Đề Xuất 3/2023 # Hướng Dẫn Phân Tích Chuyện Chức Phán Sự Đền Tản Viên # Top 9 Like | Athena4me.com

Đề Xuất 3/2023 # Hướng Dẫn Phân Tích Chuyện Chức Phán Sự Đền Tản Viên # Top 9 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Hướng Dẫn Phân Tích Chuyện Chức Phán Sự Đền Tản Viên mới nhất trên website Athena4me.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Để cho các em học sinh hiểu sâu hơn cũng như có nguồn tư liệu tham khảo cho kiểm tra và thi cử, Kiến Guru gửi đến các em nội dung nội dung phân tích Chuyện chức phán sự đền Tản Viên.

Khi viết một bài về nội dung phân tích Chuyện chức phán sự đền Tản Viên, các em cần nói lên được các nội dung sau đây

Cách viết MỞ BÀI khi phân tích Chuyện chức phán sự đền Tản Viên.

1. Giới thiệu về tác giả Nguyễn Dữ:

Nguyễn Dữ là một nhà văn nổi tiếng của thế kỉ 16 với tác phẩm đề đời là Truyền kì mạn lục

2. Giới thiệu về tác phẩm Truyền kì mạn lục:

Là tác phẩm bằng chữ Hán, gồm 20 truyện, ra đời vào đầu thế kỉ 16, viết theo thể loại truyền ki. Truyền kì là một thể loại truyện hư cấu, nhiều yếu tố thần thánh. Đây không chỉ là một câu chuyện đơn thuần mà ý nghĩa sâu xa hơn là vạch trần và phê phán xã hội phong kiến đương thời

3. Giới thiệu nội dung đoạn trích “ Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” :

là trong câu chuyện trong tác phẩm Truyền kì mạn lục kể về câu chuyện xử án nhân vật Ngô Tử Văn trong cuộc chiến đấu tranh chống cái ác

THÂN BÀI: nội dung không thể thiếu phân tích Chuyện chức phán sự đền Tản Viên.

I. Khái quát về tác phẩm

1. Hoàn cảnh sáng tác:

Chuyện chức phán sự đền Tản Viên được viết vào đầu thể kỉ 16, thể hiện tinh thần khẳng khái, cương trực khi đấu tranh chống lại cái ác, đồng thời lên án tội ác của bọn giặc xâm lược phương Bắc – dù đã chết nhưng không từ bỏ ý định xâm lược, vẫn tiếp tục gây hại cho người dân nước Nam.

2. Tóm tắt hoặc nêu nội dung chính của tác phẩm:

Câu chuyện kể về Nhân vật Ngô Tử Văn là một người khẳng khái cương trực. Trước sự nhiễu loạn và gây ra biết bao tai họa cho người dân của tên hung thần là hồn ma của tên giặc xâm lược phương Bắc họ Thôi, Vương Tử Văn đã đốt đền. Tên giặc họ Thôi đã kiện đến địa phủ. Thổ thần đã báo mộng cho Vương Tử Văn biết sự thật ngôi đền đó là của thổ thần nhưng bị hồn ma họ Thôi chiếm và bày cách để Vương Tử Văn lấy lại công đạo. 

Sau khi gặp Diêm Vương, Ngô Tử Văn đã kể lại tội ác của tên giặc họ Thôi và giúp thổ thần lấy lại ngôi đền. Khi công lý được lập lại kẻ ác bị tiêu diệt, Ngô Tử Văn được tiến cử làm phán sự đền Tản Viên.

II. Phân tích truyện – các luận điểm chính và luận điểm phụ 

Ý nghĩa hình tượng nhân vật Ngô Tử Văn qua cuộc đấu tranh với thế lực ma quỷ

1. Giới thiệu nhân vật:

Sau khi gặp Diêm Vương, Ngô Tử Văn đã kể lại tội ác của tên giặc họ Thôi và giúp thổ thần lấy lại ngôi đền. Khi công lý được lập lại kẻ ác bị tiêu diệt, Ngô Tử Văn được tiến cử làm phán sự đền Tản Viên.

Nhân vật Ngô Tử Văn được tác giả giới thiệu theo phương pháp truyền thống của văn học trung đại:– Tên là Soạn.– Quê quán: người huyện Yên Dũng, đất Lạng Giang.– Tính tình khẳng khái, nóng nảy “thấy sự gian tà thì không chịu được. Vùng Bắc vẫn khen là người cương trực”.

2. Diễn biến câu chuyện 

∗Hành động đốt đền:

– Trong làng của Tử Văn đang sinh sống có ngôi đền rất thiêng, nhân dân thường thờ cúng thì nay đã bị hồn ma của tên tướng bại trận Bắc triều chiếm giữ. Hắn đánh bạt thổ công, đút lót các thần miếu bên cạnh, tác oai, tác quái cả một vùng. 

– Chứng kiến những hành động hung tợn, bạo ngược này,  “Tử Văn tức giận, một hôm tắm rửa sạch sẽ, khấn trời rồi châm lửa đốt”. Có thể nói, đây là một hành động đã có sự cân nhắc, có chủ đích bộc lộ rõ tính cương trực, can đảm, mạnh mẽ và quyết liệt của nhân vật Tử Văn.

Nguồn: Internet

∗Khi đối diện với tên Bách hộ họ Thôi:

– Sau khi đốt đền, Tử Văn cảm thấy sốt và trong cơn mê, Tử Văn đã có cuộc đối diện với tên Bách hộ họ Thôi.

– Bách hộ họ Thôi vốn là viên tướng bại trận của giặc Minh, lúc sống đã đi xâm lược nước khác, tội ác đầy mình, lúc chết vẫn giữ nguyên bản chất của kẻ lừa đảo, thể hiện qua các chi tiết:

+ Hắn tự xưng với Tử Văn là cư sĩ.

+ Dùng nguyên lí đạo Nho để buộc tội Tử Văn: “Nhà ngươi đã theo nghiệp Nho đọc sách thánh hiền, há không biết cái đức của quỷ thần ra sao, cớ gì lại khinh nhờn hủy tượng, đốt đền?”.+ Lấy oai linh của quỷ thần để hăm dọa Tử Văn: “Biết điều thì dựng trả ngôi đền như cũ. Nếu không thì vô cớ hủy đền Lư Sơn, Cố Thiệu sẽ khó lòng tránh khỏi tai vạ”.

– Đứng trước những lời thách thức, hăm doạ của tên “cư sĩ”, “Tử Văn mặc kệ vẫn cứ ngồi ngất ngưởng tự nhiên”. Chúng ta cần thấy rằng, đây không phải là hành động bất cần của kẻ liều lĩnh mà là hành động tự tin của người nắm được chính nghĩa. 

Đối diện với Thổ công:

Sau khi gặp nhân vật bách hộ họ Thôi, Tử Văn đã có cuộc gặp gỡ với nhân vật Thổ công. 

Nhân vật này được miêu tả là“một ông già áo vải mũ đen, phong độ nhàn nhã, thủng thỉnh”, tính tình khiêm tốn đến để bày tỏ sự vui mừng trước hành động đốt đền của Tử Văn.

Khi nhìn thấy Thổ công, đầu tiên Tử Văn cảm thấy kinh ngạc: “Sao mà nhiều thần quá vậy”. 

Và sau khi nghe lời Thổ Công kể lại đầu đuôi sự tình, Tử Văn – người trí thức cương trực, mạnh mẽ cũng đã có phút chốc cảm thấy e ngại: “Hắn có thực là tay hung hãn, có thể gieo vạ cho tôi không”.

Cuộc gặp mặt tại âm phủ

Và đúng như những gì mà Thổ công đã cảnh báo, tối đó Tử Văn đã bị hai tên quỷ sứ đến bắt đi. Và thế là cuộc đối mặt của Tử Văn với hồn ma tên Bách hộ họ Thôi cũng như với Diêm Vương và Thổ công đã diễn ra vô cùng gay go, quyết liệt.

Nguồn: Internet

Trong cuộc đối mặt ở Âm phủ đó, Tử Văn đã phải trải qua nhiều yếu tố đe dọa:

Yếu tố đe doạ đầu tiên đến từ Diêm phủ:– Trong không khí rùng rợn của cõi âm ti, Tử Văn bị quỷ bắt đi, bị đe dọa, thậm chí là bị vu cáo, sỉ nhục: “tên này bướng bỉnh ngoan cố”– không chỉ thế, vào lúc đầu, Tử Văn còn bị chính Diêm Vương la mắng và uy hiếp: “Mày là một kẻ hàn sĩ sao dám hỗn láo, tội ác tự mình làm ra, còn trốn đi đằng nào?”.

Và dĩ nhiên chúng ta cũng không quên điểm qua mối đe doạ lớn nhất của Tử Văn, đó là hồn ma tên Bách hộ họ Thôi:

+ Ở Diêm phủ, hắn đến kêu cầu ở trước sân. “Tử Văn vào tới nơi đã thấy người đội mũ trụ đương kêu cầu ở trước sân”.+ Thấy Tử Văn cứng cỏi, hắn quyết liệt, ngoan cố vu vạ: “Ấy là trước Vương Phủ hắn còn ghê gớm như thế, mồm năm miệng mười, đơm đặt bịa tạc. Huống hồ ở một nơi đền miếu quạnh hiu, hắn sợ gì mà không dám cho một mồi lửa”.+ Và khi vu vạ không được thì hắn đổi giọng nhân nghĩa: “Gã kia một kẻ học trò, thật là ngu bướng, quả đáng tội lắm. Nhưng đã trách mắng như vậy, cũng đủ răn đe rồi. Xin Đại vương khoan dung tha cho hắn để tỏ cái đức rộng rãi. Chẳng cần đòi hỏi dây dưa, nếu thẳng tay trị tội nó, sợ hại đến cái đức hiếu sinh”.

🡪 Có thể thấy, Bách hộ họ Thôi hay nói khác hơn là hồn ma tên tướng giặc là một kẻ vô cùng khôn ngoan, xảo quyệt. Hắn lừa trên dối dưới, liên tục thay đổi thái độ nhằm vu vạ cho Tử Văn cũng như giấu nhẹm tội trạng của bản thân. Thế nhưng, lưới trời lồng lộng, tuy thưa mà khó thoát. Tính chất lừa đảo, càn bậy của hắn cuối cùng cũng bị Diêm Vương trừng trị đích đáng. 

Và đứng trước một kẻ côn đồ, tráo trở như Bách hộ họ Thôi, Tử Văn đã có thái độ, hành động, lời nói như thế nào? Quả đúng như những gì mà tác giả Nguyễn Dữ đã giới thiệu đầu tác phẩm, Tử Văn đã giữ vững được sự khẳng khái, cương trực của bản thân, thể hiện qua những chi tiết như sau:

– Tử Văn tâu trình đầu đuôi với Diêm Vương như lời thổ công đã dặn, lời rất cứng cỏi không chịu nhún nhường chút nào. 

– Khi thấy Diêm Vương sinh nghi, Tử Văn đã cương quyết đưa ra giải pháp: “Nếu nhà vua không tin vào lời tôi, xin tư giấy đến đền Tản Viên để hỏi, không đúng như thế tôi xin chịu thêm cái tội nói càn”. Mạnh mẽ hơn, anh khẳng định: “Ngô Soạn này là một kẻ sĩ ngay thẳng ở trần gian”.

Hướng dẫn soạn văn Vợ nhặt – phân tích diễn biến tâm trạng từng nhân vật

Soạn Bình Ngô Đại Cáo Phần 2 Dễ Hiểu Nhất

Soạn Bài Hầu Trời – Tản Đà Đầy Đủ Và Dễ Nhớ Nhất

Ngụ ý phê phán của tác phẩm và ý nghĩa lời bình của tác giả

– Đối tượng phê phán trước hết là hồn ma tên tướng giặc Bắc triều. Khi sống, hắn là một tên giặc xâm lược ngang ngược, cuồng đồ, gieo rắc bao lầm than, đau đớn cho người dân nước ta. Chết đi, hắn trở thành một hồn ma mưu mô, xảo quyệt, đã cướp đền của Thổ công còn sẵn sàng tố giác Tử Văn với Diêm Vương. Có thể nói, đó là một hành động “vừa ăn cướp vừa la làng”. Khi sống cũng như khi chết, tên tướng giặc Bắc triều vẫn không thể giấu giếm nổi chân dung của một con người tham lam, hung ác, xứng đáng phải nhận lãnh hậu quả nặng nề nhất.

– Cũng qua câu chuyện này, truyện còn phơi bày hiện thực đầy rẫy những bất công từ cõi trần đến cõi âm: kẻ ác thì được sung sướng, tiêu dao, người lương thiện thì phải ngậm ngùi oan ức; thánh thần ở cõi âm cũng tham của đót lót để rồi bao che cho kẻ ác và cái ác lộng hành; Diêm Vương và các phán quan − những người nắm giữa cán cân công lí cũng bị lấp tai, che mắt. Những hiện tượng tiêu cực ở cõi âm chính là hình ảnh phản chiếu của xã hội đương thời: bất công tràn lan, bọn tham quan ô lại, thế lực cường quyền, phong kiến đương thời tiếp tay cho cái ác, cái xấu gây nên bao lầm than cho người dân lương thiện.

– Và đặc biệt ở phần kết của tác phẩm, tác giả Nguyễn Dữ đã viết một đoạn lời bình ngoại truyện. Đoạn lời bình này của tác giả đã gửi gắm nhiều thông điệp mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc: 

Người tốt sẽ được tôn vinh, kẻ xấu, ác sẽ bị nguyền rủa. Tử Văn chết nhưng tiếng tốt lưu đến ngàn đời sau. Người như Tử Văn đáng được kính trọng, ca ngợi.Bên cạnh đó, lời bình ở cuối truyện còn nhằm đề cao bản lĩnh của kẻ sĩ, khuyến khích, động viên kẻ sĩ phải dũng cảm, tự tin đứng lên chiến đấu với cái xấu, cái ác, đừng bao giờ “thấy sóng cả mà ngã tay chèo”. Đây là sự khẳng định ý nghĩa tích cực trong tư tưởng của nhà nho tài đức Nguyễn Dữ.

Đánh giá nghệ thuật

Truyện sử dụng dày đặc các yếu tố truyền kì. Đó là thế giới siêu nhiên, cõi Âm ti, hồn ma tên tướng giặc, các vị thần thánh, chi tiết chết đi sống lại,…

Bên cạnh đó, tác giả Nguyễn Dữ đã xây dựng được cốt truyện giàu kịch tính, kết cấu chặt chẽ.

Ông dẫn dắt truyện khéo léo với nhiều chi tiết công phu, giàu kịch tính, mang đậm tính biểu tượng. Cách kể chuyện và miêu tả đầy sinh động, hấp dẫn.

Ngoài ra, tác phẩm còn lôi cuốn người đọc ở cách tác giả thể hiện tư tưởng, quan điểm: không nêu trực tiếp mà ẩn sau sự kiện và thái độ, hành động, lời nói của nhân vật.

KẾT BÀI

– Khái quát lại nội dung của câu chuyện

– Cảm nhận riêng về câu chuyện này

Đây là những luận điểm quan trọng mà các em cần phải ghi nhớ khi viết một bài văn “ Phân tích Chuyện chức phán sự đền Tản Viên”

Kiến Guru mong rằng dựa vào những nội dung mà Kiến đã cung cấp, các em học sinh sẽ viết được một bài phân tích tác phẩm của riêng mình.

Soạn Bài Chuyện Chức Phán Sự Đền Tản Viên

Soạn bài Chuyện chức phán sự đền Tản Viên (Tản Viên từ phán sự lục – trích Truyền kì mạn lục)

Hướng dẫn soạn bài

Tóm tắt

Ngô Tử Văn vốn là một kẻ sĩ khảng khái, chính trực. Trong làng có một ngôi đền thiêng. Từ khi có một tên tướng giặc nhà Minh tử trận ở gần đền, hồn của hắn tác quái. Tức giận, Tử Văn châm lửa đốt để trừ hại cho dân. Sau khi đốt đền, Tử Văn lên cơn sốt mê man, chàng thấy tên hung thần đòi trả đền và đe dọa bắt chàng xuống âm phủ. Thổ thần bày tỏ thái độ cảm phục trước hành động dũng cảm của Tử Văn, mách chàng về tung tích, tội ác tên hung thần và cách đối phó. Đến đêm, khi bệnh nặng thêm, Tử Văn thấy hai tên quỷ đến bắt chàng xuống âm phủ. Trước Diêm Vương, Tử Văn đã tố cáo tội ác của tên hung thần để hắn bị trừng trị. Thổ thần được phục chức, lính đưa Tử Văn về trần gian. Một tháng sau, Thổ thần tiến cử Tử Văn giữ chức phán sự đền Tản Viên để tạ ơn.

Bố cục:

– Phần 1 (từ đầu … không cần gì cả) : Tử Văn đốt đền.

– Phần 2 (tiếp… khó lòng thoát nạn) : Tử Văn với viên Bách hộ họ Thôi và Thổ công.

– Phần 3 (tiếp… sai lính đưa Tử Văn về) : Tử Văn thắng kiện.

– Phần 4 (còn lại) : Tử Văn trở thành phán sự đền Tản Viên.

Câu 1 (trang 60 sgk Ngữ Văn 10 Tập 2): Ý kiến đúng là B + D.

– Ý A không chính xác vì hành động của Tử Văn rõ ràng là Thấy sự gian tà thì không chịu được chứ không phải việc làm động chạm thần linh.

– Ý C không đúng vì việc Tử Văn tắm gội sạch sẽ, khấn trời rồi mới châm lửa chứng tỏ chàng đã suy xét kĩ lưỡng chứ không phải tuổi trẻ hiếu thắng.

Câu 2 (trang 60 sgk Ngữ Văn 10 Tập 2): Ý kiến đúng là tất cả các ý A, B, C, D.

A. Có một thế giới khác : thế giới cai trị của Diêm Vương phán xét công bằng.

B. Khát vọng công lí : Diêm Vương đem lại công lí cho người bị oan.

C. Đẩy xung đột kịch : nhân vật chính có dịp bộc lộ bản lĩnh, tính cách, khắc sâu tư tưởng truyện.

D. Khuyên răn con người tránh làm điều ác để không bị trừng phạt, dũng cảm làm điều đúng đắn.

Câu 3 (trang 61 sgk Ngữ Văn 10 Tập 2):

Ngô Tử Văn được nhậm chức phán sự ở đền Tản Viên chứng tỏ sự đền đáp xứng đáng với con người dũng cảm đấu tranh chống cái ác. Tử Văn biểu tượng cho công lí là con người cương trực, dũng cảm. Đây cũng là khát vọng công lí của nhân dân. Cũng là sự khích lệ mọi người chống lại cái ác.

Câu 4 (trang 61 sgk Ngữ Văn 10 Tập 2): Nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn và đặc sắc :

– Yếu tố kì ảo dày đặc, xen chuyện người, chuyện thần, ma, trần gian, địa ngục…

– Cốt truyện giàu kịch tính, kết cấu chặt chẽ, lo-gic.

– Cách dẫn truyện khéo léo, biến hóa, có cao trào, có thắt mở nút.

Câu 5 (trang 61 sgk Ngữ Văn 10 Tập 2):

Chủ đề truyện : Đề cao tinh thần khảng khái, cương trực, dám đấu tranh chống lại cái ác của Ngô Tử Văn, một người trí thức. Đồng thời thể hiện niềm tin công lí, chính nghĩa nhất định sẽ thắng gian tà.

Luyện tập

Câu 1 (trang 61 sgk Ngữ Văn 10 Tập 2): Ý kiến về đoạn kết truyện :

– Đồng tình vì đó là cái kết đẹp thể hiện được khát vọng công lí của nhân dân : chính nghĩa nhất định chiến thắng gian tà.

– Nếu không đồng tình thì đưa ra một cách kết khác.

Câu 2 (trang 61 sgk Ngữ Văn 10 Tập 2): Phần tóm tắt xem ở phần đầu bài soạn.

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng….miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Nhóm học tập facebook miễn phí cho teen 2k5: chúng tôi

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Hướng Dẫn Phân Tích Tóm Tắt Văn Bản Tự Sự

(Dựa theo nhân vật chính)

I.KIẾN THỨC CƠ BẢN

Tóm tắt văn bản là một việc làm phố biến. Để có được một văn bản tóm tắt tốt, trước hết, cần xác định mục đích tóm tắt rõ ràng (để ghi nhớ, để giới thiệu với người khác hoặc để làm dẫn chứng trong bài văn nghị luận văn học.,.), và nắm vững cách thức tóm tắt.

1.Mục đích, yêu cầu tóm tăt văn bản tự sự

a.Mục đích: Trong cuộc sống, việc tóm tắt văn bản tự sự phục vụ nhiều mục đích khác nhau. Thường chúng ta tóm tắt để dễ dàng ghi nhớ, để hiểu và đánh giá nội dung văn bản. Cũng có khi tóm tắt để ghi chép làm tài liệu, làm dẫn chứng trong bài văn hoặc để kể lại cho người khác nghe, để minh hoạ cho một ý kiến nào đó của mình.

b.Yêu cầu: Bản tóm tắt phải ngắn gọn nhưng vẫn đảm bảo được nội dung cơ bản hoặc những đặc điểm, những mốc quan trọng trong cuộc đời của nhân vật chính. Bản tóm tắt cũng phải được trình bày theo một bố cục rõ ràng, chính xác theo những yêu cầu chung của văn tự sự.

2.Cách tóm tắt tác phẩm tự sự theo nhân vật chính

-Đọc kĩ văn bản gốc, chọn các sự việc cơ bản xảy ra vói nhân vật chính và diễn biến của các sự việc đó.

-Tóm tắt rõ các hành động, lời nói, tâm trạng của nhân vật theo diễn biến của cốt truyện (một vài chỗ có thể kết hợp dẫn nguyên văn một số từ ngữ, câu văn trong văn bản gốc).

Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thuỷ

a. Trong truyện này, có thể xác định An Dương Vương và Mị Châu là hai nhân vật chính (tuy xét về vai trò quan trọng thì An Dương Vương nổi bật hơn). Hai nhân vật này xuất hiện ở hầu hết các sự việc chính của câu chuyện. Hơn thế nữa, họ còn là những “mắt xích” quan trọng quyết định chiều hướng phát triển của cốt truyện.

b. Tóm tắt Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy theo nhân vật An Dương Vương:

Vua An Dương Vương nước Âu Lạc, họ Thục tên Phán. Vua cho xây thành ở đất nước của mình nhưng hễ đắp tới đâu lại lở tới đấy. Một hôm có cụ già từ phương đông tới nói: Sẽ có sứ Thanh Giang đến giúp vua xây thành. Hôm sau, vua mừng rỡ cho người ra đón mới biết sứ Thanh Giang là một con Rùa Vàng. Thành xây nửa tháng thì xong, vững chãi và kiên cố. Trước khi về biên, Rùa Vàng còn tháo vuốt đưa cho nhà vua làm lẫy nỏ thần chống giặc. Có thành cao, hào sâu lại có nỏ thần, vua Thục Phán nhiều lần đã đánh cho quân của Triệu Đà đại bại. Đà không dám đối chiến, bèn xin hoà và cho con trai là Trọng Thuỷ sang cầu hôn. Vua đồng ý gả con gái Mị Châu cho, lại cho Trọng Thủy ở lại Loa Thành làm rể. Có được cơ hội tốt, Trọng Thuỷ bèn dụ dỗ Mị Châu cho xem nỏ thần rồi đánh tráo ngay lẫy nỏ. Quân Triệu Đà phá được nỏ thần bèn ồ ạt tấn công. An Dương Vương trong khi ấy cậy có nỏ Liên Châu vẫn điềm nhiên ngồi đánh cờ, không bổ phòng gì cả. Loa Thành bị vỡ, vua Thục Phán bèn mang theo con gái chạy xuống phía Nam. Thế nhưng cùng lúc ấy Trọng Thuỷ lại theo dấu lông ngỗng mà Mị Châu rắc ở đường đuổi theo. Cùng đường, lại nghe sứ Thanh Giang nhắc nhở “Giặc ở ngay sau nhà vua đó”, An Dương Vương bèn tuốt kiếm chém Mị Châu rồi cầm sừng tê bảy tấc rẽ nước đi xuống biển.

c.Tóm tắt truyện theo nhân vật Mị Châu:

Mị Châu là con gái của vua nước Âu Lạc, An Dương Vương – Thục Phán. Nhân việc Triệu Đà thua trận xin cầu hoà và muốn được cho con trai sang ở rể, nàng được vua cha thuận ý gả cho Trọng Thuỷ. Mị Châu rất mực yêu chồng lại ngây thơ, khờ dại nên đã vô ý đem bí quyết nỏ thần ra nói với người chồng gián điệp. Có được nỏ thần, Trọng Thuỷ muốn xin về nước thăm cha, Mị Châu lại nói: Sau này, nếu có gặp cảnh biệt li thì cứ theo dấu chiếc áo lông ngỗng của thiếp mà tìm. Trọng Thủy về nhà, rồi cùng cha đem đội quân sang đánh. Loa Thành đại bại, Mị Châu theo cha chạy xuống phương Nam nhưng vừa đi nàng lại vừa bút lông ngỗng ở áo rắc làm dấu cho Trọng Thuỷ. Chạy ra bờ biển vua cha nổi giận tuốt gươm ra chém. Trước khi chết, Mị Châu còn khấn: Nếu có lòng phân nghịch thì khi chết đi nguyện biến thành cát bụi, bằng không thì xin được biển thành châu ngọc để rửa sạch mối nhục thù. Mị Châu chết, máu nàng chảy xuống biển, trai sò ăn phải đều mang trong mình hạt châu. Xác nàng được Trọng Thuỷ đem về mai táng ở Loa Thành, Trọng Thuỷ thương nhớ Mị Châu, sau đó cũng lao đầu xuống giếng mà chết. Người đời sau mò được ngọc ở biển Đông đem về giếng ấy mà rửa thì ngọc càng thêm sáng.

d. Có thể rút ra cách thức tóm tắt tác phẩm tự sự theo nhân vật chính như sau: Để tóm tắt tác phẩm tự sự theo nhân vật chính cần:

-Xác định mục đích tóm tắt (tóm tắt phục vụ mục đích gì? Hơn nữa tác phẩm có thể có nhiều nhân vật chính nên có thể có rất nhiều cách tóm tắt khác nhau).

-Đọc kĩ văn bản để xác định nhân vật chính (những nhân vật xuất hiện nhiều và có vai trò quyết định hướng tới sự phát triển hoặc đổi thay chiều hướng truyện). Đặt nhân vật này trong mối quan hệ với các nhân vật khác và diễn biến các sự việc trong Cốt truyện để dễ dàng tóm tắt hay lược bỏ.

-Viết văn bản tóm tắt bằng lời văn của mình để giới thiệu nhân vật, nêu rõ các hành động, lời nói, tâm trạng của nhân vật theo diễn biến của cốt truyện (để khắc hoạ nhân vật, có thể kết hợp trích dẫn nguyên văn một số từ ngữ, câu văn trong tác phẩm).

-Kiểm tra lại và sửa chữa văn bản tóm tắt cho phù hợp với mục đích và yêu cầu của việc tóm tắt.

II.LUYỆN TẬP 1.a.Mục đích tóm tắt

-Văn bản 1 nhằm tóm tắt toàn bộ chi tiết chính, sự việc chính của câu chuyện để giúp người độc nhớ rõ hoặc để làm tài liệu lúc cần thiết.

b. Cách thức tóm tắt

-Văn bản 1 tóm tắt toàn bộ diễn biến câu chuyện.

Qua hai cách làm này, có thể rút ra kinh nghiệm: Dù định hướng tóm tắt theo cốt truyện hay theo nhân vật thì điều quan trọng vẫn là phải biết cách lược đi những sự việc, những chi tiết phụ; chọn lấy những sự việc, những chi tiết chính. Hơn nữa, trong khi viết, kĩ thuật “nén câu dồn ý” sẽ làm cho bài tóm tắt thêm cô đọng hơn.

2.Tóm tắt Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thuỷ theo nhân vật Trọng Thuỷ:

Triệu Đà nhiều lần cất quân đánh sang Âu Lạc nhưng đều thất bại bèn sai con trai sang hỏi Mị Châu để cầu hoà. Sau khi, An Dương Vương đồng ý gả Mị Châu, Trọng Thủy xin ở lại Loa Thành để chờ có cơ hội dò xét “bí quyết” đánh giặc của An Dương Vương. Một hôm trong khi nói chuyện, Trọng Thuỷ dỗ Mị Châu cho xem trộm nỏ thần. Xem xong, Thuỷ ngầm làm một cái lẫy nỏ khác thay vuốt vàng rồi xin phép Thục Phán được về phương Bắc thăm cha. Trước khi ra đi, Trọng Thuỷ còn cùng Mị Châu hứa hẹn: Nếu sau này lỡ chẳng may li tán thì cứ theo dấu lông ngỗng rút ra từ chiếc áo của Mị Châu mà tìm. Trọng Thuỷ về phương Bắc chế nỏ rồi cùng cha kéo quân xuống phương Nam. Thế quân đang mạnh lại gặp lúc An Dương Vương có ý chủ quan nên chẳng mấy chốc quân của Trọng Thuỷ đã chiếm được Loa Thành. Không thấy vợ ở trong thành, Trọng Thuỷ tức tốc phi ngựa theo dấu lông ngỗng mà đuổi theo. Thế nhưng đến sát bờ biển, Trọng Thuỷ thấy Mị Châu đã chết tự bao giờ. Trọng Thuỷ ôm xác Mị Châu đem về Loa Thành an táng. Một hôm trong khi đi tắm, Trọng Thuỷ nhìn thấy bóng dáng Mị Châu dưới nước bèn cứ thế lao đầu xuống giếng mà chết. Người đời sau đồn rằng đem nước ở giếng này mà rửa ngọc châu thì thấy ngọc cứ ngày một sáng thêm lên.

3.Tóm tắt truyện Tấm Cám theo nhân vật Tấm (hoặc Cám).

Tóm tắt truyện theo nhân vật Tấm:

Tấm mồ côi mẹ từ nhỏ. Cô phải sống cùng với dì ghẻ và cô em gian ác. Trong mọi việc, Tấm luôn là người phải chịu thiệt thòi. Đi bắt tôm bắt tép, Tấm bị Cám lừa trút hết giỏ tép đầy. Tấm nuôi được con cá bống, mẹ con Cám lại lừa giết thịt ăn. Ngày nhà vua mở hội, mụ dì ghẻ lại lấy gạo và thóc trộn lẫn với nhau bắt Tấm nhặt xong mới được đi xem. Trong tất cả những lần như thế Tấm đều được Bụt hiện lên an ủi và giúp đỡ. Nhờ có Bụt, ngày hội Tấm có quần áo đẹp, khăn đẹp và hài đẹp. Đi xem hội, Tấm sơ ý đánh rơi mất chiếc hài nhưng cũng may nhờ chiếc hài ấy, Tấm trở thành hoàng hậu. Ghen ghét, mẹ con Cám lập mưu giết Tấm rồi đưa Cám vào cung để thế chân. Tấm chết, biến hoá nhiều lần thành: chim vàng anh, cây xoan đào, khung cửi. Mỗi lần như thế là một lần Tấm bị mẹ con Cám lập mưu hãm hại. Cuối cùng, Tấm biến thành quả thị, âm thầm giúp việc nấu cơm, quét dọn cho bà hàng nước. Nhưng rồi bà cụ cũng phát hiện ra. Bà xé tan vỏ thị và thế là từ đấy Tấm sống cùng bà. Một hôm nọ, vua đến quán này uống nước, ăn miếng trầu cánh phượng, vua thấy quen và vua nhận ra người vợ yêu quý của mình. Tấm thẳng tay trừng trị mẹ con nhà Cám, trở lại cuộc sống hạnh phúc bên vua.

Mở rộng: Tóm tắt truyện theo nhân vật Cám:

Cám xấu tính nhưng lại sống bên người chị cùng cha khác mẹ hiền lành, xinh đẹp nên lúc nào cũng tỏ ra ganh ghét. Được mẹ đứng sau hậu thuẫn, Cám luôn tìm cách để đày đoạ chị. Cùng đi hớt tép nhưng Cám lười nhác không bắt được con nào. Cám lừa chị hụp xuống ao để trút giỏ tép mang về. Thấy Tấm nuôi được con cá bống, Cám lại lừa bắt và giết thịt. Ngày hội, Cám sắm sửa quần áo đẹp đi chơi. Thấy vua mời các thiếu nữ thử hài kén vợ, Cám cũng len vào nhưng thử không vừa.

Ghen tức vì Tấm được làm hoàng hậu, nhân ngày giỗ cha, Cám và mẹ lừa Tấm trèo cau rồi giết Tấm. Cám vào cung thay chị. Một hôm đang giặt áo, Cám lại nghe tiếng chim vàng anh hót lời của Tấm. Cám tức giận bắt chim làm thịt rồi nói dối vua. Tưởng đã an tâm nhưng một thời gian sau ở vườn ngự lại mọc lên hai cây xoan đào rất đẹp. Nhà vua lấy làm yêu thích lắm. Biết chuyện Cám lại sai cho lính chặt cây đóng thành khung cửi. Thế nhưng cứ mỗi lần ngồi vào khung cửi, cám lại nghe thấy tiếng trách móc mình. Không chịu được, Cám đốt khung cửi rồi đổ tro ra bên đường. Lạ thay một hôm không biết từ đâu Tấm trở về. Cám thấy chị xinh đẹp hơn xưa thì tỏ ra ham muốn. Cuối cùng, Cám chết một cách thích đáng vì sự tham lam và ngu ngốc của mình.

XEM THÊM HƯỚNG DẪN PHÂN TÍCH TÁC PHẨM CẢNH NGÀY HÈ – NGỮ VĂN 10 TẠI ĐÂY

Hướng Dẫn Phân Tích Phong Cách Ngôn Ngữ

I- KIẾN THỨC CƠ BẢN CẦN NẮM VỮNG

1.Khái niệm ngôn ngữ nghệ thuật

Ngôn ngữ nghệ thuật là ngôn ngữ chủ yếu dùng trong các tác phẩm văn chương, không chỉ có chức năng thông tin mà còn thoả mãn nhu cầu thẩm mĩ của con người. Nó là ngôn ngữ được tổ chức, sắp xếp, lựa chọn, tinh luyện từ ngôn ngữ thông thường và đạt được giá trị nghệ thuật – thẩm mĩ.

Ngôn ngữ trong các văn bản nghệ thuật được phân chia thành ba loại:

+ Ngôn ngữ tự sự trong truyện, tiểu thuyết, bút kí, phóng sự, tuỳ bút,…

+ Ngôn ngữ thơ trong ca dao, vè, thơ (với nhiều thể loại khác nhau),…

+ Ngôn ngữ sân khấu trong kịch, tuồng, chèo,…

Ngôn ngữ trong các thể loại nói trên tuy có những điểm khác nhau về những nét đặc trưng thể loại, song chúng đều có những đặc trưng cơ bản: đó là tính hình tượng, tính truyền cảm và tính cá thể hoá. Đồng thời, ngôn ngữ nghệ thuật còn có một đặc điểm dễ nhận thấy là sự phong phú, sáng tạo và phát triển không ngừng.

2.Khái niệm phong cách ngôn ngữ nghệ thuật

Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật là phong cách được phân biệt bởi chức năng thẩm mĩ, thể hiện ở ba đặc trưng cơ bản: tính hình tượng, tính truyền cảm và tính cá thể hoá.

3.Đặc trưng của phong cách ngôn ngữ nghệ thuật

a.Tính hình tượng

Đây là một trong những đặc trưng cơ bản của ngôn ngữ nghệ thuật. Để tạo ra hình tượng ngôn ngữ, người viết thường dùng rất nhiều các biện pháp tu từ, như: so sánh, ẩn dụ, hoán dụ, liệt kê, thậm xưng,… Tính hình tượng giúp cho cách diễn đạt trong phong cách ngôn ngữ nghệ thuật cụ thể, sinh động, hàm súc và gợi cảm hơn. Như vậy, tính hình tượng của phong cách ngôn ngữ nghệ thuật là khái niệm chỉ ra cách diễn đạt cụ thể, hàm súc và gợi cảm trong một ngữ cảnh hay văn cảnh nhất định.

Có thể nói rằng, trong tác phẩm văn chương, chính tính hình tượng tạo ra tính đa nghĩa của ngôn từ nghệ thuật. Đó là trường hợp một từ ngữ, một câu văn, một hình ảnh hoặc toàn bộ văn bản nghệ thuật có khả năng gợi ra nhiều nghĩa, nhiều tầng nghĩa khác nhau. Đồng thời, tính đa nghĩa của ngôn ngữ nghệ thuật cũng quan hệ mật thiết với tính hàm súc, tức là khả năng khơi gợi những ý tứ sâu xa, rộng lớn trên cơ sở một lượng ngôn từ rất ít.

b.Tính truyền cảm

Trong ngôn ngữ nghệ thuật, người viết (người nói) sử dụng ngôn ngữ không chỉ để diễn đạt cảm xúc của mình mà còn làm cho người nghe, người đọc cũng vui buồn, tức giận, căm ghét, yêu thương, đau khổ,… như người nói (người viết). Như thế, tính truyền cảm trong ngôn ngữ nghệ thuật thể hiện ở chỗ, người viết (người nói) làm cho người nghe (người đọc) nảy sinh những cảm xúc như chính bản thân mình. Năng lực gợi cảm của ngôn ngữ nghệ thuật sở dĩ có được là nhờ sự lựa chọn ngôn ngữ để miêu tả, bình giá đối tượng (trong truyện và kịch) và tâm trạng chủ quan (trong thơ trữ tình).

c.Tính cá thể hoá

Tính cá thể hoá trong lời nói vốn là một dấu hiệu mang tính tự nhiên của con người (ở giọng nói, cách nói,…) để ta có thể dễ dàng phân biệt người này với người khác. Ngôn ngữ, vì thế, dẫu là phương tiện giao tiếp chung của cả cộng đồng nhưng khi được đem vào sử dụng nó lại có khả năng thể hiện một giọng điệu riêng, một phong cách riêng của từng tác giả.

Tính cá thể hoá của phong cách ngôn ngữ nghệ thuật chính là khái niệm dùng để chỉ việc sử dụng ngôn ngữ chung để tạo ra một phong cách riêng không nhầm lẫn với người khác, thể loại khác. Tính cá thể hoá trong mỗi tác phẩm hay trong từng tác giả được xem xét ở nhiều khía cạnh phong phú: từ cách dùng từ, đặt câu, đến việc tạo ra những nét riêng trong lời nói của các nhân vật; từ cách miêu tả các hình ảnh nghệ thuật đến những nét riêng trong cách diễn đạt ở từng tình huống, từng sự việc trong tác phẩm,… Tính cá thể hoá chính là cách tạo cho ngôn ngữ nghệ thuật những sáng tạo mới và tránh trùng lặp sáo mòn, nhàm chán.

II- HƯỚNG DẪN LUYỆN TẬP

1. Tính hình tượng của ngôn ngữ nghệ thuật thường được tạo ra bởi rất nhiều những phương tiện tu từ, nhưng phổ biến và hiệu quả nhất vẫn là các biện pháp như: ẩn dụ, hoán dụ, tượng trưng, nhân hoá, thậm xưng,… và đặc biệt là cách nói hàm ẩn trong những ngữ cảnh tu từ.

-Biện pháp nhân hoá:

Bỗng nhận ra hương ổi,

Phả vào trong gió se.

Sương chùng chình qua ngỗ,

Hình như thu đã về.

(Sang thu, Hữu Thỉnh)

-So sánh

Nhớ ai bổi hổi, bồi hồi,

Như đứng đống lửa như ngồi đống than.

-Ẩn dụ:

Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng,

Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ.

(Viếng lăng Bác, Viễn Phương)

Con rận bằng con ba ba,

Đêm nằm nó ngáy cả nhà thất kinh.

(Ca dao hài hước)

2. Trong ba đặc trưng (tính hình tượng, tính truyền cảm, tính cá thể hoá) của phong cách ngôn ngữ nghệ thuật, đặc trưng tính hình tượng được xem là tiêu biểu nhất, vì:

-Nó vừa là phương tiện, lại vừa là mục đích sáng tạo nghệ thuật.

-Các đặc trưng còn lại ít nhiều cũng được sinh ra từ tính hình tượng (trong mỗi hình tượng ngôn ngữ đã có những yếu tố gây cảm xúc và truyền cảm; thứ nữa, cách lựa chọn từ ngữ, cách xây dựng những hình tượng nghệ thuật đều đã tự thể hiện những nét cá tính sáng tạo nghệ thuật riêng của mỗi nhà văn ).

3. Hãy lựa chọn từ thích hợp cho trong ngoặc đơn để đưa vào chỗ trống trong các câu văn, câu thơ sau và giải thích lí do lựa chọn từ đó.

a. “Nhật kí trong tù”/…/ một tấm lòng nhớ nước.

(Theo Hoài Thanh)

(biểu hiện, phản ánh, thấm đượm, canh cánh, bộc lộ,…)

b. Ta tha thiết tự do dân tộc

Không chỉ vì một dải đất riêng

Kẻ đã /…/ trên mình ta thuốc độc

/…/ màu xanh cả Trái Đất thiêng.

-Dòng 3 (gieo, vãi, phun, rắc)

-Dòng 4 (huỷ, diệt, triệt, giết)

Gợi ý:

a. Có thể lựa chọn các từ: thấm đượm, canh cánh.

-Dòng 4: triệt.

4. Có nhiều bài thơ của các tác giả khác nhau viết về mùa thu, nhưng mỗi bài thơ mang những nét riêng về từ ngữ, nhịp điệu và hình tượng thơ, thể hiện tính cá thể trong ngôn ngữ. Hãy so sánh để thấy những nét riêng đó trong ba đoạn thơ sau:

a. Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao,

Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu.

Nước biếc trông như từng khói phủ,

Song thưa để mặc bóng trăng vào.

(Thu vịnh, Nguyễn Khuyên)

Lá thu rơi xào xạc.

Con nai vàng ngơ ngác,

Đạp trên lá vàng khô.

(Tiếng thu, Lưu Trọng Lư)

c.Mùa thu nay khác rồi

Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi

Gió thổi rừng tre phấp phới

Trời thu thay áo mới

Trong biếc nói cười thiết tha.

(Đất nước, Nguyễn Đình Thi)

Gợi ý: Có thể so sánh trên những nét sau:

-Về từ ngữ: cách lựa chọn từ ngữ để tạo hình tượng mùa thu ở ba bài thơ của ba tác giả là khác nhau.

+ Nhóm các từ ngữ dùng để xây dựng nên hình tượng mùa thu trong bài Thu vịnh của Nguyễn Khuyến: trời thu xanh ngắt, cần trúc lơ phơ, gió hắt hiu, nước biếc, khói phủ, bóng trăng,…

+ Chất liệu ngôn từ trong bài thơ Tiếng thu của Lưu Trọng Lư: lá thu rơi, nai vàng, lá vàng khô.

+ Chất liệu ngôn từ trong bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi: núi đồi, gió thổi, rừng tre, trời thu, trong biếc.

Có thể nhận thấy rằng sự khác nhau về ngôn ngữ giữa ba bài thơ của ba tác giả là ở chỗ: Bài Thu vịnh sử dụng những từ ngữ có tính chất ước lệ, quen thuộc mang những dấu ấn của thi pháp văn học trung đại. Trong khi đó các từ ngữ được dùng để xây dựng nên hình tượng mùa thu trong hai bài thơ Đất nước và Tiếng thu mang tính chất tả thực nhiều hơn, mới lạ hơn.

-Về nhịp điệu:

+ Nhịp thơ của bài Thu vịnh là nhịp: 4/3 hoặc 2/2/3.

+ Nhịp của bài Tiếng thu: 3/2

+ Nhịp của bài Đất nước: 3/2, 3/4, 2/2/2, 2/3, 2/2/2.

Thu vịnh và Tiếng thu được làm theo những thể thơ có quy định khá chặt chẽ về nhịp điệu. Vì thế nhịp của các câu thơ tương đối thống nhất. Trong khi đó, bài Đất nước làm theo thể thơ tự do nên cách ngắt nhịp trong mỗi câu thơ tương đối linh hoạt và đa dạng.

-Hình tượng mùa thu ở ba tác giả do không cùng thời đại nên cũng có những điểm khác nhau (hình tượng mang tính ước lệ hoặc mang tính chân thực như trên đã nói). Cũng từ sự khác nhau về hình tượng và cách diễn đạt, khác nhau về hình ảnh, ngôn ngữ,… nên dấu ấn phong cách cá nhân ở mỗi tác giả cũng khác nhau.

XEM THÊM HƯỚNG DẪN PHÂN TÍCH TRUYỆN KIỀU – NGỮ VĂN 10 TẠI ĐÂY

Bạn đang đọc nội dung bài viết Hướng Dẫn Phân Tích Chuyện Chức Phán Sự Đền Tản Viên trên website Athena4me.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!