Cập nhật nội dung chi tiết về Khái Niệm, Đối Tượng Và Phương Pháp Điều Chỉnh Của Luật Hình Sự mới nhất trên website Athena4me.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
38771
Khái niệm, đối tượng và phương pháp điều chỉnh của Luật hình sự
Khái niệm Luật hình sự Việt Nam
Đối tượng điều chỉnh của Luật hình sự
Phương pháp điều chỉnh của Luật hình sự
1. Khái niệm Luật hình sự Việt Nam
xuất hiện từ thời cổ đại và có những cách hiểu khác nhau. Trong tiếng Anh, luật hình sự được gọi là “Criminal Law”, tiếng Pháp là “Droit Criminel” và tiếng Đức là “Criminalrecht”. Từ “criminal” xuất phát từ từ “crimen”, nghĩa là tội phạm hoặc sự kết án về một tội nào đó. Như vậy, luật hình sự được hiểu là luật về tội phạm. Song song đó, người ta còn dùng các cụm từ “Penal Law” (tiếng Anh), “Droit Penal” (tiếng Pháp), hoặc “Strafrencht” (tiếng Đức) để chỉ luật hình sự. Từ “penal” xuất phát từ từ “poena”, nghĩa là hình phạt. Trong trường hợp này, luật hình sự được hiểu là luật về hình phạt. Đây là cách hiểu về luật hình sự trong tiếng Việt.
Nhằm thực hiện nhiệm vụ bảo vệ chế độ xã hội, trật tự xã hội, Nhà nước dùng nhiều biện pháp vừa có tính thuyết phục, vừa có tính cưỡng chế để đấu tranh, ngăn chặn những hành vi vi phạm. Khi hành vi vi phạm có tính nguy hiểm cho xã hội chưa cao, Nhà nước có thể chỉ sử dụng các chế tài hành chính, dân sự… Nếu hành vi vi phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cao đối với xã hội thì Nhà nước cần áp dụng các biện pháp xử lý mạnh mẽ và nghiêm khắc nhất – chế tài hình sự, được quy định bởi luật hình sự. Thông qua hoạt động lập pháp hình sự, nhà làm luật đã ban hành các văn bản quy phạm pháp luật hình sự để quy định tội phạm và hình phạt đối với các tội phạm đó.
Như trên đã nêu, luật hình sự là một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật, do vậy nó sẽ có tất cả các đặc điểm đặc trưng của một ngành luật nói chung. Tuy nhiên, với tư cách là một ngành luật độc lập, Luật hình sự có một số đặc điểm và các nguyên tắc đặc trưng của mình. Nói cách khác, Luật hình sự có đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh riêng, phù hợp với đặc điểm của mình.
2. Đối tượng điều chỉnh của Luật hình sự
Đối tượng điều chỉnh của bất kỳ một ngành luật nào cũng là một hoặc một số quan hệ xã hội nhất định. Việc nghiên cứu đối tượng điều chỉnh của Luật hình sự phải xuất phát từ chức năng, vai trò của nó. Luật hình sự trước hết có chức năng bảo vệ các quan hệ xã hội trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội…khỏi sự xâm hại của các hành vi phạm tội. Luật hình sự thực hiện chức năng này bằng cách quy định những hành vi nguy hiểm cho xã hội là tội phạm, đồng thời quy định hình phạt có thể áp dụng đối với những người đã thực hiện hành vi đó. Nói cách khác, Luật hình sự điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh khi có một tội phạm xảy ra. Theo một số quan điểm, quan hệ xã hội phát sinh trong điều kiện này là các quan hệ xã hội tiêu cực vì nó phát sinh khi có người thực hiện hành vi phạm tội.
Trong quan hệ pháp luật hình sự, có hai chủ thể với những địa vị pháp lý khác nhau là Nhà nước và người phạm tội.
– Nhà nước là chủ thể có vị trí đặc biệt trong quan hệ pháp luật hình sự với tư cách là người bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, bảo vệ lợi ích của toàn xã hội. Nhà nước, thông qua các cơ quan tư pháp hình sự nhân danh mình (cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát, Toà án…) có quyền khởi tố, bắt giam, điều tra, truy tố, xét xử người phạm tội, buộc họ phải chịu những hình phạt nhất định tương ứng với tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm mà họ đã gây ra hoặc tha miễn một số người thực hiện hành vi phạm tội nếu người này hội đủ những điều kiện do pháp luật hình sự quy định. Mặt khác, với tư cách là người đại diện cho công lý, Nhà nước đồng thời có trách nhiệm bảo đảm quyền lợi hợp pháp cho người phạm tội thông qua một loạt những quy định chặt chẽ về quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo, người phạm tội, người bị kết án. Trong quan hệ pháp luật hình sự, Nhà nước thực hiện trách nhiệm của mình thông qua các cơ quan chức năng chuyên trách, đại diện mình (cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát, Toà án…).
– Chủ thể thứ hai trong quan hệ pháp luật hình sự là người phạm tội – người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị Luật hình sự coi là tội phạm. Người phạm tội có trách nhiệm chấp hành các biện pháp cưỡng chế mà Nhà nước áp dụng đối với họ, đồng thời họ cũng có quyền yêu cầu Nhà nước đảm bảo các quyền lợi hợp pháp của mình, chỉ áp dụng các biện pháp chế tài trong giới hạn luật định và có quyền tự mình bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa cho hành vi phạm tội của mình.
Căn cứ làm phát sinh quan hệ pháp luật hình sự là hành vi phạm tội đã diễn ra trong thực tế và thời điểm chấm dứt quan hệ pháp luật hình sự là khi người phạm tội chấp hành xong hình phạt hoặc bất kỳ biện pháp nào của mà Nhà nước áp dụng đối với người phạm tội hoặc người phạm tội chết.
Tóm lại, đối tượng điều chỉnh của Luật hình sự Việt Nam là các quan hệ xã hội phát sinh giữa Nhà nước và người phạm tội khi người này thực hiện tội phạm. Thông qua việc điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh khi có tội phạm xảy ra, Luật hình sự Việt Nam tạo điều kiện cho các quan hệ xã hội được Nhà nước bảo vệ phát triển, tránh khỏi sự xâm hại của tội phạm. Bằng cách đó, Luật hình sự Việt Nam góp phần bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, các quyền và lợi ích của công dân cũng như đảm bảo việc thực hiện các chính sách kinh tế xã hội do Nhà nước đề ra.
Nội dung tóm tắt:Đối tượng điều chỉnh của một ngành luật là các quan hệ xã hội được các quy phạm pháp luật của ngành luật đó điều chỉnh. Các quan hệ xã hội được các quy phạm PLHS tác động tới là đối tượng điều chỉnh của luật hình sự. Luật hình sự chỉ điều chỉnh các quan hệ xã hội khi có tội phạm xảy ra- đó cũng chính là các quan hệ PLHS
Vậy, Đối tượng điều chỉnh của luật hình sự là những quan hệ xã hội phát sinh giữa Nhà nước và người phạm tội khi người này thực hiện tội phạm. Thời điểm bắt đầu xuất hiện quan hệ pháp luật hình sự là thời điểm người phạm tội bắt đầu thực hiện tội phạm và quan hệ pháp luật này chấm dứt khi người phạm tội được xoá án tích. Trong cả quá trình này xuất hiện đồng thời quan hệ pháp luật tố tụng hình sự, quan hệ pháp luật dân sự… Tuy nhiên, quan hệ pháp luật tố tụng hình sự, đa số trường hợp bắt đầu xuất hiện khi có quyết định khởi tố vụ án và quyết định khởi tố bị can.
Trong quan hệ pháp luật hình sự luôn có hai chủ thể với những vị trí pháp lý khác nhau. 1. Nhà nước: Có quyền truy tố, xét xử người phạm tội, buộc họ phải chịu những biện pháp trách nhiệm hình sự nhất định để bảo vệ pháp luật bảo vệ lợi ích của toàn xã hội. Nhà nước thực hiện quyền này bằng cách thể hiện ý chí của mình trong Bộ luật hình sự. Mặt khác, Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của người phạm tội. 2. Người phạm tội: Có trách nhiệm chấp hành các biện pháp cưỡng chế mà Nhà nước áp dụng đối với mình. Mặt khác, họ có quyền yêu cầu Nhà nước đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
3. Phương pháp điều chỉnh của Luật hình sự
Phương pháp điều chỉnh của một ngành luật nói chung là cách thức, phương thức mà hệ thống các quy phạm pháp luật tác động lên các quan hệ xã hội mà ngành luật đó điều chỉnh nhằm vào các mục đích nhất định của ngành luật đó. Phương pháp điều chỉnh của một ngành luật được xác định bởi tính đặc trưng của đối tượng điều chỉnh của ngành luật đó. Mặt khác, phương pháp điều chỉnh của một ngành luật thông qua một số hình thức tác động như: trình tự xác lập các quyền và nghĩa vụ chủ thể của quan hệ pháp luật, mức độ xác định các quyền, sự lựa chọn sự kiện pháp lý làm phát sinh quan hệ pháp luật, đặc điểm quan hệ giữa các bên, phương pháp bảo đảm thực hiện các quyền của chủ thể…v.v…Do tính đặc trưng của đối tượng điều chỉnh cũng như các hình thức điều chỉnh (trình tự, mức độ xác định…) của mỗi ngành luật là khác nhau nên có nhiều phương pháp điều chỉnh khác nhau.
Các cơ quan đại diện cho quyền lực Nhà nước trong lĩnh vực tư pháp hình sự có quyền sử dụng tất cả các biện pháp cưỡng chế mà pháp luật cho phép để giải quyết các yêu cầu về nội dung và mục đích của pháp luật hình sự. Quyền lực Nhà nước không bị hạn chế bởi thế lực của một cá nhân, một tổ chức, một đảng phái nào. Người phạm tội, do thực hiện các hành vi nguy hiểm, gây thiệt hại cho xã hội được Nhà nước bảo hộ và Luật hình sự coi là tội phạm nên phải chịu trách nhiệm trước Nhà nước về tội phạm đã gây ra. Trách nhiệm này thuộc về cá nhân kẻ phạm tội do chính kẻ phạm tội gánh chịu một cách trực tiếp chứ không thể “chuyển” hay uỷ thác cho một người nào khác. Người phạm tội không có quyền từ chối hình phạt hay thoả thuận với Nhà nước về mức hình phạt. Quan hệ giữa Nhà nước và người phạm tội là quan hệ gần như một chiều, người phạm tội phải luôn tuyệt đối tuân theo những quyết định của Nhà nước.
Xuất phát từ chức năng điều chỉnh và địa vị pháp lý của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật này, luật hình sự sử dụng phương pháp quyền uy – phương pháp sử dụng quyền lực Nhà nước để điều chỉnh các quan hệ pháp luật hình sự. Nhà nước áp dụng các biện pháp cưỡng chế đối với người phạm tội không bị cản trở hay phụ thuộc vào ý chí của bất kỳ cá nhân hay tổ chức nào. Người phạm tội phải phục tùng những biện pháp mà Nhà nước đã áp dụng với họ. Trách nhiệm của người phạm tội về tội phạm mà họ đã gây ra là trách nhiệm đối với Nhà nước chứ không phải trách nhiệm đối với người bị hại hay trách nhiệm đối với các cơ quan tiến hành tố tụng.
Khái Niệm Và Đối Tượng Điều Chỉnh Của Luật Dân Sự
Quan hệ dân sự là một quan hệ chủ yếu thường xuyên diễn ra trong đời sống xã hội. Để điều chỉnh nó Quốc hội Việt Nam ban hành Bộ luật dân sự đầu tiên vào năm 1997, sau gần 10 năm thi hành Bộ luật dân sự đã bộc lộ nhiều khuyết điểm nên năm 2005 nó đã được sửa đổi và bổ sung cho phù hợp. Bằng việc điều chỉnh các quan hệ dân sự bằng các văn bản luật đã đưa các quan hệ này vào một vòng trật tự nhất định, ứng xử của các chủ thể trong các giai dịch dân sự đã tuân theo các quy định của pháp luật. Ở đây chúng tôi đưa ra các khái niệm về Luật dân sự, đối tượng và phương pháp điều chỉnh của Luật dân sự. trong bày viết này chúng tôi chỉ cung cấp cho người học những chế định quan trọng, cơ bản mà Bộ luật dân sự điều chỉnh như chế định quyền sở hữu trong đó làm rõ khái niệm, nội dung 3 quyền năng chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản của chủ sở hữu hoặc người không phải là chủ sở hữu.
1. Khái niệm Luật dân sự
Là ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật Việt Nam, bao gồm tổng thể các qui phạm pháp luật do nhà nước ban hành điều chỉnh các quan hệ về tài sản và quan hệ nhân thân phát sinh trong quá trình sản xuất, phân phối, lưu thông, tiêu dùng nhằm thoả mãn nhu cầu của cá nhân dựa trên nguyên tắc bình đẳng về mặt lợi ích, quyền tự định đoạt của các bên, tự chịu trách nhiệm về tài sản.
Nếu bạn đang gặp khó khăn hay vướng mắc về viết luận văn, khóa luận hay bạn không có thời gian để làm luận văn vì phải vừa học vừa làm? Kỹ năng viết cũng như trình bày quá lủng củng?… Vì vậy bạn rất cần sự trợ giúp của dịch vụ làm luận văn tốt nghiệp đại học.Hãy gọi ngay tới tổng đài tư vấn luận văn 1080 – 096.999.1080 nhận viết luận văn theo yêu cầu, đảm bảo chuẩn giá, chuẩn thời gian và chuẩn chất lượng, giúp bạn đạt được điểm cao với thời gian tối ưu nhất mà vẫn làm được những việc quan trọng của bạn.
2. Đối tượng điều chỉnh Luật dân sự
Bao gồm các nhóm quan hệ sau:
– Nhóm quan hệ tài sản:
Là quan hệ giữa người với người thông qua 1 tài sản dưới dạng 1 Tư liệu sản xuất, 1 Tư liệu tiêu dùng hoặc dịch vụ tạo ra 1 tài sản nhất định. Tài sản trong luật dân sự được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm cả tài sản, quyền tài sản và nghĩa vụ về tài sản.
– Nhóm quan hệ nhân thân:
Là quan hệ giữa người với người không mang tính kinh tế, không tính được thành tiền. Nó phát sinh do 1 giá trị tinh thần gắn liền với 1 người hoặc 1 tổ chức nhất định và không dịch chuyển được. Ví dụ: Quyền được đứng tên trên các tác phẩm văn học nghệ thuật, công trình… mà người đó là tác giả hay quyền bất khả xâm phạm về nhãn hiệu hàng hoá của 1 doanh nghiệp. Có 2 loại quan hệ nhân thân là:
Là những quan hệ nhân thân là cơ sở làm phát sinh quan hệ tài sản tiếp sau. Ví dụ: Trong lĩnh vực quyền tác giả (ở đây quan hệ nhân thân là cơ sở khẳng định rằng người sáng tạo ra tác phẩm có quyền đứng tên là tác giả của tác phẩm. Quyền này là quyền nhân thân không thể tách rời chuyển dịch của người sáng tạo. Nhưng đồng thời với việc được thừa nhận là tác giả của tác phẩm người đó còn được hưởng thù lao như nhuận bút theo luật định.
3. Phương pháp điều chỉnh Luật dân sự
Luật Dân Sự Là Gì? Đối Tượng Và Phương Pháp Điều Chỉnh Của Luật Dân Sự
1. Khái niệm
1.1. Luật dân sự là gì?
Đây là luật tổng hợp tất cả các quy phạm điều chỉnh các quan hệ tài sản và một số quan hệ nhân thân trong giao lưu dân sự trên cơ sở pháp luật bình đẳng tự chịu trách nhiệm của các chủ thể tham gia các quan hệ dân sự đó.
Luật chuyên giải quyết những cuộc tranh chấp giữa các cá nhân tổ chức mà trong đó bên chịu thiệt có thể nhận được bồi thường.
Ví dụ : Khi tranh chấp đúng sai giữa hai người đi xe máy đi đường xảy ra tai nạn, hai bên không đưa ra được tiếng nói chung trong việc bồi thường và chịu trách nhiệm, họ có thể kiện tụng để từ đưa ra những giải quyết hợp lý thì đây chính là luật dân sự .
Đối tượng điều chỉnh của luật dân sự vô cùng rộng đó là các mỗi quan hệ tài sản quan hệ, giữa các công ty với cá nhân do đó đối tưởng của bộ luật bao trùm lên tất cả các mối quan, đáp ứng những mục đích tinh thần của người tham gia và những người cùng tham gia .
2. Phân loại pháp luật dân sự.
Quan hệ pháp luật dân sự ở Việt Nam là vô cùng phong phú và rộng khắp… việc phân loại này không chỉ có ý nghĩa về mặt pháp lý mà còn có ý nghĩa về mặt thực tiễn vì nó góp phần hiểu đúng về quan hệ giữa các bên, đúng pháp luật nhằm giải quyết các tranh chấp có thể xảy ra khi kiện tụng.
Có thể chia pháp luật dân sự thành hai loại đó là quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản
Ví dụ : quyển thương hiệu của một sản phẩm, do mình sáng tạo ra hay quyền tác giả bài hát,logo thương hiệu quyền đối với danh dự, nhân phẩm …
– Quan hệ tài sản: hiểu đơn giản là những quan hệ của chủ thể có tài sản, quan hệ kinh tế cụ thể trong qua trình sản xuất kinh doanh, quan hệ này là một đối tượng mà luật dân sự quản lý và áp dụng
Quan hệ tài sản do lãnh đạo điều chỉnh gồm 5 nhiệm vụ: Quan hệ sở hữu, quan hệ thừa kế, quan hệ về chuyển quyền sử dụng đất đai, quan hệ về bồi thường thiên tai, quan hệ về nghĩa vụ quân sự và hợp đồng quân sự .
Ví dụ : quan hệ tài sản có rất nhiều trong cuộc sống nổi bật nhất là quan hệ quền sử dụng đất đai, quền thừa hế là những quan hệ tài sản nổi bật nhất
Phương pháp điều chỉnh của luật dân sự là những biện pháp tác động của ngành luật đó lên các quan hệ xã hội mang tính tài sản và các quan hệ xã hội mang tính nhân thân làm cho các quan hệ xã hội đó phát sinh và thay đổi hay chấm dứt phù hợp với ý chí và lời ích của nhà nước, đặc trưng chủ thể tham gia vào hệ thống độc lập và bình đẳng với nhau
Sự bình đẳng được thể hiện ở chỗ không có bên nào có quyền ra lệnh, áp đặt lên người khác mà các chỉ thể tham gia quan hệ định đoạt tự do cam kết thỏa thuận nhằm đưa ra kết quả , nhu cầu lợi ích nhất định của họ không phải trái với pháp luật và đạo đức con người , không xâm hại đến lợi ích nhà nước .
3.Phương pháp điều chỉnh luật dân sự
Phương pháp điều chỉnh luật dân sự chủ yêu dựa vào 3 phương pháp đó là bình đẳng, tự chịu trách nhiệm của các chủ thể và cuối cùng là phương pháp thỏa thuận để đưa ra các giái quyết tốt nhất .
Bình đẳng về địa vị pháp lý: Có nghĩa là không có bấp kỳ sự phân biệt nào về địa vị xã hội, tình trạng tài sản, giời tính và dân tộc… tất cả để được bình đẳng không có sự ưu tiên nào.
Độc lập về tổ chức và tài sản: Tổ chức không có sự phụ thuộc vào quan hệ cấp trên hay cấp dưới, các quan hệ hành chính khác .
Tài sản khi tham gia vào quan hệ pháp luật, cá nhân, tổ chức hoàn toàn độc lập với nhau, không có sự nhầm lẫn hay đánh đồng giữa cá nhân này với tổ chức khác, hay giữa các cá nhân với nhau.
Chế tài trong luật dân sự
Do đối tượng áp dụng của luật dân sự rất rộng và đa dạng vậy nên chế tài trong luật dân sự mang tính da dạng và theo pháp luật Việt Nam ban hành, hậu quả khác nhau để áp dụng cho từng hành vi, vi phạm tương ứng, tuy nhiên dựa vào tính chất, mức độ của hành vi vi phạm mà áp dụng chế tài xử pháp khác nhau, chế tài có các mức phạt khác nhau như cải chính, bồi thường thiên tai hay vi phạp đều có các chế tài.
4. Điểm khách nhau giữa luật dân sự và luật hình sự
Có rất nhiều điểu khác nhau giữa hai bộ luật này các bạn cùng tham khảo các điểm khách nhau lơn nhất để hiểu tõ hơn hai bộ luật.
Điểm khác nhau lớn nhất giữa hai luật hình sự và luật dân sự: Luật dân sự là giải quyết tranh chấp giữa các cá nhân và tổ chức trong đó bên bị thiệt hai có thể nhận bồi thường còn luật hình sự là những quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành quy định những hành vi nguy hiểm cho xã hội là tội phạm và các hình phạt cho các người phạm tội.
Về bản chất luật hình sự và luật dân sự cũng rất khách nhau, luật hình sự mang tính luật công còn luật dân sự lại mang tính luật tư.
Về đối tượng của luật dân sự là quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân trong mối quan hệ xã hội , còn luật hình sự là mối quan hệ xã hội và nhà nước, người phạm tội bị nhà nước phạt tù hoặc xử phạt theo pháp luật của nhà nước đề ra.
Phương pháp điều chỉnh thì luật dân sự dựa trên phương pháp công bằng, bình đẳng về mặt pháp lý giữa các chủ thể tham gia, phương pháp định đoạn các chủ thể tròn việc tham gia quan hệ dân sự
Còn phương pháp điều chỉnh của luật hình sự là phương pháp quyền uy, có nghĩa là bắt người có tội phải thực hiện các mức án theo luật của nhà nước, trách nhiệm hình sự về việc làm đã gây ra, trách nhiệm của người phạm tội phải do chính người phạm tội chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Chế tài xử phạt của hai luật cũng khác nhau chế tài của luật dân sự thì thiên về tinh thần như xin lỗi , bồi thường thiết hại cho người bị hại, còn chế tài của hình sự nghiêm ngặn hơn xác định loaik và giới hạn mức độ hình phạt có thể áo dụng đối với người thực hiện hành vi phạm tội được quy định trong quy phạm pháp luật hình sự.
Làm việc trong một thời gian ngắn, mang tính đột xuất, thời vụ thường vào dịp Tết tại các công ty, doanh nghiệp. Mẫu hợp đồng thời vụ được trình bình và sử dụng như thế nào và có thể là thông tin bạn đọc muốn tìm hiểu thêm.
Tổng kế t: Qua bài viết trên các bạn đã hiểu rõ hơn về khái niệm luật dân sự là gì, đối tượng điều chình của luật dân sự, phương pháp điều chỉnh của luật dân sự và hiểu được những điểm khách nhau cơ bản của luật dân sự và luật hình sự từ đó có những điều chỉnh về hành vi trong cuộc sống cho đúng với pháp luật của nước Việt Nam, hiểu được luật để bảo về chính mình và người thân của mình .
Luật Lao Động Là Gì ? Đối Tượng, Phương Pháp Điều Chỉnh Của Luật Lao Động ?
1. Đối tượng điều chỉnh của luật lao động ?
2. Phương pháp điều chỉnh của luật lao động ?
+ Phương pháp thoả thuận: phương pháp này chủ yếu áp dụng trong trưởng hợp xác lập quan hệ lao động giữa người lao động và người sử dụng lao động và trong việc xác lập thoả ước lao động tập thể;
+ Phương pháp mệnh lệnh: được sử dụng trong lĩnh vực tổ chức và quản lí lao động, chủ yếu được dùng để xác định nghĩa vụ của người lao động đối với người sử dụng lao động;
3. Phân tích về mối quan hệ đại diện các bên trong quan hệ lao động
Sự xuất hiện đại diện các bên quan hệ lao động là hệ quả tất yếu của quá trình phát triển của nền kinh tế thị trường và phản ánh sự thay đổi về chất của hoạt động giải quyết mâu thuẫn kinh tế trong quan hệ lao động hiện đại. Đó là bước chuyển của quy trình giải quyết xung đột lợi ích lao động từ cấp độ cá nhân chuyên sang cấp độ tập thể. Theo quy luật chung của sự vận động, sự vật, hiện tượng luôn hướng đến sự hoàn thiện.
Trong quan hệ lao động, cá nhân NLĐ thường yếu thế hơn so với NSDLĐ, do không sở hữu tư liệu sản xuất và do sức ép về việc làm. Nếu chỉ dựa vào cá nhân, NLĐ sẽ khó đấu tranh bảo vệ quyền và lợi ích của mình. Do đó, họ cần phải đoàn kết, tập hợp nhau lại, tạo nên sức mạnh đấu tranh với NSDLĐ. Tuy nhiên, cũng chính sự xuất hiện tổ chức đại diện bên lao động đã kéo theo sự liên kết phía NSDLĐ để thực thi vai trò thương lượng.
Sự xuất hiện của hoạt động đại diện chính là sự bù đắp tất yếu cho những thuộc tính được xem là “hạn chế” riêng có của quan hệ lao động, nhằm giữ mối quan hệ hàng hóa – tiền tệ đặc biệt này trong trạng thái cân bằng tương đối để có thể tiếp tục duy trì, ổn định và phát triển. Giải quyết xung đột lợi ích ở cấp độ tập thể nghĩa là cái tôi cá biệt chủ quan sẽ nhường chỗ cho cái chung, cho những lợi ích phổ quát, khách quan hơn. Sự phát triển của các tổ chức đại diện các bên là tiền đề để tạo ra thương lượng tập thể ở cấp độ cao, cho phép phân phối các lợi ích hợp lí và công bằng hơn.
Nghiên cứu quá trình phát triển của thị trường lao động cho thấy khi các bên liên kết ở mức cao, như ở cấp ngành hay liên ngành, thì trong thương lượng tập thể giữa họ lợi ích chung của xã hội sẽ được tính đến. Bởi khi đó hoạt động đại diện của các bên cũng như thoả thuận mà họ thực hiện sẽ bao trùm một số lớn các đơn vị sử dụng lao động. Những mối quan tâm sẽ mang tính cộng đồng và công luận trở thành yếu tố không thể bỏ qua. Các nhà nghiên cứu cho rằng ở hoàn cảnh đó đại diện của các bên không có cách lựa chọn nào khác là “phải hành xử một cách có trách nhiệm”} Vì vậy, sự xuất hiện của hoạt động đại diện trên thị trường lao động, một cách tự nhiên cũng thúc đẩy tiến bộ xã hội.
Rõ ràng tổ chức đại diện có vai trò lớn và vai trò đó cần được phát huy đầy đủ. Tuy nhiên, thực tế cho thấy pháp luật với chức năng điều chỉnh các quan hệ xã hội có thể thúc đẩy những xu hướng tích cực tạo sự hài hòa trong quan hệ lao động và thúc đẩy kinh tế phát triển song cũng có thể làm hạn chế vai trò tích cực của các tổ chức đại diện trong quan hệ lao động. Tổ chức Lao động quốc tế – cơ quan có sứ mệnh ”thúc đẩy cơ hội có việc làm tốt và có thu nhập cho mọi người trong điều kiện tự do, công bằng, an toàn và đảm bảo nhân phẩm “ luôn khuyến nghị các quốc gia thực hiện tự do liên kết, hiệp hội, tự do công đoàn và thương lượng tập thể và coi đây là những tiêu chuẩn pháp lí quốc tế quan trọng bậc nhất. Trong số các công ước của Tổ chức Lao động quốc tế, Công ước số 87 năm 1948 về quyền tự do hiệp hội và về việc bảo vệ quyền được tổ chức được xem là quan trọng số 1, Công ước số 98 năm 1949 về Quyền tổ chức và thương lượng tập thể (Right to Organise and Collective Bargaining Convention, 1949) được xem là quan trọng thứ 2. Xem: http://www.ilo.org/global/standards/introduction-to-intemational- labour-standards/conventions-and-recommendatìons/lang–en/index.htm Công ước số 98 đã được Quốc hội Việt Nam khóa XIV phê chuẩn việc gia nhập ngày 14/6/2019.
Cơ quan này cũng nhấn mạnh việc bảo vệ các tổ chức đại diện của các bên quan hệ lao động, đặc biệt là công đoàn, không bị ảnh hưởng sự can thiệp từ các lực lượng bên ngoài vào quá trình thành lập, vận hành cũng như quản lí của chúng.
Tựu trung lại, để thực hiện hiệu quả vai trò của mình, tổ chức đại diện phải được phát triển trong một môi trường dân chủ trong đó quan trọng nhất chúng phải có sự độc lập về mặt tổ chức và kinh tế. Sự lệ thuộc về phương diện tổ chức và tài chính dễ dẫn đến sự suy yếu hoặc biến dạng của vai trò đại diện. Chỉ khi sự tự chủ và trách nhiệm của các tổ chức đại diện được đề cao, tiềm năng con người mới được giải phóng, khi đó có sản phâm đích thực của hoạt động đại diện và hoạt động đại diện được thực hiện với hiệu quả kinh tế xã hội cao. Cũng với tinh thần đó, Nhà nước, với tư cách là cơ quan quản lí hoạt động chung của xã hội, cần dành cho các bên không gian cần thiết (có thể tham khảo tiêu chuẩn lao động quốc tế để thực hiện điều này), tránh can thiệp quá sâu vào hoạt động đại diện của các bên.
Như vậy khi nghiên cứu về đại diện trong quan hệ lao động cần chú ý một số điểm:
Thứ nhất, sự ra đời, xuất hiện của tổ chức đại diện là nhu cầu có tính tự thân và tất yếu trong quan hệ lao động kể từ khi sức lao động được coi là hàng hóa và NLĐ với tư cách là người tự do đem nó ra trao đổi, mua bán trên thị trường. Nó không phải là kết quả từ ý chí của nhà nước hay mong muốn chủ quan của bất cứ ai.
Thứ hai, tổ chức đại diện trong quan hệ lao động về bản chất là tổ chức tự nguyện và vận hành theo cơ chế thành viên. Tuy nhiên, sự tự nguyện này chỉ thực sự tồn tại khi các cá nhân có cơ hội để lựa chọn và như vậy việc thừa nhận một thị trường lao động tồn tại nhiều tổ chức đại diện dường như là điều kiện thiết yếu và đương nhiên của tự do lựa chọn tổ chức đại diện.
Thứ ba, để đảm bảo tính chân thực và hiệu quả của hóạt động đại diện trong quan hệ với các chủ thể khác trong cơ chế hai bên (NLĐ và NSDLĐ) hay ba bên (nhà nước, công đoàn và NSDLĐ) tổ chức đại diện không nên có những lệ thuộc vào bất kì đối tác nào, đặc biệt về phương diện tổ chức hay tài chính.
Như vậy, đại diện các bên quan hệ lao động là sản phẩm của nền kinh tế thị trường, bao gồm (các) tổ chức độc lập của bên lao động và bên sử dụng lao động, được lập ra theo ỷ chí, nguyện vọng của cá nhân NLĐ và NSDLĐ nhằm thực hiện chức năng đại diện, bảo vệ, duy trì và phát triển lợi ích của mỗi bên trong mối quan hệ của họ đổi với nhau cũng như với các chủ thể khác trong thị trường lao động.
4. Sự hình thành và phát triển đại diện bên tập thể lao động ?
Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hóa trong đó hoạt động sản xuất, tiêu thụ và phân phối được thực hiện trên cơ sở hao đổi hàng hóa tiền tệ cùng sự tồn tại và chi phối của quy luật cạnh tranh, quy luật giá trị, quy luật cung cầu… Quan hệ lao động là một phần của nền kinh tế đó, được tạo nên bởi các chủ thể trên thị trường lao động với những mục đích và động cơ làm việc riêng. NSDLĐ mong muốn tăng lợi nhuận, còn NLĐ mong muốn có công ăn việc làm, tiền lương cao và ổn định để trang trải cuộc sống.
Vì thế, hai chủ thể này cùng dựa vào nhau để mưu cẩu những lợi ích chung và riêng cho mình, về bản chất, quyền và lợi ích của hai chủ thể này ở hai phía đối trọng. NSDLĐ luôn tìm mọi cách để giảm các chi phí như: tiền lương, cải thiện điều kiện làm việc… hoặc tăng thời gian làm việc, cho thôi việc NLĐ khi không cần thiết… Ngược lại, NLĐ mong muốn được tăng lương, cải thiện điều kiện làm việc, được duy trì việc làm… và đòi hỏi các quyền lợi khác như: quyền được làm việc và nghỉ ngơi hợp lí, quyền được bảo hiểm… – những điều đòi hỏi NSDLĐ phải đầu tư nhiều hơn…
Yếu tố cạnh tranh là nguyên nhân dẫn đến việc các nhà sản xuất phải kiểm soát các chi phí thận trọng. Họ cũng muốn tăng năng suất và hiệu quả sản xuất kinh doanh để có được lợi nhuận, có thể duy trì và phát triển doanh nghiệp. Lao động là một trong các chi phí đó và chính sự kiểm soát, hạn chế chi phí lao động là yếu tố tất yếu gây ra những tác động bất lợi cho những người làm công. Như vậy, mâu thuẫn và đấu tranh về lợi ích kinh tế trong quan hệ lao động là thuộc tính tự nhiên của quan hệ này nhưng sự đấu tranh giữa các bên nhằm phân chia “công bằng” những gì họ làm ra chỉ trở nên quyết liệt, công khai hơn khi có sự tham gia của số đông lao động và đó cũng là lúc kinh tế thị trường đã phát triển đến mức cao. Hệ quả của cạnh tranh tàn khốc giữa các nhà sản xuất là sự cắt giảm chi phí lao động tăng cao khiến bên lao động rơi vào tình cảnh tồi tệ như: lương thấp không đủ sống, cường độ làm việc quá cao, thời giờ làm việc quá dài vượt quá ngưỡng chịu đựng của con người…
Một khi cơ chế đấu tranh cá nhân không còn đủ mạnh để duy trì quyền lợi ở mức tối thiểu cần thiết để sinh tồn thì một cách tự nhiên NLĐ buộc phải liên kết lại với nhau để tạo nên sức mạnh lớn hơn nhằm bảo vệ các quyền lợi của mình. Như vậy, công đoàn xuất hiện là kết quả tất yếu của quá trình phát triển phong trào công nhân trong điều kiện kinh tế thị trường, giúp cho tiếng nói của công nhân gây được những ảnh hưởng đến quyết định của NSDLĐ.
Trân trọng!
Bạn đang đọc nội dung bài viết Khái Niệm, Đối Tượng Và Phương Pháp Điều Chỉnh Của Luật Hình Sự trên website Athena4me.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!