Cập nhật nội dung chi tiết về Lập Dàn Ý Và Viết Bài Văn Kể Chuyện… mới nhất trên website Athena4me.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Mở bài Thời gian và không gian xảy ra câu chuyện: Đời Hùng Vương thứ 6, ở làng Gióng. II. Thân bài 1. Gốc tích lạ lùng của Thánh Gióng – Hai ông bà đã già, chưa có con. – Bà lão giẫm lên một dấu chân khổng lồ, về nhà thụ thai. – Mười hai tháng sau bà sinh một đứa con trai. – Khi ba tuổi chú bé vẫn chưa biết nói, biết cười, cũng chẳng biết đi. 2. Thánh Gióng nói được và lớn nhanh như thổi Giặc Ân xâm lược, thế giặc mạnh, vua cho sứ giả đi tìm người tài. – Chú bé bỗng nhiên nói được, nhờ mẹ mời sứ giả. Nói với sứ giả đúc ngựa sắt, áo giáp sắt, roi sắt. – Chú bé lớn nhanh như thổi, ăn không đủ no. Dân làng góp thóc gạo nuôi chú.
Từ thuở còn thơ bé, ta đã được nghe bao câu chuyện kể của bà, của mẹ về lịch sử hào hùng, về những truyền thuyết ly kỳ. Và có lẽ ai khi ấy cũng mang trong mình niềm tự hào và ngưỡng mộ những vị anh hùng trong truyền thuyết của dân tộc. Thánh Gióng là một vị anh hùng oai phong như thế. Truyền thuyết Thánh Gióng là truyền thuyết vô cùng hấp dẫn kể về người anh hùng này. Truyền thuyết kể lại rằng: Đời Hùng Vương thứ sáu, ở một ngôi làng nọ bên sông Hồng, có hai vợ chồng nông dân, vừa chăm chỉ làm ăn lại có tiếng phúc đức nhưng đến lúc sắp về già mà vẫn chứa có lấy một mụn con. Một ngày kia, bà vợ ra đồng như thường ngày, trông thấy một vết chân to, bèn đặt chân mình vào ướm thử. Về nhà bà liền mang thai, hai vợ chồng vô cùng vui mừng. Nhưng không giống những người khác, chín tháng mười ngày qua đi, bà mang thai mười hai tháng mới sinh ra một cậu bé mặt mũi khôi ngô, đặt tên là Gióng. Điều kỳ lạ nữa là Gióng lên ba tuổi vẫn chẳng biết nói, chẳng biết cười, đặt đâu nằm đó, hai vợ chồng vừa buồn vừa lo lắng.
Cũng năm ấy, giặc Ân đem quân sang xâm lược bờ cõi nước ta, gây nên bao nhiêu tội ác, dân chúng vô cùng lầm than, khổ sở. Xét thấy thế giặc mạnh, nhà vua bèn sai người đi khắp cả nước tìm người hiền tài cứu nước. Sứ giả đi đến mọi nơi, đi qua cả làng của Gióng. Nghe tiếng rao “Ai có tài, có sức xin hãy ra giúp vua cứu nước”, Gióng đang nằm trên giường bỗng cất tiếng nói đầu tiên:
– Mẹ ơi! Mẹ ra mời sứ giả vào đây cho con. Thấy vậy, bà mẹ rất bất ngờ vui mừng, vội đi ra mời sứ giả vào nhà. Gióng yêu cầu sứ giả về tâu với vua, chuẩn bị đầy đủ ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt để cậu đi đánh giặc.
Kỳ lạ hơn, sau khi sứ giả trở về, Gióng ăn rất khỏe và lớn nhanh như thổi. Cơm ăn bao nhiêu cũng không no, áo vừa mặc xong đã sứt chỉ. Mẹ cậu nuôi không đủ đành nhờ đến hàng xóm láng giềng. Bà con biết chuyện nên cũng rất phấn khởi, ngày đêm tấp nập nấu cơm, đội cà, may vá cho cậu rất chu đáo. Ai cũng hy vọng Gióng sớm ngày ra giết giặc giúp nước, trừ họa cho dân.
Dàn Ý Và Bài Văn Kể Lại Câu Chuyện Thánh Gióng Rất Hay
Dàn ý và bài văn kể lại câu chuyện Thánh Gióng rất hay
– Truyện xảy ra vào đời Hùng vương thứ sáu, ở làng Gióng, tỉnh Bắc Ninh (cũ), nay thuộc ngoại thành Hà Nội.
– Cậu bé làng Gióng có công đánh đuổi giặc Ân, được nhân dân suy tôn là Thánh Gióng.
– Hai vợ chổng già không có con.
– Một hôm bà vợ ra đổng, thấy vết chân lạ rất to, liền dặt bàn chân vào ướm thử.
– Bà thụ thai, sinh ra một đứa con trai.
– Lên ba tuổi, đứa bé không biết đi, không biết nói.
– Giặc Ân xâm phạm bờ cõi nước ta.
– Vua sai sứ giả tìm người tài giỏi cứu nước.
– Cậu bé chợt cất tiếng nói, bảo mẹ gọi sứ giả vào, nhờ sứ giả tâu với vua cấp cho mình giáp sắt, roi sắt, ngựa sắt để đi đánh giặc.
– Cậu bé lớn nhanh như thổi, cả làng góp gạo nuôi cậu.
– Sứ giả mang các thứ đến. Cậu bé vươn vai thành tráng sĩ, cưỡi ngựa sắt xõng lên đánh đuổi quản thù. Roi sắt gãy, cậu nhổ tre đánh tiếp.
– Đuổi giặc đến chân núi Sóc, tráng sĩ cởi giáp sắt bỏ lại, cưỡi ngựa bay lên trời.
– Vua ghi nhớ công lao cứu nước của Gióng, phong cho là Phù Đổng Thiên vương và lập đến thờ.
– Tháng tư hằng năm, làng mở hội lớn.
– Tre ở làng Gióng có màu vàng óng là vì ngựa sắt phun lửa.
– Ao hồ liên tiếp là do vết chân ngựa phi để lại.
– Một làng có tên là làng Cháy do lửa từ miệng ngựa phun ra.
Chuyện xưa kể rằng, vào đời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng thuộc huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, có hai vợ chồng ông lão chăm chỉ làm ăn và nổi tiếng là nhân hậu, phúc đức, nhưng họ buồn vì tuổi đã cao mà chưa có được mụn con nối dõi tông đường.
Một hôm, bà vợ ra đồng, bỗng nhìn thấy một vết chân to lạ thường. Tò mò, bà đặt chân mình vào ướm thử. Không ngờ bà thụ thai và sau mười hai tháng sinh hạ được một cậu con trai bụ bẫm, khôi ngô. Hai vợ chồng mừng lắm, thầm cảm ơn Trời Phật đã ban phúc cho gia đình họ. Nhưng khổ thay! Đứa bé đã lên ba mà vẫn không biết đi, không biết nói, không biết cười, cứ đặt đâu nằm đấy.
Lúc bấy giờ, giặc Ân lăm le xâm chiếm nước ta. Thế giặc rất mạnh. Nhà vua lo sợ bèn sai sứ giả đi khắp nơi tìm người tài giỏi cứu nước. Nghe tiếng rao của sứ giả, cậu bé đang nằm ngửa trên chiếc chõng tre chợt cất tiếng nói: “Mẹ ra mời sứ giả vào đây!”. Bà mẹ ngạc nhiên và vui mừng khôn xiết. Sứ giả vào, cậu bé bảo: “Ông về tâu với vua cấp cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một áo giáp sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc này”.
Sứ giả vô cùng kinh ngạc và mừng rỡ vội về tâu vua. Nhà vua ra lệnh triệu tập những thợ rèn giỏi trong cả nước, ngày đêm làm gấp những thứ chú bé dặn.
Điều kì lạ nữa là sau khi gặp sứ giả, cậu bé lớn nhanh như thổi. Cơm ăn mấy cũng không đủ no, áo vừa mặc xong đã căng đứt chỉ. Cha mẹ cậu làm lụng quần quật vẫn không kiếm đủ gạo để nuôi con. Thấy vậy, dân làng vui lòng xúm vào góp gạo nuôi cậu bé. Ai cũng mong cậu giết giặc, cứu nước.
Giặc Ân đã tràn đến núi Trâu. Thế nước rất nguy, người người lo lắng. Vừa lúc đó sứ giả mang giáp sắt, roi sắt và ngựa sắt tới. Cậu bé bỗng vùng dậy, vươn vai một cái biến thành tráng sĩ oai phong lẫm liệt. Tráng sĩ mặc giáp sắt, tay cầm roi sắt, cưỡi lên mình ngựa sắt. Chàng thúc vào mông ngựa, ngựa sắt hí vang, phun lửa và phi nhanh ra chiến trường. Với chiếc roi sắt trong tay, tráng sĩ vung lên, quật tơi bời vào quân giặc. Bỗng roi sắt gãy, tráng sĩ nhổ cụm tre bên đường đánh tiếp. Giặc hoảng loạn giẫm đạp lên nhau mà chạy, chết như ngả rạ.
Đuổi giặc đến chân núi Sóc, tráng sĩ phi ngựa lên đỉnh núi, cởi giáp sắt bỏ lại rồi cả người lẫn ngựa từ từ bay lên trời. Giặc tan, muôn dân được sống yên bình. Nhà vua ghi nhớ cống lao của tráng sĩ, phong cho tước hiệu Phù Đổng Thiên Vương và lập đền thờ.
Từ bấy đến nay, hằng năm cứ đến tháng tư là làng mở hội Gióng. Dân chúng khắp nơi nô nức kéo đến dự hội và tưởng niệm, tri ơn người anh hùng cứu nước. Dấu ấn trận đánh ác liệt năm xưa còn để lại trong màu vàng óng của những bụi tre đằng ngà, tục truyền là bị cháy do ngựa sắt phun lửa. Những dãy hồ ao liên tiếp chính là vết chân ngựa chiến thuở nào và tương truyền rằng, khi ngựa thét ra lửa đã thiêu rụi cả một làng, đó là làng Cháy.
Hướng Dẫn Lập Dàn Ý Bài Văn Nghị Luận
I- KIẾN THỨC CƠ BẢN CẦN NẮM VỮNG
1.Tác dụng của việc lập dàn ý
Lập dàn ý là lựa chọn và sắp xếp những nội dung cơ bản dự định triển khai vào bố cục ba phần của văn bản. Việc làm này có nhiều ý nghĩa:
-Giúp cho người viết bao quát được những nội dung chủ yếu, những luận điểm, luận cứ cần triển khai, phạm vi và mức độ nghị luận,…
-Tránh được tình trạng xa đề, lạc đề hoặc lặp ý; tránh được việc bỏ sót hoặc triển khai ý không cân xứng.
-Có dàn ý, người viết cũng đồng thời sẽ biết phân phối thời gian hợp lí khi làm bài, tránh sự mất cân đối trong bài viết.
2.Cách lập dàn ý bài văn nghị luận
-Muốn lập dàn ý bài văn nghị luận, cần nắm chắc yêu cầu của đề bài, từ đó tiến hành các bước: tìm hệ thống luận điểm, luận cứ; sắp xếp, triển khai hệ thống ý đó theo một trật tự hợp lí, có trọng tâm.
-Dàn ý của một bài văn nghị luận cũng được triển khai thành ba phần:
+ Mở bài: Giới thiệu và định hướng triển khai vấn đề.
+ Thân bài: Triển khai lần lượt các luận điểm, luận cứ.
+ Kết bài: Nhấn mạnh ý nghĩa hoặc mở rộng vấn đề.
II- HƯỚNG DẪN TÌM HIỂU BÀI
Tiến hành các bước lập dàn ý cho đề bài sau:
Bàn về vai trò và tác dụng to lớn của sách trong đời sống tinh thần của con người, nhà văn M. Go-rơ-ki có viết: Sách mở rộng trước mắt tôi những chân trời mới”.
Gợi ý: để lập được dàn ý cần tiến hành các bước sau: a.Tìm hiểu đề:
-Đề bài yêu cầu triển khai vấn đề gì? (vai trò của sách)
-Các kiến thức cần huy động ở đâu? (trong cuộc sống thực tế)
b.Tìm ý : *Xác định luận đề:
-Bài văn cần làm sáng tỏ luận đề: Sách mở rộng trước mắt tôi những chân trời mới.
-Đây là một ý kiến xác đáng, cần tán thưởng và làm theo.
*Xác định các luận điểm:
-Bài làm có ba luận điểm cơ bản:
(1)Sách là sản phẩm tinh thần kì diệu của con người (ghi lại những hiểu biết về thế giới tự nhiên và xã hội).
(2)Sách mở rộng trước mắt mỗi chúng ta những chân trời mới.
(3)Từ ý nghĩa đó, mỗi chúng ta cần có thái độ đúng đối với sách và việc đọc sách.
*Tìm luận cứ cho các luận điểm:
-Các luận cứ cho luận điểm (1):
+ Sách là sản phẩm tinh thần kì diệu của con người.
+ Sách là kho tàng tri thức của nhân loại.
-Các luận cứ cho luận điểm (2):
+ Sách giúp ta hiểu biết mọi lĩnh vực về thế giới tự nhiên và xã hội.
+ Sách giúp ta vượt qua thời gian, không gian.
+ Sách là người bạn tâm tình gần gũi, giúp ta tự hoàn thiện về nhân cách của mình.
-Các luận cứ cho luận điểm (3):
+ Nên đọc và làm theo các loại sách tốt, phê phán sách có hại.
+ Tạo thói quen lựa chọn sách, hứng thú đọc vâ học theo các sách có nội dung tốt.
+ Học những điều hay trong sách bôn cạnh việc học trong thực tế cuộc sống,
c.Lập dàn ý:
Mở bài: mở bài trực tiếp
-Nêu khái quát vai trò tác dụng của sách trong đời sống.
-Dẫn câu nói của M. Go-rơ-ki.
Thân bài:
Triển khai lần lượt các luận điểm:
-Sách là sản phẩm tinh thần kì diệu của con người (ghi lại những hiểu biết về thế giới tự nhiên và xã hội):
+ Sách là sản phẩm tinh thần kì diệu của con người.
+ Sách là kho tàng trí thức của nhân loại.
-Sách mở rộng trước mắt mỗi chúng ta những chân trời mới.
+ Sách giúp ta hiểu biết mọi lĩnh vực về thế giới tự nhiên và xã hội.
+ Sách giúp ta vượt qua thời gian, không gian.
+ Sách là người bạn tâm tình gần gũi, giúp ta tự hoàn thiện về nhân cách của mình.
Mỗi chúng ta cần có thái độ đúng đối với sách và việc đọc sách.
+ Nên đọc và làm theo các loại sách tốt, phê phán sách có hại.
+ Tạo thói quen lựa chọn sách, hứng thú đọc và học theo các sách có nội dung tốt.
+ Học những điều hay trong sách bên cạnh việc học trong thực tế cuộc sống.
Kết bài: Bằng cách mở rộng vấn đề.
+ Tình hình thị trường sách hiện nay phức tạp ra sao? (số lượng đầu sách nhiều, chất lượng sách, đôi khi cả trong việc in ấn không đảm bảo).
+ Trong tình hình ấy, cần phải làm gì để chọn lựa được sách tốt? (nhờ sự tham vấn của thầy cô, của các phương tiện thông tin đại chúng,…).
+ Hiện nay, giới trẻ có rất nhiều cách để cập nhật thông tin và giải trí, vậy việc đọc sách còn hấp dẫn và mang lại hiệu quả cao nữa hay không?
Ill – HƯỚNG DẪN LUYỆN TẬP
Trong một lần nói chuyện với học sinh, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Có tài mà không có đức là người vô dụng, có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó” Theo anh (chị), nên hiểu và vận dụng lời dạy đó của Người như thế nào?
Một bạn đã tìm được một số ý:
a.Giải thích khái niệm tài và đức.
b.Có tài mà không có đức là người vô dụng.
c.Có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó.
Hãy:
-Bổ sung các ý còn thiếu.
-Lập dàn ý cho bài văn.
Gợi ý:
a.Cần bổ sung một số điểm còn thiếu:
-Mối quan hệ giữa tài và đức trong mỗi con người.
-Trong quá trình rèn luyện, cần phải thường xuyên phấn đấu để hướng tới sự hoàn thiện cả tài và đức.
Mở bài:
-Giới thiệu lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
-Định hướng tư tưởng của bài viết.
Thân bài:
-Giải thích câu nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
-Khẳng định ý nghĩa lời dạy của Bác đối với việc rèn luyện tu dưỡng của mỗi cá nhân.
-Phương hướng phấn đấu và rèn luyện để thực hiện tốt tinh thần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Kết bài: Mỗi chúng ta cần phải thường xuyên rèn luyện phấn đấu để có cả tài lẫn đức.
2.Lập dàn ý cho đề bài sau:
Trong lớp anh (chị) có một số bạn gặp khó khăn trong đời sống nên chểnh mảng học tập. Các bạn đó thường mượn câu tục ngữ “Cái khó bó cái khôn “để tự biện hộ. Theo anh (chị), nên hiểu và vận dụng câu tục ngữ này như thế nào?
-Dàn bài gợi ý
Mở bài:
-Những khó khăn trong cuộc Sống thường hạn chế việc phát huy khả năng của con người. Từ thực tế đó, dân gian đã đúc kết nên câu tục ngữ: “Cái khó bó cái khôn”.
-Câu tục ngữ trên có giá trị như thế nào? Ta cần hiểu và vận dụng vào cuộc sống sao cho đúng?
Thân bài:
-Giải thích ý nghĩa của câu tục ngữ:
+ “Cái khổ” là những khó khăn, trở ngại trong thực tế cuộc sống; “bó” là sự trói buộc, kìm hãm; “cái khôn” là khả năng suy nghĩ, sáng tạo của con người.
+ Câu tục ngữ này nêu ra bài học: Những khó khăn trong cuộc sống thường hạn chế nhiều đến việc phát huy tài năng, sức sáng tạo của con người.
-Bài học trên có mặt đúng nhưng đồng thời cũng có mặt chưa đúng.
+ Mặt đúng: Quá trình vận động, phát triển của mỗi cá nhân thường chịu ảnh hưởng, tác động của hoàn cảnh khách quan. Ví dụ: Có điều kiện thuận lợi trong học tập, (thời gian, tài liệu, thầy giỏi, bạn tốt…) thì ta có thể học tập tốt. Ngược lại, hoàn cảnh khó khăn thì kết quả học tập của ta bị hạn chế.
+ Mặt chưa đúng: Bài học trên còn phiến diện, chưa đánh giá đúng mức vai trò của sự nỗ lực chủ quan của con người.Trên thực tế, có rất nhiều người dù gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống nhưng họ vẫn nỗ lực vươn lên để học tập tốt hoặc hoàn thàr;h xuất sắc những nhiệm vụ được giao…
-Câu tục ngữ cho ta nhiều bài học quý: .
+ Trước khi suy tính làm vấn đề gì cần tính đến những điều kiện khầch quan để hạn chế đến mức tối đa sự phụ thuộc của vấn đề đó vào những yếu tố bên ngoài.
+ Trong hoàn cảnh nào cũng cần đặt lên hàng đầu sự nỗ lực chủ quan, lấy ý chí và nghị lực để vượt qua khó khăn thử thách và vươn tới thành công. Kết bài:
Cần khẳng định:
-Trước hoàn cảnh càng khó khăn, ta càng phải quyết tâm khắc phục.
-Cần có tâm thế sẵn sàng biến khó khăn thành môi trường để rèn luyện bản lĩnh, giúp ta thành công trong cuộc sống.
XEM THÊM HƯỚNG DẪN PHÂN TÍCH TÁC PHẨM TÌNH CẢNH LẺ LOI CỦA NGƯỜI CHINH PHỤ – NGỮ VĂN 10 TẠI ĐÂY
Lập Dàn Ý Bài Mẹ Tôi Của Ét
1. Mở bài:
– Người mẹ có vai trò đặc biệt lớn lao đối với con cái.
– Tình mẫu tử là tình cảm thiêng liêng nhất.
– Bài văn Mẹ tôi trích từ cuốn Những tấm lòng cao cả của nhà văn Ét-môn-đô đờ A-mi-xi là bài học sâu sắc, thấm thìa về đạo làm con.
2. Thân bài:
* Lỗi lầm của En-ri-cô:
+ Ham chơi hơn ham học.
+ Thiếu lễ độ với mẹ khi cô giáo đến thăm nhà.
* Thái độ của bố trước lỗi lầm của con trai:
+ Buồn bực vì cảm thấy sự hỗn láo của con như một nhát dao đâm vào tim mẹ.
+ Tức giận vì đứa con trong phút nông nổi đã quên công lao sinh thành dưỡng dục của mẹ.
+ Nhắc lại cho con nhớ công lao to lớn và tình thương yêu, đức hi sinh cao cả của mẹ…
+ Muốn con hiểu ra lỗi lầm của mình và xin lỗi mẹ, hứa sẽ không bao giờ tái phạm.
* Lời khuyên thấm thía của người cha:
+ Khuyên con hãy nhớ rằng không ai có thể thay thế được người mẹ đã sinh thành và nuôi dưỡng mình nên người.
+ Nhắc cho con nhớ: Tình thương yêu, kính trọng cha mẹ là tình cảm thiêng liêng. Thật đáng xấu hổ và nhục nhã cho kẻ nào chà đạp lên tình cảm đó.
+ Yêu cầu con phải xin lỗi mẹ bằng thái độ thành khẩn và cầu xin mẹ hôn con để cho chiếc hôn ấy xóa đi dấu vết vong ân bội nghĩa trên trán con.
+ Khẳng định: Bố rất yêu con nhưng thà rằng bố không có con, còn hơn lá thấy con bội bạc với mẹ.
3. Kết bài:
– Bài văn được thể hiện dưới hình thức một bức thư bố gửi cho con. Giọng điệu vừa nghiêm khắc, vừa ân cần, tha thiết.
– Bài văn đề cập đến đạo làm con. Kính yêu, biết ơn cha mẹ là biểu hiện cụ thể của lòng hiếu thảo, là thước đo phẩm giá của mỗi con người.
nguồn: http://tailieuvan.net/phat-bieu-cam-nghi-ve-bai-van-me-toi-cua-nha-van-et-mon-do-do-a-mi-xi/
Bạn đang đọc nội dung bài viết Lập Dàn Ý Và Viết Bài Văn Kể Chuyện… trên website Athena4me.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!