Đề Xuất 3/2023 # Hướng Dẫn Soạn Văn Khái Quát Văn Học Việt Nam Ngắn Gọn # Top 6 Like | Athena4me.com

Đề Xuất 3/2023 # Hướng Dẫn Soạn Văn Khái Quát Văn Học Việt Nam Ngắn Gọn # Top 6 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Hướng Dẫn Soạn Văn Khái Quát Văn Học Việt Nam Ngắn Gọn mới nhất trên website Athena4me.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

 I. Tìm hiểu chung để

s

oạn văn khái quát văn học Việt Nam

1. Lịch sử văn học Việt Nam

– Ở hậu kỳ trung đại, các tác phẩm văn học Việt Nam được viết chủ yếu bằng chữ Hán và một số ít bằng chữ Nôm.

– Sau này, văn học Việt Nam thống nhất viết bằng bằng một loại chữ là chữ quốc ngữ.

Cuốn sách in bằng chữ quốc ngữ đầu tiên của nước Việt Nam

– Văn học dân gian là cái nôi của văn học viết và đặt nền móng đầu tiên cho nền văn học.

2. Các thể loại văn học Việt Nam

-  Văn học dân gian thể hiện những sáng tác nghệ thuật mang tính chủ yếu là truyền miệng trong quần chúng nhân dân, phát sinh từ thời xưa cho tới bây giờ.

– Văn học viết vào thời kỳ đầu chủ yếu là thơ ca với hai loại cổ thể và cận thể – giữ nguyên khuôn phép chuẩn mực của thơ ca Trung Quốc.

II. 

Soạn văn khái quát văn học Việt Nam chi tiết

Câu 1:

–   Những nét tiêu biểu về tình hình văn hóa, xã hội, lịch sử có những tác động, ảnh hưởng tới sự phát triển văn học Việt Nam:

   + Cuộc cách mạng tháng Tám thành công vang dội đã mở ra một kỉ nguyên độc lập, tự do mới cho dân tộc.

   + Nền văn học đã có những thống nhất về tư tưởng, quan niệm, tổ chức.

– Từ 1945- 1975 là giai đoạn đất nước ta trải qua khá nhiều những biến cố, những chuỗi sự kiện lớn, tác động nhiều tới đời sống vật chất, tinh thần:

   + Phải kể đến hai cuộc chiến chống Pháp và Mỹ hào hùng.

   + Một cuộc cải tổ xây dựng CNXH miền Bắc.

Câu 2:

– Văn học từ 1945 – 1975 chia làm 3 giai đoạn:

+ Văn học thời kỳ chống Pháp (1945 – 1954).

+ Văn học thời kỳ tiến lên xây dựng XHCN (1955 – 1964).

+ Văn học thời kỳ chống Mỹ (1965 – 1975).

* Thành tựu

– Văn học thời kỳ chống Pháp: gắn liền với những cuộc cách mạng dân tộc, hướng tới đại chúng, ca ngợi tinh thần dân tộc, tạo hy vọng và niềm tin tương lai trong các cuộc kháng chiến.

   + Những truyện ngắn và kí nổi bật trong giai đoạn này: Một lần tới thủ đô (Trận Phố Ràng – Trần Đăng);  Kí sự Cao Lạng (Nguyễn Huy Tưởng), Đôi mắt (Nam Cao); Làng (Kim Lân);  Xung kích (Nguyễn Đình Thi) …

Tác phẩm truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân

   + Thơ ca cũng đóng góp với nhiều tuyệt tác: Cảnh khuya, Rằm tháng Giêng (Hồ Chí Minh),  Đồng chí (Chính Hữu), Bên kia sông Đuống (Hoàng Cầm); …

   + Kịch ngắn:  Những người ở lại (Nguyễn Huy Tưởng), Bắc Sơn,…

  + Những tác phẩm về lý luận, nghiên cứu, phê bình văn học: Nhận đường, Nói chuyện thơ ca kháng chiến (Hoài Thanh); Mấy vấn đề về nghệ thuật (Nguyễn Đình Thi), …

– Văn học 1955- 1964: trong giai đoạn này văn học tập trung thể hiện và tôn vinh hình ảnh người lao động, ngợi ca những đổi thay của đất nước và của con người trong nền XHCN:

   + Văn xuôi: Đi bước nữa (Nguyễn Thế Phương);  Anh Keng (Nguyễn Kiên); Mùa lạc (Nguyễn Khải); …

Viết về kháng chiến chống Pháp đã qua: Sống mãi với thủ đô (Nguyễn Huy Tưởng); Trước giờ nổ súng (Lê Khâm); Cao điểm cuối cùng (Hữu Mai) …

Hiện thực trước cách mạng: Mười năm (Tô Hoài); Cửa biển (Nguyên Hồng); Vỡ bờ (Nguyễn Đình Thi); …

Hợp tác hóa XHCN miền Bắc: Mùa lạc (Nguyễn Khải); Cái sân gạch (Đào Vũ) …

   + Thơ ca với hai cảm hứng nổi bật:

Hiện thực hóa cuộc sống và vẻ đẹp của con người trong CNXH bằng ngòi bút: Trời mỗi ngày lại sáng, Đất nở hoa, … (Huy Cận);  Ánh sáng và phù sa (Chế Lan Viên); Gió lộng (Tố Hữu); ….

   + Kịch nói: Chị Nhàn, Nổi gió (Đào Hồng Cẩm); Ngọn lửa (Nguyên Vũ), …

   + Sáng tác miền Nam: Người mẹ cầm súng (Nguyễn Thi); Hòn đất (Anh Đức); Rừng xà nu (Nguyễn Trung Thành) …

   + Truyện kí:  Mẫn và tôi (Phan Tứ); Chiếc lược ngà (Nguyễn Quang Sáng) …

Tác phẩm Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng

   + Thơ ca: Ra trận, Máu và hoa (Tố Hữu); Đầu súng trăng treo (Chính Hữu); Những bài thơ đánh thắng giặc (Chế Lan Viên) …

   + Kịch:  Đôi mắt (Vũ Dũng Minh); Đại đội trưởng của tôi (Đào Hồng Cẩm) …

Câu 3:

Soạn văn khái quát văn học Việt Nam lớp 12 chúng ta cần làm rõ những đặc điểm cơ bản:

– Nền văn học luôn đề cao việc hướng về đại chúng:

   + Nhân dân chính là đối tượng phản ánh và tiếp nhận những sáng tác. Đôi khi họ cũng chính là người sáng tác ra các tác phẩm để đời.

   + Nhân dân cũng là đối tượng gây ảnh hưởng và chi phối khá nhiều hình thức nghệ thuật, quan điểm thẩm mĩ.

– Nền văn học vận động theo khuynh hướng cách mạng hóa:

   + Ba mươi năm chiến tranh ác liệt đã hun đúc nên những kiểu: nhà văn- chiến sĩ, nhận thức được sứ mệnh văn học.

– Đề tài chính văn học 1945- 1975:

   + Đề tài tổ quốc: bảo vệ, giữ gìn, xây dựng, đấu tranh, giải phóng. Người chiến sĩ luôn trở thành nhân vật trung tâm văn học và được khai thác trên nhiều khía cạnh thú vị khác nhau.

   + Đề tài XHCN: những phẩm chất tốt đẹp của con người. Sự kết hợp giữa cái chung và cái riêng.

– Nền văn học mang khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn:

   + Văn học mang đậm nét sử thi: phản ánh rõ nét những vấn đề lớn quyết định tới vận mệnh đất nước, sự đoàn kết dân tộc.

   + Văn học thấm đẫm cảm hứng lãng mạn: ngợi ca chủ nghĩa anh hùng cách mạng, thể hiện phương diện lý tưởng của cuộc sống và vẻ đẹp của con người.

Câu 4:

Căn cứ vào hoàn cảnh xã hội, văn hóa và lịch sử để soạn văn khái quát văn học Việt Nam lớp 12 với những nét chính như sau:

– Công cuộc tiến hành đổi mới do Đảng Cộng Sản lãnh đạo dần chuyển sang nền kinh tế thị trường và là bước đệm tạo điều kiện tiếp xúc văn hóa.

   + Văn học dịch, văn hóa báo chí và các phương tiện truyền thông ảnh hưởng mạnh mẽ tới sự phát triển đất nước nói chung, và sự phát triển của văn học nói riêng.

   + Nền văn học phát triển theo khuynh hướng phù hợp với sự nghiệp đổi mới và hoàn cảnh khách quan.

Câu 5:

Thành tựu văn học giai đoạn từ năm 1975 đến hết thế kỉ XX:

– Thơ ca: không có quá nhiều sự hấp dẫn, ấn tượng nhưng có những đổi mới, mở rộng hơn về đề tài sáng tác và cả nội dung lẫn hình thức.

– Văn xuôi: có những khởi sắc nhất định, những tiểu thuyết nêu cao vấn đề chống tiêu cực, truyện ngắn về cuộc đời và thế sự.

– Phóng sự điều tra xoáy sâu vào hiện thực.

Khái Quát Văn Học Dân Gian Việt Nam

Bài tập minh họa

Đề: Nêu các đặc trưng cơ bản của văn học dân gian Việt Nam? Hệ thống thể loại của văn học dân gian Việt Nam? Những giá trị cơ bản của văn học dân gian

Các đặc trưng cơ bản của văn học dân gian

Văn học dân gian là những tác phẩm nghệ thuật ngôn từ truyền miệng. Thực chất của quá trình truyền miệng là sự ghi nhớ theo kiểu nhập tâm và phổ biến bằng miệng cho người khác. Văn học dân gian khi được phổ biến lại, đã thông qua lăng kính chủ quan (bộ não người) nên thường được sáng tạo thêm. Văn học dân gian thường được truyền miệng theo không gian (từ vùng này qua vùng khác), hoặc theo thời gian (từ đời trước đến đời sau).

Quá trình truyền miệng thường được thực hiện thông qua diễn xướng – tức là hình thức trình bày tác phẩm một cách tổng hợp (nói, hát, kể).

Văn học dân gian là kết quả của những quá trình sáng tác tập thể.

Tập thể là tất cả mọi người, ai cũng có thể tham gia sáng tác. Nhưng quá trình này, lúc đầu do một người khởi xướng lên, tác phẩm hình thành và được tập thể tiếp nhận. Sau đó những người khác (địa phương khác, thời đại khác) tham gia sửa chữa, bổ sung cho tác phẩm biến đổi dần. Quá trình bổ sung này thường làm cho tác phẩm phong phú hơn, hoàn thiện hơn.

Mỗi cá nhân tham gia vào quá trình sáng tác này ở những thời điểm khác nhau. Nhưng vì truyền miệng nên lâu ngày, người ta không nhớ được và cũng không cần nhớ ai là tác giả. Tác phẩm dân gian vì thế đã trở thành của chung, ai cũng có thể tùy ý thêm bớt, sửa chữa.

Văn học dân gian gắn bó và phục vụ trực tiếp cho các sinh hoạt khác nhau trong đời sống cộng đồng.

Sinh hoạt cộng đồng là những sinh hoạt chung của nhiều người như lao động tập thể, vui chơi ca hát tập thể, hội hè… Trong những sinh hoạt này, tác phẩm văn học dân gian thường đóng vai trò phối hợp hoạt động, tạo nhịp điệu cho hoạt động (những bài hò : hò chèo thuyền, hò đánh cá,…). Không những thế, văn học dân gian còn gây không khí để kích thích hoạt động, gợi cảm hứng cho ngừi trong cuộc (ví dụ những câu chuyện cười được kể trong lao động giúp tạo ra sự sảng khoái, giảm bớt sự mệt nhọc trong công việc).

Hệ thống thể loại của văn học dân gian Việt Nam

Thần thoại, sử thi, truyền thuyết, truyện cổ tích, truyện cười, truyện ngụ ngôn, tục ngữ, câu đố, ca dao, vè, truyện thơ, chèo,

Những giá trị cơ bản của văn học dân gian

Văn học dân gian là kho trí thức vô cùng phong phú về đời sống của các dân tộc (kho trí khôn của nhân dân về mọi lĩnh vực của đời sống tự nhiên, xã hội, con người). Kho tri thức này phần lớn là những kinh nghiệm lâu đời được nhân dân ta đúc kết từ thực tế. Vào trong các tác phẩm, nó được mã hoá bằng những ngôn từ và hình tượng nghệ thuật tạo ra sức hấp dẫn người đọc, người nghe, dễ phổ biến, dễ tiếp thu và có sức sống lâu bền cùng năm tháng.

Văn học dân gian ngợi ca, tôn vinh những giá trị tốt đẹp của con người. Vì thế, nó có giá trị giáo dục sâu sắc về truyền thống dân tộc (truyền thống yêu nước, đức kiên trung, lòng vị tha, lòng nhân đạp, tinh thần đấu tranh chống cái ác, cái xấu,…). Văn học dân gian cũng vì thế mà góp phần hình thành những giá trị tốt đẹp cho các thế hệ xưa và nay.

Văn học dân gian có giá trị to lớn về nghệ thuật. Nó đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển nền văn học dân nước nhà. Nó đã trở thành những mẫu mực để đời sau học tập. Nó là nguồn nuôi dưỡng, là cơ sở của văn học viết.

Soạn Bài Khái Quát Văn Học Dân Gian Việt Nam (Chi Tiết)

Lựa chọn câu để xem lời giải nhanh hơn

Câu 1 Câu 1 (trang 19 SGK Ngữ văn 10 tập 1) Trình bày từng đặc trưng cơ bản của văn học dân gian Lời giải chi tiết:

Ba đặc trưng cơ bản của văn học dân gian là:

– Đây là đặc trưng của quá trình sáng tác và lưu truyền từ người này sang người khác không bằng chữ viết mà bằng lờii qua sự nhập tâm ghi nhớ.

– Nhân dân lao động sáng tác bằng ngôn ngữ nói, ngay từ khi chưa có chữ viết. Quá trình lưu truyền tiếp tục bổ sung bằng ngôn ngữ nói. Về sau, người ta sưu tầm và ghi chép lại, ấy là khi tác phẩm đã hoàn thành và lưu hành, thậm chí qua hàng trăm năm.

– Tính truyền miệng còn biểu hiện trong diễn xướng dân gian (Ca hát chèo, tuồng, cải lương…) Tính truyền miệng làm nên sự phong phú, đa dạng nhiều vẻ của văn học dân gian. Tính truyền miệng làm lên nhiều bản kể gọi là dị bản.

– Quá trình sáng tác lúc đầu do một cá nhân khởi xướng, nhưng được nhiều người tham gia sửa chữa, thêm bớt, cuối cùng đã trở thành sản phẩm chung, có tính tập thể.

– Mọi người có quyền tham gia bổ sung sửa chữa sáng tác dân gian.

Câu 2 Câu 2 (trang 19 SGK Ngữ văn 10 tập 1) Văn học dân gian Việt Nam có những thể loại nào? Nêu tên gọi, định nghĩa ngắn gọn và ví dụ cho mỗi thể loại. Lời giải chi tiết:

– Thần thoại là hình thức tự sự dân gian, thường kể về các vị thần xuất hiện chủ yếu ở thời công xã nguyên thủy nhằm giải thích các hiện tượng tự nhiên, thể hiện khát vọng chinh phục tự nhiên, quá trình sáng tạo văn hóa của người Việt cổ.

– Do quan niệm của người Việt cổ, mỗi hiện tượng tự nhiên là một vị thần cai quản như thần sông, thần núi, thần biển…. nhân vật trong thần thoại là thần khác hẳn những vị thần trong thần tích, thần phả.

VD: Sơn Tinh – Thủy Tinh, Thần trụ trời…

– Là những tác phẩm tự sự dân gian có quy mô lớn, sử dụng ngôn ngữ có vần nhịp, xây dựng những hình tượng nghệ thuật hoành tráng, hào hùng để kể về một hoặc nhiều biến cố lớn lao diễn ra trong đời sống cộng đồng của nhân dân thời cổ đại.

Ví dụ: sử thi “Đẻ đất đẻ nước” của người Mường dài 8530 câu thơ tả lại sự việc trần gian từ khi hình thành vũ trụ đến khi bản Mường được ổn định.

– Nhân vật sử thi mang cốt cách của cộng đồng (tượng trưng cho sức khỏe, niềm tin của cộng đồng). Ví dụ: Đăm Săn chiến đấu với mọi thế lực để đem bình yên cho muôn làng. Uylitxơ cùng đồng đội lênh đênh ngoài biển khơi gắn liền với thời đại người Hi Lạp cổ đại chinh phục biển cả…

– Dòng tự sự dân gian kể về sự kiện và nhân vật cụ thể theo xu hướng lí tưởng hóa. Qua đó thể hiện sự ngưỡng mộ và tôn vinh người có công với đất nước, dân tộc hoặc cộng đồng dân cư của một vùng.

– Xu hướng lí tưởng hóa: Nhân dân gửi vào đó những ước mơ khát vọng của mình. Khi có lũ lụt họ ước có một vị thần trị thủy. Khi có giặc họ mơ có một Thánh Gióng. Trong hòa bình, họ mơ có một hoàng tử Lang Liêu làm ra nhiều thứ bánh ngày tết. Đó là người anh hùng sáng tạo văn hóa.

Ví dụ: truyền thuyết Hùng Vương; An Dương Vương và Mị Châu, Trọng Thủy; Bánh chưng bánh dày….

– Dòng tự sự dân gian mà cốt truyện kể về những con người bình thường trong xã hội có phân chia đẳng cấp, thể hiện tinh thần nhân đạo và lạc quan của nhân dân lao động.

– Nội dung truyện cổ tích thường đề cập tới hai vấn đề cơ bản: kể về số phận bất hạnh của người nghèo khổ, phản ánh cuộc đấu tranh xã hội và ước mơ khát vọng đổi đời của nhân dân…(nhân đạo, lạc quan).

– Nhân vật thường là em út, con riêng, thân phận mồ côi như: Sọ dừa, Tấm Cám, Thạch Sạch…

Ví dụ: Thạch Sanh, Tấm Cám, Cây khế…

– Truyện cười thuộc dòng tự sự dân gian rất ngắn, có kết cấu chặt chẽ, kết thúc bất ngờ. Truyện xây dựng trên cơ sở mâu thuẫn trong cuộc sống làm bật lên tiếng cười nhằm mục đích giải trí hoặc phê phán xã hội.

– Các mâu thuẫn trong truyện cười

+ Cái bình thường với không bình thường.

+ Mâu thuẫn giữa lời nói với việc làm.

+ Mâu thuẫn trong nhận thức lí tưởng.

Ví dụ: Tam đại con gà, Nhưng nó phải bằng hai mày

– Truyện viết theo phương thức tự sự dân gian rất ngắn gọn, kết cấu rất chặt chẽ, nhân vật là người, bộ phận của con người, là vật (phần lớn là các con vật) biết nói, có tính cách như người. Từ đó rút ra những kinh nghiệm và triết lí sâu sắc.

– Nhân vật truyện ngụ ngôn rất rộng rãi có thể là vật, các con vật hoặc người. Truyện có thể xảy ra ở bất cứ đâu.

Ví dụ: Treo biển, Trí khôn…

– Là những câu nói ngắn gọn, hàm súc, có hình ảnh, vần, nhịp đúc kết những kinh nghiệm thực tiễn thường được dùng trong ngôn ngữ giao tiếp hàng ngày của nhân dân.

– Là những bài văn vần, hoặc câu nói có vần mô tả vật đó bằng những hình ảnh, hình tượng khác lạ để người nghe tìm lời giải thích nhằm mục đích giải trí, rèn luyện tư duy và cung cấp những tri thức thông thường về cuộc sống.

– Là những bài thơ trữ tình dân gian thường kết hợp với âm nhạc khi diễn xướng, được sáng tác nhằm thể hiện thế giới nội tâm con người.

11. Truyện thơ

– Là những tác phẩm dân gian bằng thơ, giàu chất trữ tình diễn tả tâm trạng và suy nghĩ của con người khi hạnh phúc lứa đôi và sự công bằng của xã hội bị cưỡng đoạt.

– Tác phẩm sân khấu dân gian kết hợp với yếu tố trữ tình và trào lộng, ca ngợi những tấm gương đạo đức phê phán đả kích mặt trái của xã hội.

– Ngoài chèo còn có những thể loại sân khấu khác cũng thuộc về dân gian như tuồng, cải lương, múa rối.

Ví dụ: Chèo Quan Âm Thị Kính, Suý Vân giả dại.

Câu 3 Câu 3 (trang 19 SGK Ngữ văn 10 tập 1) Tóm tắt nội dung các giá trị của văn học dân gian Lời giải chi tiết:

– Văn học dân gian là kho tàng tri thức vô cùng phong phú về đời sống các dân tộc: những tri thức về tự nhiên và xã hội, vừa mang những giá trị nhân văn của các dân tộc – là kho tri thức phong phú về đời sông của dân tộc.

– Văn học dân gian có tác dụng giáo dục tốt, là nhân tố quan trọng trong việc hình thành tâm hồn, nhân cách con người Việt Nam. Giáo dục tinh thần nhân đạo, tôn vinh những giá trị con người, yêu thương con người và đấu tranh không mệt mỏi để giải phóng con người khỏi áp bức bất công.

– Văn học dân gian có giá trị về mặt nghệ thuật, là nơi lưu giữ và phát triển nghệ thuật truyền thống vô giá của dân tộc.

+ VHDG là những bài học, kinh nghiệm quý giá được chắt lọc, mài giũa qua không gian và thời gian, trở thành những mẫu mực xứng đáng để học tập.

+ Giúp thế hệ sau hiểu biết thêm về đời sống tinh thần phong phú của cha ông.

chúng tôi

Soạn Bài Văn Bản Văn Học (Ngắn Gọn)

Những tiêu chí chủ yếu của văn bản văn học :

– Văn bản văn học đi sâu phản ánh và khám phá thế giới tình cảm, tư tưởng và thỏa mãn nhu cầu thẩm mĩ của con người.

– Văn bản văn học được xây dựng bằng ngôn từ nghệ thuật, có hình tượng, có tính thẩm mĩ cao.

– Văn bản văn học bao giờ cũng thuộc về một thể loại nhất định với những quy ước riêng, cách thức của thể loại đó

Câu 2:

“Hiểu tầng ngôn từ mới là bước thứ nhất cần thiết để đi vào chiều sâu của văn bản văn học” vì :

– Ngôn từ là đối tượng đầu tiên khi tiếp xúc với văn bản văn học.

– Chiều sâu của văn bản văn học tạo nên từ tầng hàm nghĩa, tầng hàm nghĩa được ẩn dưới bóng tầng hình tượng, mà hình tượng lại được hình thành từ sự khái quát của lớp nghĩa ngôn từ.

Câu 3:

Phân tích ý nghĩa hình tượng trong câu ca dao :

Đêm trăng thanh anh mới hỏi nàng Tre non đủ lá đan sàng nên chăng?

Câu ca dao không chỉ mang nghĩa tả thực. “Tre non đủ lá” chỉ người đã trưởng thành, đủ tuổi, đủ lớn ; “đan sàng” có ám chỉ chuyện kết duyên, cưới xin. Câu ca dao là lời ngỏ ý của chàng trai hỏi cô gái có thuận tình đợi chàng mối lái chưa.

Câu 4:

– Hàm nghĩa của văn bản văn học là khả năng gợi ra nhiều lớp ý nghĩa tiềm tàng, ẩn kín của văn bản văn học mà qua quá trình tiếp cận, người đọc dần dần nhận ra.

– Hàm nghĩa của văn bản văn học không phải lúc nào cũng dễ hiểu và không phải lúc nào cũng hiểu đúng và hiểu đủ.

Luyện tập Câu 1: Văn bản “Nơi dựa”

a. Hai đoạn có cấu trúc câu, hình tượng tương tự nhau là mở bài – kết bài : người đàn bà và đứa nhỏ – người chiến sĩ và bà cụ.

b. Hình tượng nhân vật được trình bày cốt làm nổi bật tính tương phản:

+ Người mẹ trẻ lấy điểm dựa tinh thần là đứa con mới chập chững biết đi.

+ Anh bộ đội : dựa vào cụ già bước run rẩy không vững.

Câu 2. Văn bản “Thời gian”

a.

* Văn bản là một bài thơ của Nam Cao. Bài thơ có câu từ độc đáo và cách ngắt nhịp linh hoạt, cách vắt dòng có chủ định. Văn bản có thể chia làm hai đoạn:

– Đoạn một: từ đầu đến “…trong lòng giếng cạn”

– Đoạn hai: tiếp theo đến hết.

* Đoạn một nói lên sức mạnh tàn phá của thời gian. Đoạn hai nói về những giá trị bền vững tồn tại mãi với thời gian.

– Thời gian cứ từ từ trôi “qua kẽ tay” và âm thầm “làm khô những chiếc lá”. “Chiếc lá” vừa có nghĩa thực, cụ thể vừa có nghĩa bóng, ẩn dụ. Nó vừa là chiếc lá trên cây, mới hôm này còn xanh tươi sự sống thế mà chí một thời gian lọt “qua kẽ tay”, là đã lá chết. Nó vừa là những chiếc lá cuộc đời trên cái cây cuộc sống mà khi thời gian trôi đi, sự sống cứ rụng dần như những chiếc lá. Những kỉ niệm trong đời thì “Rơi / như tiếng sỏi / trong lòng giếng cạn”. Thật nghiệt ngã. Đó là quy luật băng hoại của thời gian.

– Vấn đề ở đây là ai cũng nhận ra quy luật ấy nhưng không phải ai cũng có thể làm cho mình bất tử cùng thời gian. Vậy mà cũng có những giá trị mang sức sống mãnh liệt chọi lại với thời gian, bất tử cùng thời gian. Đó là sức mạnh vượt thời gian của thi ca và âm nhạc (hiểu rộng ra ỉà nghệ thuật). Dĩ nhiên là “những câu thơ “những bài hát”, những tác phẩm nghệ thuật đích thực. Hai chữ “xanh” được láy lại như “chọi” lại với chữ “khô” trong câu thứ nhất.

– Câu kết thật bất ngờ: “Và đôi mắt em/ như hai giếng nước”. Dĩ nhiên đây là “hai giếng nước” chứa đầy những kỉ niệm tình yêu, những kỉ niệm tình yêu sống mãi, đối lập với những kỉ niệm “rơi” vào “lòng giếng cạn” quên lãng của thời gian.

b. Qua bài thơ “Thời gian”, Văn Cao muốn gửi đến chúng ta một thông điệp: thời gian có thể xoá nhoà tất cả, thậm chí tàn phá cả cuộc đời của mỗi chúng ta. Duy chỉ có văn học nghệ thuật và kỉ niệm về tình yêu là có sức sống lâu bền.

Câu 3. Văn bản “Mình và ta”

a. Quan niệm của Chế Lan Viên về mối quan hệ người đọc – nhà văn ở câu 1, 2 :

Mình là ta đấy thôi, ta vẫn gửi cho mình.

Sâu thẳm mình ư? Lại là ta đấy!

Nhà văn (ta) và bạn đọc (mình) luôn có sự đồng cảm trong quá trình sáng tạo cũng như quá trình tiếp nhận. Sự đồng cảm phải ở nơi tận cùng “sâu thẳm” thì tác phẩm mới thực sự là tiếng nói chung, là nơi gặp gỡ của tâm hồn, tình cảm mình – ta.

Ta gửi tro, mình nhen thành lửa cháy, Gửi viên đá con, mình dựng lại nên thành.

b. Quan niệm của Chế Lan Viên về văn bản văn học và tác phẩm văn học trong tâm trí của người đọc trong câu 3, 4 :

chúng tôi

Để hiểu được lời gửi gắm, thông điệp của nhà văn, người đọc phải tái tạo, tưởng tượng, suy ngẫm, phân tích sao cho từ bếp “tro” tưởng như tàn lại có thể “nhen thành lửa cháy”, từ “viên đá con” có thể dựng nên thành, nên luỹ.

Bạn đang đọc nội dung bài viết Hướng Dẫn Soạn Văn Khái Quát Văn Học Việt Nam Ngắn Gọn trên website Athena4me.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!