Đề Xuất 6/2023 # Khái Niệm Luật Dân Sự Và Những Quy Định Chung Về Luật Dân Sự # Top 6 Like | Athena4me.com

Đề Xuất 6/2023 # Khái Niệm Luật Dân Sự Và Những Quy Định Chung Về Luật Dân Sự # Top 6 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Khái Niệm Luật Dân Sự Và Những Quy Định Chung Về Luật Dân Sự mới nhất trên website Athena4me.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Luật dân sự là ngành luật trong hệ thống pháp luật, là tổng hợp những quy phạm điều chỉnh các quan hệ tài sản và một số quan hệ nhân thân trong giao lưu dân sự trên cơ sở bình đẳng, tự định đoạt và tự chịu trách nhiệm của các chủ thể tham gia các quan hệ dân sự. Luật dân sự gồm các nguyên tắc cơ bản và có chế định khác nhau như: chế định tài sản và quyền sở hữu; chế định nghĩa vụ dân sự và hợp đồng dân sự; chế định nghĩa vụ hoàn trả do chiếm hữu, sử dụng tài sản, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật; chế định thực hiện công việc không có ủy quyền; chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng; chế định thừa kế; chế định chuyển quyền sử dụng đất; chế định quyền sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ. Mỗi chế định của luật dân sự đều có những nguyên tắc riêng trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản và có những quy phạm được tập hợp theo những tiêu chí riêng phù hợp với chế định đó.

I. Khái niệm luật dân sự.

II. Đối tượng và phương pháp điều chỉnh của luật Dân sự?

+ Đối tượng điều chỉnh của Luật dân sự: là những quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân trong quá trình sản xuất, phân phối, lưu thông, tiêu dùng các sản phẩm hàng hoá nhằm thoả mãn nhu cầu hàng ngày của các thành viên trong xã hội.

+ Phương pháp điều chỉnh của Luật dân sự: là những biện pháp, cách thức mà nhà nước tác động lên các quan hệ tài sản, các quan hệ nhân thân là cho các quan hệ này phát sinh, thay đổi, chấm dứt theo ý chí của nhà nước và có …

III. NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG

Điều 1. Phạm vi điều chỉnh

Bộ luật này quy định địa vị pháp lý, chuẩn mực pháp lý về cách ứng xử của cá nhân, pháp nhân; quyền, nghĩa vụ về nhân thân và tài sản của cá nhân, pháp nhân trong các quan hệ được hình thành trên cơ sở bình đẳng, tự do ý chí, độc lập về tài sản và tự chịu trách nhiệm (sau đây gọi chung là quan hệ dân sự).

Điều 2. Công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền dân sự

1. Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền dân sự được công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật.

2. Quyền dân sự chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng.

Điều 3. Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự

1. Mọi cá nhân, pháp nhân đều bình đẳng, không được lấy bất kỳ lý do nào để phân biệt đối xử; được pháp luật bảo hộ như nhau về các quyền nhân thân và tài sản.

2. Cá nhân, pháp nhân xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình trên cơ sở tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận. Mọi cam kết, thỏa thuận không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội có hiệu lực thực hiện đối với các bên và phải được chủ thể khác tôn trọng.

3. Cá nhân, pháp nhân phải xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình một cách thiện chí, trung thực.

4. Việc xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự không được xâm phạm đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.

5. Cá nhân, pháp nhân phải tự chịu trách nhiệm về việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ dân sự.

Điều 4. Áp dụng Bộ luật dân sự

1. Bộ luật này là luật chung điều chỉnh các quan hệ dân sự.

4. Trường hợp có sự khác nhau giữa quy định của Bộ luật này và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế.

Điều 5. Áp dụng tập quán

1. Tập quán là quy tắc xử sự có nội dung rõ ràng để xác định quyền, nghĩa vụ của cá nhân, pháp nhân trong quan hệ dân sự cụ thể, được hình thành và lặp đi lặp lại nhiều lần trong một thời gian dài, được thừa nhận và áp dụng rộng rãi trong một vùng, miền, dân tộc, cộng đồng dân cư hoặc trong một lĩnh vực dân sự.

2. Trường hợp các bên không có thỏa thuận và pháp luật không quy định thì có thể áp dụng tập quán nhưng tập quán áp dụng không được trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại Điều 3 của Bộ luật này.

Điều 6. Áp dụng tương tự pháp luật

1. Trường hợp phát sinh quan hệ thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân sự mà các bên không có thỏa thuận, pháp luật không có quy định và không có tập quán được áp dụng thì áp dụng quy định của pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự tương tự.

2. Trường hợp không thể áp dụng tương tự pháp luật theo quy định tại khoản 1 Điều này thì áp dụng các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại Điều 3 của Bộ luật này, án lệ, lẽ công bằng.

Điều 7. Chính sách của Nhà nước đối với quan hệ dân sự

1. Việc xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự phải bảo đảm giữ gìn bản sắc dân tộc, tôn trọng và phát huy phong tục, tập quán, truyền thống tốt đẹp, tình đoàn kết, tương thân, tương ái, mỗi người vì cộng đồng, cộng đồng vì mỗi người và các giá trị đạo đức cao đẹp của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam.

2. Trong quan hệ dân sự, việc hòa giải giữa các bên phù hợp với quy định của pháp luật được khuyến khích.

Khái Niệm Và Đối Tượng Điều Chỉnh Của Luật Dân Sự

Quan hệ dân sự là một quan hệ chủ yếu thường xuyên diễn ra trong đời sống xã hội. Để điều chỉnh nó Quốc hội Việt Nam ban hành Bộ luật dân sự đầu tiên vào năm 1997, sau gần 10 năm thi hành Bộ luật dân sự đã bộc lộ nhiều khuyết điểm nên năm 2005 nó đã được sửa đổi và bổ sung cho phù hợp. Bằng việc điều chỉnh các quan hệ dân sự bằng các văn bản luật đã đưa các quan hệ này vào một vòng trật tự nhất định, ứng xử của các chủ thể trong các giai dịch dân sự đã tuân theo các quy định của pháp luật. Ở đây chúng tôi đưa ra các khái niệm về Luật dân sự, đối tượng và phương pháp điều chỉnh của Luật dân sự. trong bày viết này chúng tôi chỉ cung cấp cho người học những chế định quan trọng, cơ bản mà Bộ luật dân sự điều chỉnh như chế định quyền sở hữu trong đó làm rõ khái niệm, nội dung 3 quyền năng chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản của chủ sở hữu hoặc người không phải là chủ sở hữu.

1. Khái niệm Luật dân sự

Là ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật Việt Nam, bao gồm tổng thể các qui phạm pháp luật do nhà nước ban hành điều chỉnh các quan hệ về tài sản và quan hệ nhân thân phát sinh trong quá trình sản xuất, phân phối, lưu thông, tiêu dùng nhằm thoả mãn nhu cầu của cá nhân dựa trên nguyên tắc bình đẳng về mặt lợi ích, quyền tự định đoạt của các bên, tự chịu trách nhiệm về tài sản.

Nếu bạn đang gặp khó khăn hay vướng mắc về viết luận văn, khóa luận hay bạn không có thời gian để làm luận văn vì phải vừa học vừa làm? Kỹ năng viết cũng như trình bày quá lủng củng?… Vì vậy bạn rất cần sự trợ giúp của dịch vụ làm luận văn tốt nghiệp đại học.Hãy gọi ngay tới tổng đài tư vấn luận văn 1080 – 096.999.1080 nhận viết luận văn theo yêu cầu, đảm bảo chuẩn giá, chuẩn thời gian và chuẩn chất lượng, giúp bạn đạt được điểm cao với thời gian tối ưu nhất mà vẫn làm được những việc quan trọng của bạn.

2. Đối tượng điều chỉnh Luật dân sự

Bao gồm các nhóm quan hệ sau:

– Nhóm quan hệ tài sản:

Là quan hệ giữa người với người thông qua 1 tài sản dưới dạng 1 Tư liệu sản xuất, 1 Tư liệu tiêu dùng hoặc dịch vụ tạo ra 1 tài sản nhất định. Tài sản trong luật dân sự được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm cả tài sản, quyền tài sản và nghĩa vụ về tài sản.

– Nhóm quan hệ nhân thân:

Là quan hệ giữa người với người không mang tính kinh tế, không tính được thành tiền. Nó phát sinh do 1 giá trị tinh thần gắn liền với 1 người hoặc 1 tổ chức nhất định và không dịch chuyển được. Ví dụ: Quyền được đứng tên trên các tác phẩm văn học nghệ thuật, công trình… mà người đó là tác giả hay quyền bất khả xâm phạm về nhãn hiệu hàng hoá của 1 doanh nghiệp. Có 2 loại quan hệ nhân thân là:

Là những quan hệ nhân thân là cơ sở làm phát sinh quan hệ tài sản tiếp sau. Ví dụ: Trong lĩnh vực quyền tác giả (ở đây quan hệ nhân thân là cơ sở khẳng định rằng người sáng tạo ra tác phẩm có quyền đứng tên là tác giả của tác phẩm. Quyền này là quyền nhân thân không thể tách rời chuyển dịch của người sáng tạo. Nhưng đồng thời với việc được thừa nhận là tác giả của tác phẩm người đó còn được hưởng thù lao như nhuận bút theo luật định.

3. Phương pháp điều chỉnh Luật dân sự

Quy Định Về Mở Lối Đi Chung Theo Luật Dân Sự?

1. Quy định về mở lối đi chung theo luật dân sự?

Thưa luật sư, em muốn hỏi: Nhà em có bán cho các hộ dân 01 thửa đất. Trước đó là đất của cha mẹ cho con, sau đó em tách từng thửa ra để chuyển quyền lại cho người dân. Tuy nhiên, thửa đất của em lại không có đường đi vào (Cách đường nhựa khoảng 60m). Ba em đã làm thủ tục hiến đường đi để em có đường đi vào cho em và các hộ sau. UBND xã và UBND huyện lại không đồng ý lập đường đi cho em. Theo Điều 254 Bộ luật Dân sự thì ba em đã tự nguyện chừa đường rồi sao lại không được chấp thuận? Xin luật sư tư vấn cho em!

Trả lời:

“1. Chủ sở hữu có bất động sản bị vây bọc bởi các bất động sản của các chủ sở hữu khác mà không có hoặc không đủ lối đi ra đường công cộng, có quyền yêu cầu chủ sở hữu bất động sản vây bọc dành cho mình một lối đi hợp lý trên phần đất của họ.Lối đi được mở trên bất động sản liền kề nào mà được coi là thuận tiện và hợp lý nhất, có tính đến đặc điểm cụ thể của địa điểm, lợi ích của bất động sản bị vây bọc và thiệt hại gây ra là ít nhất cho bất động sản có mở lối đi.Chủ sở hữu bất động sản hưởng quyền về lối đi qua phải đền bù cho chủ sở hữu bất động sản chịu hưởng quyền, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.”

Như vậy, trong trường hợp này bạn có quyền yêu cầu được mở một lối đi ra đến đường công cộng. UBND cấp xã, huyện không đồng ý lập đường cho bạn cần phải có lý do. Nếu lý do không thỏa đáng bạn có quyền gửi đơn khiếu nại, tố cáo tới cơ quan có thẩm quyền giải quyết để đòi lại quyền lợi cho mình.

2. Lối đi chung – Lối đi riêng được xác định như thế nào?

Thưa luật sư, tôi có một thửa đất 300 m2, nay muốn phân chia thành hai thửa nhưng thửa đất phía sau cần có một lối đi nên yêu cầu tôi cắt lối đi cho bất động sản phía sau (Tôi không rõ quy định của Nhà nước là lối đi này bắt buộc là bao nhiêu m). Xin hỏi Luật sư:

+ Lối đi này là lối đi chung hay lối đi riêng? ( Lô đất kia đã có lối đi khác)

+ Sau này tôi có lối đi khác thì tôi có được bán cho hộ liền kề lô đất phía trước không?

+ Hộ liền kề đó hợp thức lối đi đó vào đất của họ có được không?

Trả lời:

Khoản 1 Điều 254 Bộ luật Dân sự 2015 quy định quyền về lối đi qua như sau: Chủ sở hữu có bất động sản bị vây bọc bởi các bất động sản của các chủ sở hữu khác mà không có hoặc không đủ lối đi ra đường công cộng, có quyền yêu cầu chủ sở hữu bất động sản vây bọc dành cho mình một lối đi hợp lý trên phần đất của họ.

Lối đi được mở trên bất động sản liền kề nào mà được coi là thuận tiện và hợp lý nhất, có tính đến đặc điểm cụ thể của địa điểm, lợi ích của bất động sản bị vây bọc và thiệt hại gây ra là ít nhất cho bất động sản có mở lối đi.

Chủ sở hữu bất động sản hưởng quyền về lối đi qua phải đền bù cho chủ sở hữu bất động sản chịu hưởng quyền, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

Căn cứ theo quy định trên thì nhà nước không quy định cụ thể về chiều dài, chiều rộng, chiều cao của lối đi qua này, hai bên được quyền thỏa thuận với nhau về kích thước của lối đi, chủ sở hữu bất động sản hưởng quyền về lối đi qua phải đền bù cho chủ sở hữu bất động sản chịu hưởng quyền, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Lối đi này được xác định là lối đi qua cho bất động sản phía sau, bạn hoàn toàn có quyền thỏa thuận với chủ sở hữu bất động sản phía sau về việc có sử dụng lối đi đó hay không và mức đền bù mà bên được hưởng quyền về lối đi qua phải trả.

3. Tranh chấp lối đi chung được giải quyết như thế nào?

Thưa luật sư! Hiện em có một lô đất thổ cư ở xã Mỹ Hạnh, Long An. Đất có sổ hồng cấp năm 2013. Trên bản vẽ sổ hồng có ghi đường đất (nhưng đất ở nông thôn nên không ghi rõ là đường đất bao nhiêu mét). Do điều kiện kinh tế nên giờ em mới có tiền xây nhà, tuần trước em xuống lô đất khảo sát lại tình hình thì không có lối đi vào lô đất nữa. Em có hỏi hàng xóm (mới có 3 nhà ở gần đó) họ nói đường đi đang bị tranh chấp giữa 2 ông chủ ngày xưa chung nhau phân lô bán nền. Giờ họ mâu thuẫn, họ ủi đất, ủi bê tông lên cao, xe máy không đi qua được. Chỉ có thể dắc bộ. Muốn xây nhà cũng không đươc vì xe công xe ben không vào đươc. Giờ ai cũng nói: bán đất cũng không bán được mà xây nhà cũng không xong. Em xin hỏi công ty luật là: trên sổ hồng có hiển thị đường đi vào lô đất. Vậy em có thể xây nhà hay mua bán trao đổi được không? Cách giải quyết nào ổn thỏa ạ? Mong công ty trả lời em sớm. Em cảm ơn rất nhiều.

Trả lời:

Điều 254 Bộ luật Dân sự 2015 quy định Quyền về lối đi qua , áp dụng trong trường hợp bạn có lô đất bị vây bọc bởi các lô đất khác, không đủ để đi xe vào thì bạn cần thỏa thuận với các chủ sở hữu bất động sản liền kề để yêu cầu họ dành cho mình 1 lối đi hợp lý sao cho lối đi đó đủ rộng để bạn có thể tiến hành việc xây nhà. Bạn có thể đền bù cho các chủ sở hữu trên một khoản tiền phù hợp để họ tạo điều kiện giúp bạn tiến hành xây nhà một cách nhanh chóng.

Trong trường hợp, chủ đất không mở lối đi cho gia đình bạn thì gia đình bạn có quyền nộp đơn yêu cầu hòa giải tranh chấp tại Ủy ban nhân dân cấp xã, phường nơi có đất để được giải quyết vì yêu cầu có lối đi vào bất động sản của bạn là hoàn toàn chính đáng và đúng quy định của pháp luật.

4. Tự ý trổ cửa hướng vào lối đi chung?

Chào luật sư, mong được sự tư vấn giúp: Lối đi chung nhà em với một nhà nữa pháp lý rõ ràng là nhà kia được mở cửa hậu ra lối đi chung đó, còn cửa chính nằm hướng khác. Sau khi nhà kia bán chủ mới phân lô dạng sổ hồng chung cất nhà bán và cho quay mặt các nhà trên qua lối đi chung còn lối cửa chính của nhà cũ bít lại để lấy diện tích. Mỗi căn nhà đó khoảng hơn hai mươi m vuông. Vậy xin luật sư cho biết chủ nhà trên trổ cửa như vậy đúng hay sai và làm thế nào để đảm bảo quyền lợi cho gia đình về lối đi trong trường hợp này? Bây giờ, nhà em thành nhà cuối cùng trong tám nhà trên. Nhà em đang làm sổ hồng. Cảm ơn luật sư giúp đỡ!

Trả lời:

“Sử dụng công trình không đúng với mục đích, công năng sử dụng; xây dựng cơi nới, lấn chiếm diện tích, lấn chiếm không gian đang được quản lý, sử dụng hợp pháp của tổ chức, cá nhân khác và của khu vực công cộng, khu vực sử dụng chung.”

Cũng theo Điều 178 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về trổ cửa nhìn sang bất động sản liền kề như sau:

“1. Chủ sở hữu nhà chỉ được trổ cửa ra vào, cửa sổ quay sang nhà bên cạnh, nhà đối diện và đường đi chung theo quy định của pháp luật về xây dựng. 2. Mặt dưới mái che trên cửa ra vào, mặt dưới mái che cửa sổ quay ra đường đi chung phải cách mặt đất từ 2,5 mét trở lên.”

Như vậy, không rõ là gia đình bạn và gia đình hàng xóm cũ đã có căn cứ gì cho việc thỏa thuận gia đình đó không được trổ cửa chính không được quay mặt ra phía lối đi chung. Đối với chủ mới của bất động sản liền kề, họ hoàn toàn không phải chịu trách nhiệm về những thỏa thuận mà chủ cũ đã có với gia đình bạn. Theo quy định của pháp luật dân sự thì họ hoàn toàn có thể trổ của ở vị trí hiện tại chỉ cần không trái các quy định về pháp luật xây dựng nêu trên.

5. Tranh chấp lối đi chung có được làm cổng không?

Thưa luật sư! Gia đình chúng tôi có một thửa đất thổ cư được cấp ở từ năm 1957 có diện tích 998 m2, bố mẹ chúng tôi để lại chia cho 3 anh em chúng tôi (cho tôi, em Dũng và em Cường) vào năm 1992 và có để một lối đi chung cho 3 anh em chúng tôi và đã thể hiện trên sơ đồ, hiện nay chỉ có gia đình chúng tôi ở đây còn lại 2 em tôi không ở đây. Hiện lối đi chung này có phần đầu tiếp giáp với 2 gia đình là nhà ông N và gia đình ông Q. Hiện nay, hai gia đình nhà ông N và nhà ông Q có kiện cáo chúng tôi đây là lối đi chung của 3 nhà gồm gia đình nhà tôi nhà ông N và nhà ông Q, vì vậy gia đình tôi không được làm cổng và không được sử dụng một mình. Vậy tôi xin hỏi luật sư như vậy có đúng không ạ? Và gia đình tôi làm cổng ngõ của gia đình chúng tôi có đúng không? Xin luật sư trả lời giúp gia đình chúng tôi với ạ.

Trả lời:

Theo như thông tin bạn cung cấp thì không biết là ngoài phần đầu tiếp giáp với gia đình ông N và ông Q thì gia đình 2 người này còn lối đi nào khác hay không?

Căn cứ khoản 1 Điều 254 Bộ luật Dân sự 2015 quy định thì chủ sở hữu có bất động sản bị vây bọc bởi các bất động sản của các chủ sở hữu khác mà không có hoặc không đủ lối đi ra đường công cộng, có quyền yêu cầu chủ sở hữu bất động sản vây bọc dành cho mình một lối đi hợp lý trên phần đất của họ.

Như vậy, nếu gia đình ông N và ông Q không còn một lối đi nào khác thì bạn bắt buộc phải để cho họ một phần đất làm lối đi qua hợp lý. Gia đình ông N và ông Q sẽ phải đền bù cho bạn một khoản tiền phù hợp theo thỏa thuận giữa các bên. Tuy nhiên, nếu gia đình 2 ông không bị vây kín và còn một lối đi khác thì gia đình bạn không cần phải để lối đi qua cho họ và hoàn toàn có thể làm cổng ngõ nếu không ảnh hưởng đến các gia đình khác.

Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác quý khách vui lòng liên hệ bộ phận luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài điện thoại gọi ngay số : để được giải đáp.

Khái Niệm Và Các Yếu Tố Cấu Thành Quan Hệ Pháp Luật Dân Sự

21666

1. Quan hệ pháp luật dân sự là gì?

2. Các yếu tố cấu thành quan hệ pháp luật dân sự

Thành phần của quan hệ pháp luật dân sự là các yếu tố cấu thành nên quan hệ đó. Quan hệ pháp luật dân sự được cấu thành bởi các thành tố sau: Chủ thể, khách thể và nội dung.

a. Chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự

Chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự là những “người” tham gia vào các quan hệ đó. Phạm vi “người” tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự bao gồm: Cá nhân, ( công dân Việt Nam, người nước ngoài, người không quốc tịch), pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác và trong nhiều trường hợp, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tham gia với tư cách là chủ thể đặc biệt của quan hệ pháp luật dân sự.

Để tham gia vào một quan hệ pháp luật dân sự cụ thể, các chủ thể phải có đủ tư cách chủ thể. Cho nên, có loại quan hệ chủ thể là công dân, như công dân có quyền để lại di sản thừa kế còn các tổ chức chỉ được hưởng thừa kế theo di chúc; có loại chủ thể chỉ được tham gia vào loại quan hệ nhất định, như hộ gia đình được tham gia trong các quan hệ sử dụng đất, sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp hay Nhà nước là chủ sở hữu (thực hiện quyền của chủ sở hữu) đối với các tài nguyên thiên nhiên và đất đai… Trong phần lớn các quan hệ pháp luật dân sự, các chủ thể tham gia là công dân, pháp nhân, Nhà nước, hộ gia đình, tổ hợp tác như các quan hệ về quyền sở hữu, nghĩa vụ hợp đồng, bồi thường thiệt hại …

Trong quan hệ pháp luật dân sự, chủ thể quyền luôn luôn được xác định, chủ thể nghĩa vụ có thể là một “người” cụ thể, cũng có thể là tất cả những người còn lại.

b. Khách thể của quan hệ pháp luật dân sự

Khách thể của quan hệ pháp luật là một phạm trù pháp lí, là bộ phận cấu thành của quan hệ pháp luật. Đó là những cái mà các chủ thể của quan hệ pháp luật hướng tới, tác động vào. Nói cách khác, là những lợi ích vật chất, lợi ích tinh thần mà pháp luật bảo vệ cho các chủ thể trong quan hệ pháp luật. Khách thể của quan hệ pháp luật dân sự có thể là bộ phận của thế giới vật chất, cũng có thể là những giá trị tinh thần. Khách thể của quan hệ pháp luật dân sự được chia thành năm nhóm sau:

Theo quy định tại Bộ luật Dân sự (BLDS) 2015, tài sản bao gồm vật, tiền, các giấy tờ có giá và các quyền tài sản.

Vật với ý nghĩa là một phạm trù pháp lí, là bộ phận của thế giới vật chất có thể đáp ứng được nhu cầu nào đó của con người nhưng không phải bất cứ bộ phận nào của thế giới vật chất đều được coi là vật với tư cách là khách thể của quan hệ pháp luật dân sự. Có những bộ phận của thế giới vật chất ở dạng này không được coi là vật nhưng ở dạng khác lại được coi là vật, Không khí trong tự nhiên, nước sông, nước biển… nếu được đóng vào chai, bình thì có thể được coi là vật với tư cách là khách thể của quan hệ pháp luật dân sự. Khái niệm vật ở đây có thể được mở rộng do sự phát triển của khoa học công nghệ, như chất thải nếu được dùng lại…

Tiền là loại tài sản đặc biệt có giá trị trao đổi với các loại hàng hoá khác. Tiền do Nhà nước ban hành, giá trị của tiền được xác định bằng mệnh giá ghi trên đồng tiền đó. Những đồng tiền có giá trị lưu hành mới được coi là tiền.

Giấy tờ có giá là loại tài sản đặc biệt do Nhà nước hoặc các tổ chức phát hành theo trình tự nhất định. Có nhiều loại giấy tờ có giá khác nhau với những quy chế pháp lí khác nhau như: Công trái, trái phiếu, kì phiếu, cổ phiếu, séc… Giấy tờ có giá là hàng hoá trong một thị trường đặc biệt – thị trường chứng khoán.

Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền có thể chuyển giao trong lưu thông dân sự, bao gồm cả quyền sở hữu trí tuệ, đó là: Quyền đòi nợ, yêu cầu bồi thường thiệt hại, quyền đối với tác phẩm, quyền sở hữu công nghiệp …

Cần phân biệt vật với hàng hóa. Khái niệm hàng hóa được đề cập trong chính trị – kinh tế học được hiểu là sản phẩm do con người tạo ra để trao đổi, nó có giá trị và giá trị sử dụng. Giá trị của hàng hóa được xác định bằng lao động xã hội đã bỏ ra để sản xuất hàng hóa đó. Đất đai, tài nguyên thiên nhiên được coi là vật nhưng không phải là hàng hóa. Mọi hàng hóa đều là vật nhưng không phải mọi vật là hàng hóa.

Vật và tài sản cũng không đồng nghĩa với nhau. Tài sản có thể là một vật, có thể là tập hợp các vật – khối tài sản. Tài sản còn gồm cả các quyền và nghĩa vụ tài sản như quyền đòi nợ, nghĩa vụ trả nợ…

Nếu coi khách thể của quan hệ pháp luật dân sự là cái mà xử sự của các chủ thể hướng tới, tác động vào thì hành vi của các chủ thể trong quan hệ nghĩa vụ là khách thể của quan hệ nghĩa vụ. Đó là cái mà quyền cũng như nghĩa vụ của các chủ thể hướng tới đầu tiên, trực tiếp, đó là xử sự của các chủ thể được thể hiện dưới dạng hành động hoặc không hành động tùy theo các quan hệ pháp luật cụ thể.

Có những hành vi mà kết quả của nó được thể hiện dưới dạng vật chất cụ thể. Trong trường hợp này, muốn xem xét hành vi có thực hiện đúng hay không phải căn cứ vào kết quả của việc thực hiện hành vi đó và như vậy hành vi này được vật chất hóa. Vì vậy, có quan điểm cho rằng kết quả của hành vi là khách thể của quan hệ pháp luật dân sự. Điều này không thể giải thích được trong các quan hệ dân sự mà hành vi không được vật chất hóa như tư vấn pháp luật với hành vi tư vấn… Trong các trường hợp như vậy, căn cứ đánh giá chỉ có thể là hành vi của người phải thực hiện hành vi mà thôi. Trong trường hợp hành vi được thể hiện bằng không hành động thì bản thân “sự không hành động” đó cũng đủ cấu thành khách thể của quan hệ pháp luật dân sự.

Hiện nay, trong khoa học pháp lí chưa có quan điểm thống nhất về khái niệm dịch vụ nhưng thuật ngữ “dịch vụ” đã được sử dụng thực tế trong khoa học pháp lí và khoa học kinh tế. Có thể nói rằng dịch vụ là một hoặc nhiều công việc mà kết quả của nó có thể vật chất hoá nhưng nó không tạo ra vật mới mà nó được thể hiện bằng công việc đã thực hiện xong như sửa chữa tài sản… hoặc không được vật chất hóa, như dịch vụ tư vấn pháp lí, gửi giữ, vận tải… Dịch vụ không trực tiếp tạo ra vật chất nhưng tạo tiền đề cho quá trình sản xuất ra của cải vật chất, tinh thần cho các chủ thể và xã hội. Tỉ lệ giá trị dịch vụ trong thu nhập quốc dân ngày càng tăng theo đà tăng trưởng của nền kinh tế.

– Kết quả của hoạt động tinh thần sáng tạo

Con người không chỉ tạo ra của cải vật chất để thoả mãn các nhu cầu của mình mà còn tạo ra các giá trị tinh thần, các sản phẩm trí tuệ để phục vụ nhu cầu tinh thần cũng như phục vụ cho quá trình sản xuất vật chất. Khoa học, kĩ thuật và công nghệ là thành tố của lực lượng sản xuất, trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất và là động lực quan trọng của sản xuất xã hội. Lao động sáng tạo là lao động đặc biệt và kết quả của quá trình sáng tạo này là những “sản phẩm trí tuệ”, là khách thể trong các quan hệ về quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp. Sản phẩm trí tuệ được thể hiện dưới dạng:

– Các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học… Đây là những hình thức biểu hiện kết quả của quá trình sáng tạo và chúng được thể hiện dưới nhiều dạng khác nhau như viết, nói hay bằng các phương tiện kĩ thuật…

– Các đối tượng của sở hữu công nghiệp là sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp… Những đối tượng này chỉ được bảo vệ khi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận chúng là đối tượng của sở hữu công nghiệp.

Các giá trị nhân thân là khách thể trong các quyền nhân thân của công dân, tổ chức. Bảo vệ quyền nhân thân là một trong những nguyên tắc được ghi nhận trong BLDS. Các quyền nhân thân của cá nhân được Nhà nước bảo hộ ngày càng mở rộng do sự phát triển của xã hội. Quyền nhân thân như là một bộ phận cấu thành của quyền con người như danh dự, nhân phẩm, uy tín, tên gọi, quốc tịch, hình ảnh, bí mật đời tư… Về nguyên tắc chung, các quyền nhân thân luôn gắn với chủ thể và không thể dịch chuyển được trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

Đây là một loại tài sản đặc biệt của Nhà nước. Trong khi pháp luật quy định: ” Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lí” thì quyền sử dụng đất của cá nhân, hộ gia đình được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, để lại thừa kế… và Nhà nước công nhận các quyền của người sử dụng đất. Quyền sử dụng đất được pháp luật quy định là một quyền dân sự và có thể được chuyển giao trong lưu thông dân sự, kinh tế. Pháp luật đất đai quy định người sử dụng đất có quyền: Chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, tặng cho, cho thuê lại, góp vốn, thế chấp, thừa kế quyền sử dụng đất. Vì vậy, quyền sử dụng đất là đối tượng trong các hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất và là di sản trong việc thừa kế quyền sử dụng đất.

c. Nội dung của quan hệ pháp luật dân sự

Mọi quan hệ pháp luật đều là mối liên hệ pháp lí giữa các chủ thể tham gia vào các quan hệ đó được thể hiện dưới dạng quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia. Vì vậy, nội dung của quan hệ pháp luật dân sự là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia vào các quan hệ đó. Quyền của một bên tương ứng với nghĩa vụ của bên kia tạo thành mối liên hệ biện chứng, mâu thuẫn và thống nhất trong một quan hệ pháp luật dân sự cụ thể. Không có quyền của một bên thì cũng không có nghĩa vụ của bên kia và ngược lại. Trong những quan hệ đơn giản, có thể dễ dàng xác định trong đó một bên chỉ có quyền và một bên chỉ có nghĩa vụ (người cho vay và người vay tài sản…). Nhưng thông thường, các quan hệ pháp luật dân sự là những quan hệ phức tạp, trong đó các bên có quyền đồng thời có nghĩa vụ với nhau (trong quan hệ mua bán, cho thuê tài sản…).

Theo quy định của pháp luật, quyền dân sự là cách xử sự được phép của người có quyền năng.

Quyền dân sự của các chủ thể trong các quan hệ pháp luật dân sự cụ thể khác nhau thì có nội dung khác nhau (những xử sự khác nhau phù hợp với nội dung của quan hệ đó). Chủ thể quyền trong các quan hệ dân sự có thể thực hiện những hành vi khác nhau phù hợp với nội dung, mục đích của quyền năng đó như chủ sở hữu có các quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt những tài sản thuộc quyền sở hữu của mình trong khuôn khổ pháp luật quy định… Thông qua hành vi của mình thoả mãn quyền của mình hoặc quyền yêu cầu người khác (người có nghĩa vụ) thực hiện các hành vi nhất định (trả tiền, chuyển giao tài sản, làm hoặc không làm một việc…). Chủ sở hữu có thể thực hiện quyền của mình thông qua hành vi của người khác (uỷ quyền).

Khi quyền dân sự bị vi phạm, chủ thể quyền có thể sử dụng các biện pháp bảo vệ mà pháp luật cho phép (tự bảo vệ, các biện pháp tác động…) hoặc yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ quyền dân sự của mình khi quyền đó bị xâm hại.

Trong khoa học pháp lí tồn tại khái niệm quyền chủ quan và quyền khách quan. Quyền khách quan là quyền dân sự được pháp luật quy định cho các chủ thể, là nội dung năng lực pháp luật của chủ thể (khả năng có thể có của chủ thể). Quyền chủ quan là quyền dân sự của chủ thể trong một quan hệ dân sự cụ thể đã được xác lập. Quyền chủ quan phải phù hợp với quyền khách quan mà pháp luật đã quy định.

Là cách xử sự bắt buộc của người có nghĩa vụ. Cách xử sự của các chủ thể cũng rất khác nhau tùy theo từng quan hệ dân sự cụ thể. Trong các quy phạm pháp luật dân sự, các quy phạm tùy nghi cho phép các chủ thể lựa chọn cách thực hiện khi tham gia vào quan hệ dân sự phát huy quyền tự định đoạt của mình. Các quy phạm mệnh lệnh dưới dạng “cấm không được làm” hoặc “phải làm” có một ý nghĩa đặc biệt. Từ các quy phạm này, phát sinh nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ dân sự. Những nghĩa vụ dạng này do pháp luật quy định cho tất cả các bên tham gia vào quan hệ dân sự không chỉ có ý nghĩa đối với các bên tham gia mà đó còn là nghĩa vụ của các chủ thể và có ý nghĩa đối với Nhà nước, đối với xã hội.

Thông thường, trong các quan hệ dân sự, nghĩa vụ của một chủ thể tương ứng với quyền của chủ thể khác – những chủ thể xác định. Người có nghĩa vụ có thể phải thực hiện những hành vi tích cực dưới dạng hành động (như trả tiền, giao vật trong mua bán; thực hiện công việc trong dịch vụ, gia công…). Trong một số trường hợp, nội dung của quan hệ pháp luật quy định người có nghĩa vụ có thể lựa chọn cách thức xử sự có lợi nhất cho họ. ( Ví dụ: Để bồi thường thiệt hại do hành vi gây thiệt hại gây ra, người có nghĩa vụ có thể bồi thường bằng tiền hoặc hiện vật hay sửa chữa đồ vật bị hư hỏng). Nếu người có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ của họ một cách tự nguyện sẽ bị “buộc” phải thực hiện đúng nghĩa vụ đó. Ngoài ra, nếu do không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ mà gây thiệt hại thì phải bồi thường thiệt hại xảy ra.

Bạn đang đọc nội dung bài viết Khái Niệm Luật Dân Sự Và Những Quy Định Chung Về Luật Dân Sự trên website Athena4me.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!