Chương trình xây dựng nghị quyết của Hội đồng nhân dân.
Điều 29 của Luật năm 2004 quy định trình tự Hội đồng nhân dân cấp tỉnh xem xét, thông qua dự thảo nghị quyết. Điều 16 Quy chế hoạt động của Hội đồng nhân dân còn quy định cụ thể thêm một bước nữa, theo đó,Hội đồng nhân dân xem xét, thông qua dự thảo nghị quyết theo trình tự sau đây:
Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh phải được Văn phòng Hội đồng nhân dân gửi Văn phòng Uỷ ban nhân dân để đăng Công báo cấp tỉnh trong thời hạn chậm nhất là ba mươi ngày kể từ ngày Hội đồng nhân dân cấp tỉnh thông qua. Văn phòng Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh chịu trách nhiệm tổ chức việc đăng Công báo văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh. Nghị quyết gửi đăng Công báo phải là bản chính.
– Xây dựng chương trình xây dựng quyết định, chỉ thị: c ơ quan chuyên môn của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh gửi đề nghị xây dựng quyết định, chỉ thị đến Văn phòng Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh. Văn phòng Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh chủ trì, phối hợp với Sở Tư pháp giúp Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh lập chương trình xây dựng quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân theo thứ tự ưu tiên ban hành văn bản, căn cứ vào nhu cầu quản lý nhà nước, tính khả thi của văn bản và tính đồng bộ của hệthống pháp luật.
– Trường hợp đề nghị bổ sung chương trình do phát sinh nhu cầu ban hành văn bản, cơ quan đã đề nghị xây dựng quyết định, chỉ thị của Ủy ban nhân dân và các cơ quan khác thuộc Ủy ban nhân dân có thể đề nghị bổ sung vào chương trình xây dựng nghị quyết của Hội đồng nhân dân.
– Quy trình bổ sung chương trình: quy trình bổ sung chương trình được thực hiện tương tự như quy trình xây dựng chương trình.
– Thẩm quyền điều chỉnh chương trình: căn cứ vào đề nghị điều chỉnh chương trình xây dựng quyết định, chỉ thị và yêu cầu quản lý của địa phương, Uỷ ban nhân dân quyết định điều chỉnh chương trình.
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân chỉ đạo cơ quan trình dự thảo tiếp thu, chỉnh lý dự thảo theo ý kiến của thành viên Uỷ ban nhân dân. Cơ quan trình dự thảo báo cáo về việc tiếp thu, chỉnh lý dự thảo trước các thành viên Uỷ ban nhân dân.
Biểu quyết thông qua dự thảo quyết định, chỉ thị. Uỷ ban nhân dân biểu quyết thông qua dự thảo bằng cách biểu quyết từng vấn đề, sau đó biểu quyết toàn bộ hoặc nghe đọc toàn văn rồi biểu quyết toàn bộ một lần hoặc biểu quyết những vấn đề còn có ý kiến khác nhau rồi biểu quyết toàn bộ dự thảo. Dự thảo quyết định, chỉ thị được thông qua khi có quá nửa tổng số đại biểu thành viên Uỷ ban nhân dân biểu quyết tán thành.
Nội dung của báo cáo thẩm tra phải nêu được ý kiến đánh giá của Ban về dự thảo nghị quyết, những vấn đề được Ban nhất trí, không nhất trí và còn có ý kiến khác nhau, những kiến nghị sửa đổi, bổ sung.
Thường trực Hội đồng nhân dân chỉ đạo cơ quan, tổ chức soạn thảo, Văn phòng Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân chỉnh lý về mặt kỹ thuật dự thảo nghị quyết trước khi trình Chủ tịch Hội đồng nhân dân ký chứng thực. Cần lưu ý là việc chỉnh lý chỉ về mặt câu chữ, kỹ thuật mà không làm thay đổi nội dungdự thảo đã được Hội đồng nhân dân thông qua.
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân chỉ đạo cơ quan soạn thảo chỉnh lý về mặt kỹ thuật dự thảo văn bản trước khi trình Chủ tịch Uỷ ban nhân dân (Chủ tịch thay mặt Uỷ ban nhân dân ký ban hành văn bản). Khi chỉnh lý, không được làm thay đổi nội dungdự thảo đã được thành viên Uỷ ban nhân dân thông qua.
Theo quy định của Luật tại Điều 45 thì “Dự thảo quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân cấp xã do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân phân công và chỉ đạo việc soạn thảo “.
Tuy nhiên, hoạt động quản lý nhà nước của địa phương rất đa dạng, phong phú. Nhiều vấn đề đột xuất, khẩn cấp phát sinh trong quản lý đòi hỏi Uỷ ban nhân dân các cấp cần có những quyết sách kịp thời nhằm giải quyết các vấn đó. Khi đó, việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật để giải quyết những vấn đề này là đòi hỏi tất yếu của hoạt động quản lý nhà nước. Tuy nhiên, trước yêu cầu cấp bách của việc giải quyết vấn đề đột xuất, khẩn cấp, việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật không thể tuân thủ một cách chặt chẽ thủ tục, trình tự ban hành văn bản quy phạm pháp luật trong trường hợp thông thường mà Luật năm 2004 quy định. Do đó, để bảo đảm sự linh hoạt, kịp thời trong quản lý nhà nước ở địa phương, Luật còn quy định việc ban hành quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân trong trường hợp đột xuất, khẩn cấp. Điều 47 Luật năm 2004 quy định:trong trường hợp phải giải quyết các vấn đề phát sinh đột xuất, khẩn cấp trong phòng, chống thiên tai, cháy, nổ, dịch bệnh, an ninh, trật tự thì Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã ban hành quyết định, chỉ thị không theo trình tự, thủ tục thông thường mà theo trình tự, thủ tục quy định tại Điều 48 Luật năm 2004 (trình tự, thủ tục rút gọn). Cần lưu ý rằng Luật chỉ quy định trình tự, thủ tục soạn thảo, ban hành rút gọn đối với văn bản của Uỷ ban nhân dân mà không quy định đối với soạn thảo, ban hành văn bản của Hội đồng nhân dân.
Hiệu lực về không gian và đối tượng áp dụng của v ăn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước ở trung ương
Hiệu lực về không gian và đối tượng áp dụng của v ăn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân các cấp
Nếu như các cơ quan nhà nước trung ương được thiết lập ở tầm quốc gia thì các cơ quan chính quyền địa phương lại được tổ chức ở các đơn vị hành chính – lãnh thổ. Thẩm quyền và phạm vi quản lý của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp chỉ giới hạn trong khuôn khổ một địa bàn lãnh thổ nhất định. Văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan này với tính chất là sản phẩm của hoạt động quản lý có hiệu lực trong lãnh thổ địa phương thuộc thẩm quyền quản lý của cơ quan tương ứng. Tiêu chí để xác định hiệu lực về không gian của văn bản là phạm vi lãnh thổ mà Hội đồng nhân dân hoặc Uỷ ban nhân dân được giao quản lý. Do đó, “văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân có hiệu lực trong phạm vi địa phương” (khoản 2 Điều 79 của Luật năm 2004) thì “phạm vi địa phương” ở đây phải được hiểu là đơn vị hành chính lãnh thổ thuộc thẩm quyền quản lý của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân ban hành văn bản.
Một nguyên tắc cần lưu ý là việc đăng Công báo văn bản quy phạm pháp luật là điều kiện bắt buộc để văn bản phát sinh hiệu lực. Theo đó, Điều 78 của Luật năm 2008 quy định ” văn bản quy phạm pháp luật không đăng Công báo thì không có hiệu lực thi hành”. Nguyên tắc này bắt buộc đối với ngay cả trường hợp văn bản quy phạm pháp luật phát sinh hiệu lực ngay từ ngày công bố hoặc ký ban hành được ban hành trong trường hợp khẩn cấp, văn bản được ban hành để kịp thời đáp ứng yêu cầu phòng, chống thiên tai, dịch bệnh.
“1. Văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh có hiệu lực sau mười ngày và phải được đăng trên báo cấp tỉnh chậm nhất là năm ngày, kể từ ngày Hội đồng nhân dân thông qua hoặc Chủ tịch Uỷ ban nhân dân ký ban hành, trừ trường hợp văn bản quy định ngày có hiệu lực muộn hơn.
Văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân cấp huyện có hiệu lực sau bảy ngày và phải được niêm yết chậm nhất là ba ngày, kể từ ngày Hội đồng nhân dân thông qua hoặc Chủ tịch Uỷ ban nhân dân ký ban hành, trừ trường hợp văn bản quy định ngày có hiệu lực muộn hơn.
Văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân cấp xã có hiệu lực sau năm ngày và phải được niêm yết chậm nhất là hai ngày, kể từ ngày Hội đồng nhân dân thông qua hoặc Chủ tịch Uỷ ban nhân dân ký ban hành, trừ trường hợp văn bản quy định ngày có hiệu lực muộn hơn.
Đối với văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban nhân dân quy định các biện pháp nhằm giải quyết các vấn đề phát sinh đột xuất, khẩn cấp quy định tại Điều 47 của Luật này thì có thể quy định ngày có hiệu lực sớm hơn”
– Văn bản hết thời hạn có hiệu lực đã được quy định trong văn bản. Ví dụ: Quyết định số 2816/QĐ-UB ngày 15 tháng 11 năm 2002 của Uỷ ban nhân dân thành phố Hải Phòng về việc duyệt giá hỏa thiêu bằng lò gas tạm thời thực hiện tại Công ty phục vụ mai táng Hải Phòng quy định: “Thời gian thực hiện tạm thời mức giá duyệt tại Điều 1 được thực hiện 365 ngày kể từ ngày ký Quyết định”.Hoặc một số văn bản quy định: “Văn bản này hết (chấm dứt) hiệu lực sau 3 năm kể từ ngày văn bản có hiệu lực”.
Văn Bản Quy Phạm Pháp Luật Là Gì ? Quy Định Về Văn Bản Quy Phạm Pháp Luật
Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do các cơ quan nhà nước cố thẩm quyền ban hành theo trình tự thủ tục luật định, trong đó có chứa đựng các quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung, làm khuôn mẫu cho xử sự của các chủ thể pháp luật, được áp dụng nhiều lần cho nhiều chủ thể pháp luật trong một khoảng thời gian và không gian nhất định nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội theo một trật tự nhất định mà nhà nước muốn xác lập.
Văn bản quy phạm pháp luật được chia làm hai loại là văn bản luật và văn bản dưới luật.
Văn bản luật là văn bản có hiệu lực pháp lí cao nhất. Văn bản luật bao gồm Hiến pháp – đạo luật cơ bản của Nhà nước, các luật, các bộ luật và các nghị quyết có chứa quy phạm pháp luật của Quốc hội. Trong các loại văn bản này thì Hiến pháp là văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lí tối cao. Hiến pháp được ban hành với một thủ tục đặc biệt: phải có từ 2/3 số phiếu thuận trở lên của các đại biểu Quốc hội thì Hiến pháp mới có thể được ban hành. Bất kì văn bản pháp luật nào khác trái với Hiến pháp đều là văn bản vô hiệu và phải được bãi bỏ.
Các văn bản dưới luật bao gồm:
1) Pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội;
2) Lệnh, quyết định của Chủ tịch nước;
3) Nghị quyết, nghị định của Chính phủ;
4) Quyết định, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ;
5) Quyết định, chỉ thị, thông tư của bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ, š Chánh án toà án nhân dân tối cao, viện trưởng : Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
6) Nghị quyết, thông tư liên tịch giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyển, giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền với tổ chức chính trị – xã hội;
7) Nghị quyết của hội đồng nhân dân các cấp;
8) Quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân các cấp.
Bạn thấy nội dung này thực sự hữu ích?
Bạn thấy nội dung này chưa ổn ở đâu?
Bạn đang đọc nội dung bài viết Luận Văn: Văn Bản Quy Phạm Pháp Luật Của Hđnd &Amp; Ubnd, Hot trên website Athena4me.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!