Cập nhật nội dung chi tiết về Hợp Tác Xã Là Gì? Hợp Tác Xã Có Tư Cách Pháp Nhân Không? mới nhất trên website Athena4me.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Hợp tác xã là gì? Hợp tác xã có tư cách pháp nhân không? Hợp tác xã hoạt động trên cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về hoạt động của mình trên nguyên tắc dân chủ và bình đẳng.
Hợp tác xã là một trong những mô hình kinh tế hiện đang được sử dụng rộng rãi ở nước ta hiện nay, bên cạnh sự phát triển của các doanh nghiệp như công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp tư nhân…. Mặc dù có thể hiểu, hợp tác xã là một hình thức thể hiện cho thành phần kinh tế tập thể, nhưng không phải ai cũng hiểu về khái niệm cũng như bản chất của hình thức “hợp tác xã” này. Hợp tác xã là? Hợp tác xã có tư cách pháp nhân không? – Đây là một vấn đề được nhiều người quan tâm. Để hiểu rõ hơn về vấn đề này, trong phạm vi bài viết, đội ngũ luật sư và chuyên viên Luật Dương gia sẽ đề cập đến khái niệm hợp tác xã và xác định về tư cách pháp nhân của loại hình kinh tế này theo quy định của pháp luật hiện hành.
Về vấn đề này, hiện nay pháp luật hiện hành đang có quy định cụ thể tại Luật hợp tác xã năm 2012, Nghị định 193/2013/NĐ-CP. Cụ thể:
Về khái niệm hợp tác xã, theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật hợp tác xã năm 2012, được hiểu là một tổ chức kinh tế được thành lập một cách hợp pháp, đồng sở hữu,có tư cách pháp nhân, được thành lập dựa trên cơ sở nguyện vọng và nhu cầu chung của các thành viên và do ít nhất 07 thành viên tự nguyện thành lập, tương trợ lẫn nhau, tạo điều kiện về việc làm, và phối hợp trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Hợp tác xã được xác định là hình thức thể hiện của thành phần kinh tế tập thể, hoạt động trên cơ sở tự chủ, có tính chất tự chịu trách nhiệm, bình đẳng và dân chủ trong quản lý cơ cấu và hoạt động của hợp tác xã.
Trong đó, nhu cầu chung của các thành viên trong hợp tác xã, được hiểu là nhu cầu giống nhau của các thành viên trong việc sử dụng các sản phẩm, dịch vụ một cách thường xuyên, ổn định từ kết quả của hoạt động sản xuất sinh doanh chung của các thành viên, trong đó bao gồm cả nhu cầu về việc làm cho các thành viên trong hợp tác xã mà hợp tác xã tạo ra trong quá trình sản xuất, kinh doanh ấy (căn cứ theo khoản 1 Điều 4 Luật hợp tác xã năm 2012).
Khi những hợp tác xã riêng lẻ, liên kết với nhau với ít nhất từ 04 hợp tác xã trở lên tự nguyện thành lập và tương trợ lẫn nhau trong hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm đáp ứng nhu cầu chung của tất cả các hợp tác xã thành viên thì liên hiệp hợp tác xã sẽ được thành lập. Cũng giống như hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã cũng được xác định là một tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, có tính chất đồng sở hữu, có tư cách pháp nhân và được hoạt động trên cơ sở tự chủ, tự chịu trách nhiệm, bình đẳng, dân chủ trong quá trình quản lý hoạt động của liên hiệp hợp tác xã.
Trên cơ sở khái niệm hợp tác xã được xác định theo Luật hợp tác xã năm 2012 ở trên, có thể khái quát, “hợp tác xã” có các đặc điểm cơ bản sau:
Một là, hợp tác xã là một tổ chức kinh tế, hoạt động sản xuất kinh doanh như một loại hình doanh nghiệp nhưng mang tính xã hội cao, và là hình thức thể hiện của thành phần kinh tế tập thể.
Hai là, hợp tác xã có số lượng thành viên tối thiểu là 7 thành viên. Thành viên tham gia hợp tác xã có thể là cá nhân, hộ gia đình nhưng cũng có thể là pháp nhân khi đáp ứng được các điều kiện được quy định trong Điều 13 Luật hợp tác xã năm 2012, và Điều 3, 4 Nghị định 193/2013/NĐ-CP.
Thứ hai, về xác định về tư cách pháp nhân của hợp tác xã.
Bốn là, các thành viên của hợp tác xã tự nguyện tham gia và cùng nhau làm việc, hợp tác tương trợ trong hoạt động sản xuất kinh doanh và cùng sử dụng sản phẩm, dịch vụ của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã theo hợp đồng dịch vụ, được hưởng lợi nhuận và phân phối thu nhập từ hoạt động kinh doanh của hợp tác xã theo nguyên tắc quy định trong điều lệ của hợp tác xã và Luật hợp tác xã.
Căn cứ theo khái niệm “hợp tác xã” được quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật hợp tác xã năm 2012 được trích dẫn ở trên, có thể khẳng định, hợp tác xã là một tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân.
Về tư cách pháp nhân, một tổ chức nói chung hoặc tổ chức kinh tế nói riêng sẽ được công nhận là pháp nhân nếu đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định tại Điều 74 Bộ luật dân sự năm 2015. Trên cơ sở những điều kiện này, xem xét tư cách pháp nhân của hợp tác xã có thể thấy:
Tư cách pháp nhân của hợp tác xã không chỉ được khẳng định trong khái niệm “hợp tác xã” mà còn được thể hiện ở các khía cạnh sau:
Một là, hợp tác xã là một tổ chức kinh tế được thành lập một cách hợp pháp theo quy định chung của Bộ luật Dân sự năm 2015, và quy định cụ thể trong Luật hợp tác xã năm 2012, Nghị định 193/2013/NĐ-CP.
Tiếp theo, trước khi chính thức đi vào hoạt động thì hợp tác xã phải thực hiện thủ tục đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền nơi hợp tác xã dự định đặt trụ sở chính. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc đăng ký hợp tác xã được xác định là Liên hiệp hợp tác xã, quỹ tín dụng nhân dân đăng ký tại phòng đăng ký kinh doanh thuộc sở kế hoạch và đầu tư; hoặc Hợp tác xã đăng ký tại phòng tài chính – kế hoạch thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện.
Sau khi hoàn tất thủ tục, hồ sơ đăng ký hợp tác xã theo đúng quy định của pháp luật và đáp ứng đủ các điều kiện để thành lập hợp tác xã thì hợp tác xã này sẽ được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận đăng ký hợp tác xã.
Như vậy, hợp tác xã là một tổ chức được thành lập một cách chặt chẽ với trình tự, thủ tục đều phải chấp hành theo đúng quy định của pháp luật và được sự công nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Hai là Cũng giống như các tổ chức được công nhận là pháp nhân khác, hợp tác xã, trong cơ cấu tổ chức cũng có cơ quan điều hành với những chức năng, nhiệm vụ quyền hạn được quy định chung trong điều lệ và quyết định thành lập hợp tác xã. Cụ thể:
Hợp tác xã được tổ chức theo hướng gồm các cơ quan điều hành như đại hội thành viên, hội đồng quản trị, giám đốc (hoặc tổng giám đốc), ban kiểm soát hoặc kiểm soát viên. Trong đó:
– Hội đồng quản trị hợp tác xã là cơ quan quản lý hợp tác xã, gồm chủ tịch và thành viên trong đó số lượng thành viên của hội đồng quản trị sẽ do điều lệ quy định cụ thể nhưng tối đa không quá 15 người và tối thiểu ít nhất là 03 người. Hội đồng quản trị do hội nghị thành lập hoặc do đại hội thành viên bầu, với nhiệm kỳ do Điều lệ Hợp tác xã quy định cụ thể, nhưng được giới hạn từ 3 – 5 năm. Hội đồng quản trị được sử dụng con dấu của hợp tác xã để thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình.
– Giám đốc (hoặc Tổng giám đốc) là người trực tiếp điều hành, và quản lý các hoạt động của hợp tác xã.
– Ban kiểm soát hoặc kiểm soát viên là bộ phận hoạt động độc lập, do đại hội thành viên bầu trực tiếp trong số thành viên hợp tác xã theo hình thức bỏ phiếu và có nhiệm vụ kiểm tra, giám sát hoạt động của hợp tác xã theo quy định của Điều lệ hợp tác xã và Luật. Ban kiểm soát có số lượng thành viên không quá 07 người.
Lưu ý: Đối với các hợp tác xã có từ 30 thành viên trở lên thì bắt buộc phải thành lập ban kiểm soát, còn trường hợp có dưới 30 thành viên trở xuống thì hợp tác xã có thể thành lập ban kiểm soát hoặc kiểm soát viên theo nội dung của Điều lệ hợp tác xã đó.
Quy định về tính độc lập, tự chủ, và tự chịu trách nhiệm của hợp tác xã không chỉ được khẳng định trong khái niệm “hợp tác xã” mà nó còn thể hiện trong quy định về cơ chế hoạt động, nguyên tắc hoạt động và đặc biệt là tài sản, tài chính của hợp tác xã. Cụ thể:
Căn cứ theo quy định của Luật hợp tác xã thì tài sản của hợp tác xã bao gồm vốn điều lệ, vốn hoạt động, và các khoản trợ cấp, hỗ trợ từ Nhà nước, từ các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài và các nguồn thu hợp khác cũng như các tài sản khác, được xác định là những tài sản, độc lập, và có sự phân định rõ ràng với các tài sản khác của thành viên hợp tác xã, được hình thành theo các hình thức góp vốn và huy động vốn nhất định, cũng như có cách thức phân phối lợi nhuận riêng theo quy định của pháp luật và điều lệ của hợp tác xã.
Về vấn đề tài sản, hợp tác xã cũng có quy định riêng về việc xử lý các khoản lỗ, khoản nợ về tài chính cũng như trong việc phân phối lợi nhuận. Căn cứ theo nội dung Điều lệ của hợp tác xã và quy định của luật thì những tài sản của hợp tác xã sẽ được sử dụng để thanh toán các khoản nợ cũng như nghĩa vụ tài chính khác của hợp tác xã khi giải thể, phá sản theo một thứ tự ưu tiên nhất định. Khi các giá trị tài sản còn lại khác của hợp tác xã không đủ để thanh toán các khoản nợ ưu tiên thì cũng thực hiện việc chi trả theo tỷ lệ tương ứng với các khoản nợ trong cùng một hàng ưu tiên.
Ngoài ra khi hợp tác xã đang còn hoạt động, hợp tác xã cũng có những quy chế riêng trong việc xử lý các khoản lỗ, khoản nợ của hợp tác xã khi kết thúc năm tài chính thông qua việc xử ký giảm lỗ, hay sử dụng quỹ dự phòng tài chính để bù đắp, hoặc chuyển lại sang năm sau. Đồng thời, trong quy định tại Điều 15 Luật hợp tác xã năm 2015 thì các thành viên của hợp tác xã cũng chỉ phải chịu trách nhiệm hữu hạn về các khoản nợ hay nghĩa vụ tài chính khác của hợp tác xã trong phạm vi vốn góp vào hợp tác xã.
Dịch vụ pháp lý của Luật Dương gia:
Từ những phân tích ở trên, có thể thấy, tài sản, nguồn tài chính của hợp tác xã đều được tạo lập và quản lý bằng những cơ chế chặt chẽ, có sự độc lập n hất định đối với tài sản của riêng các thành viên, đồng thời hợp tác xã thực hiện tự chịu trách nhiệm đối với các khoản nợ, nghĩa vụ tài chính trong phạm vi tài sản của mình. Đây là một trong những đặc điểm quan trọng là điều kiện để xác nhận một tổ chức có tư cách pháp nhân.
Hợp tác xã, trong quá trình thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh, hoàn toàn có thể nhân danh mình để tự tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập.
Có thể thấy, với những khía cạnh được phân tích nêu trên, Hợp tác xã hoàn toàn đáp ứng điều kiện để được xác nhận là một pháp nhân theo quy định của pháp luật, cụ thể là Điều 74 Bộ luật Dân sự năm 2015, và tư cách pháp nhân của tổ chức này cũng đã được khẳng định rõ ràng trong khái niệm hợp tác xã theo khoản 1 Điều 3 Luật hợp tác xã năm 2012.
Như vậy, Hợp tác xã cùng với các hình thức tổ chức kinh tế khác, ngày càng thể hiện vai trò của mình trong việc thể hiện nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần của nước ta, đóng góp không nhỏ trong việc phát triển kinh tế – xã hội. Việc có tư cách pháp nhân đã giúp cho hợp tác xã có thể phát huy tính độc lập tự chủ của mình và tạo ra lợi thế trong việc tham gia các giao dịch cũng như các hoạt động kinh doanh thương mại.
– Tư vấn pháp luật doanh nghiệp miễn phí qua tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến 1900.6568 .
– Tư vấn pháp luật về hợp tác xã trực tiếp tại Văn phòng tư vấn.
– Dịch vụ tư vấn về doanh nghiệp qua email có trả phí.
– Dịch vụ soạn thảo hồ sơ thành lập doanh nghiệp, thành lập hợp tác xã.
Hợp Tác Xã Có Phải Là Doanh Nghiệp Không?
“Hợp tác xã có phải là doanh nghiệp không? Hợp tác xã có con dấu tròn không? Hợp tác xã là gì?…” là những câu hỏi được hỏi nhiều tới chuyên mục hỏi/ đáp của chúng tôi. Tư vấn LTL cảm ơn quý doanh nghiệp đã tin tưởng sử dụng dịch vụ pháp lý của công ty trong suốt thời gian qua. Tư vấn LTL giải đáp thắc mắc về về “Hợp tác xã có phải là doanh nghiệp không?” của quý doanh nghiệp như sau:
Hợp tác xã được quy đinh chi tiết Tại Luật hợp tác xã 2012: Khái niệm hợp tác xã theo Điều 3 Luật hợp tác xã 2012: “Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể, đồng sở hữu, có tư cách pháp nhân, do ít nhất 07 thành viên tự nguyện thành lập và hợp tác tương trợ lẫn nhau trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm nhằm đáp ứng nhu cầu chung của thành viên, trên cơ sở tự chủ, tự chịu trách nhiệm, bình đẳng và dân chủ trong quản lý hợp tác xã”.
⇒Như vậy Hợp tác xã có tư cách pháp nhân, Hợp tác xã có quyền khắc dấu tròn và sử dụng con dấu theo quy định của pháp luật.
Theo Khoản 7, Điều 4 Luật doanh nghiệp năm 2014: “Doanh nghiệp là tổ chức có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch, được đăng ký thành lập theo quy định của pháp luật nhằm mục đích kinh doanh”.
Theo định nghĩa này, doanh nghiệp phải đáp ứng các dấu hiệu sau:
⇒Như vậy, những chủ thể thực hiện những hành vi kinh doanh nhằm mục đích kinh doanh mới được coi là doanh nghiệp.
Theo các định nghĩa được quy định tại Luật doanh nghiệp thì doanh nghiệp là những đơn vị tồn tại trước hết vì mục đích kinh doanh, tức vì mục đích sinh lời. Điều đó có nghĩa là, những đơn vị, thực thể pháp lý, kể cả khi chúng tồn tại trên thương trường, nhưng không lấy kinh doanh, sinh lời làm mục tiêu chính cho hoạt động của mình thì không phải là doanh nghiệp.
Có thể thấy rằng, mục đích của HTX là tổ chức được thành lập ra để hợp “tác tương trợ lẫn nhau trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm nhằm đáp ứng nhu cầu chung của thành viên”, không vì mục tiêu sinh lợi, do đó không thể coi HTX là doanh nghiệp được. Tuy nhiên, khi tiến hành các hoạt động kinh tế, HTX cũng phải tuân thủ các nguyên tắc và các qui định pháp luật về kinh doanh. Do vậy, Luật Hợp tác xã năm 2012 không xác định HTX là một loại hình doanh nghiệp, nhưng vẫn qui định “HTX hoạt động như một loại hình doanh nghiệp”. Điều này là cần thiết để khẳng định sự bình đẳng trong hoạt động giữa HTX với tư cách là tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân với các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường của nước ta hiện nay.
Dịch vụ làm phù hiệu xe tải 2018
Liên hệ ngay với chúng tôi để được tư vấn miễn phí!
Công Ty TNHH Tư Vấn & Đầu tư LTL.Hotline: 0902.990.954Email: infotuvanltl@gmail.com
Liên Hiệp Hợp Tác Xã Là Gì ? Ban Kiểm Soát Của Hợp Tác Xã Là Gì ? Quy Định Về Sở Hữu Tập Thể Của Hợp Tác Xã
Nhìn từ góc độ của luật dân sự, sở hữu tập thể được hiểu là hình thức sở hữu mà chủ sở hữu là một tổ chức kinh tế (hợp tác xã hoặc một hình thức kinh tế tập thể ổn định khác) được dựng nên bởi một tập hợp cá thể hoặc hộ có nhu cầu chung hoặc có những khó khăn giống nhau trong cuộc sống, nghề nghiệp; tự nguyện hợp tác, tương trợ để cùng nhau giải quyết thông qua chung sức, chung vốn làm kinh tế [1]. Vì có chủ là tổ chức nên không thể nhầm lẫn giữa sở hữu tập thể với sở hữu tư nhân mà chủ là một cá nhân. Sở hữu tập thể cũng khác hẳn với các hình thức sở hữu của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội, tổ chức chính trị xã hội nghề nghiệp … vì tài sản thuộc sở hữu tập thể phải được sử dụng cho hoạt động kinh tế, để tạo ra sản phẩm hoặc dịch vụ.
– Chủ sở hữu tập thể thường chỉ giới hạn ở một số đối tượng nhất định (không có người nước ngoài), trong khi sở hữu chung thì không.
– Vấn đề sử dụng tài sản thuộc sở hữu tập thể phải gắn với các hoạt động kinh tế; còn sở hữu chung có thể tồn tại cả trong kinh tế lẫn dân sự.
– Mục đích khai thác tài sản thuộc sở hữu tập thể không chỉ đơn thuần vì lợi ích kinh tế, mà phải hướng đến giải quyết các nhu cầu chung, cải thiện và nâng cao đời sống cả vật chất lẫn tinh thần cho thành viên, thể hiện rõ tính cộng đồng, tương trợ lẫn nhau.
– Phương thức thực hiện quyền sở hữu tập thể luôn gắn liền với tổ chức và hoạt động của một thực thể pháp lý nhất định (chủ thể của quyền sở hữu tập thể), chứ không phải là cơ chế đồng thuận của nhiều chủ thể độc lập nhau như hình thức sở hữu chung.
Như vậy, quyền sở hữu tập thể được thực hiện bởi một chủ thể duy nhất là tổ chức kinh tế tập thể. Cơ chế thực hiện quyền do điều lệ (đối với chủ sở hữu pháp nhân) hoặc pháp luật quy định. Sở hữu tập thể là sở hữu một chủ.
Xét ở góc độ chủ thể thực hiện quyền, sở hữu tập thể trong hợp tác xã cũng chính là sở hữu của pháp nhân kinh tế, tương tự như hình thức sở hữu trong công ty. Đáng tiếc là sở hữu pháp nhân kinh tế (bao gồm cả pháp nhân hoạt động thương mại) lại thiếu vắng cơ sở pháp lý khi Bộ luật dân sự không đề cập (!?). Quyền sở hữu trong hợp tác xã được thực hiện theo điều lệ hợp tác xã, trong khuôn khổ luật định. Thông thường, điều lệ phân giao các quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản cho các cơ quan trong bộ máy quản lý thực hiện trên danh nghĩa hợp tác xã, từ Đại hội xã viên, Ban quản trị cho đến Chủ nhiệm.
Ở nước ta, hợp tác xã đang giữ vị trí trọng yếu trong ngành giao thông vận tải ở nhiều địa phương, đặc biệt tại thành phố Hồ Chí Minh đã đảm nhận tới 77% nhu cầu vận tải hành khách và trên 80% nhu cầu vận tải hàng hoá đường bộ (Báo cáo của Bộ GTVT tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI Liên minh HTX Việt Nam năm 2010)[5]. Hiện có 3 hình thức tổ chức hợp tác xã vận tải là: hình thức dịch vụ hỗ trợ, hình thức điều hành tập trung và hình thức hỗn hợp; trong đó mô hình dịch vụ hỗ trợ (chiếm tỷ trọng trên 82%) được nhận diện qua các dấu hiệu như: hợp tác xã không trực tiếp hành nghề mà chỉ cung cấp các dịch vụ hỗ trợ xã viên về thủ tục, giấy tờ (ở ngành khác không nhất thiết có cùng đặc điểm này); vốn điều lệ thấp; xã viên hành nghề với danh nghĩa hợp tác xã nhưng bằng phương tiện hoạt động là tài sản riêng của mình hoặc tự thuê mướn; có xác định tỷ lệ phân chia thu nhập giữa xã viên và hợp tác xã; quyết định điều hành thường ít có hiệu lực đối với xã viên; việc tuân thủ nội quy kỷ luật khá lỏng lẻo; hợp tác xã không quản lý được phương tiện, người lái, không quản lý được kinh doanh, không có bộ phận lo chung về kĩ thuật an toàn phương tiện … Từ mô hình này, đã nảy sinh một số bất cập sau:
– Hợp tác xã chỉ là tổ chức kinh tế về hình thức, có đăng ký kinh doanh nhưng không có nguồn lực để hoạt động như một pháp nhân thực sự. Có thể nói đây là hoạt động nghề nghiệp của xã viên, bằng “tư liệu sản xuất” của xã viên nhưng “núp bóng” pháp nhân hợp tác xã. Hợp tác xã không có điều kiện để thực hiện trách nhiệm tài sản khi xảy ra tổn thất do hoạt động hành nghề của xã viên (người lao động của hợp tác xã) gây ra. Rủi ro cho khách hàng là điều khó tránh khỏi! Cam kết của xã viên về việc tự chịu trách nhiệm (còn hợp tác xã hoàn toàn không) đã đi ngược lại nguyên tắc trách nhiệm của pháp nhân theo luật dân sự.
– Với năng lực tài chính khiêm tốn, lại không trực tiếp làm kinh tế, hợp tác xã không thể nào tạo lập được quỹ hay tài sản phục vụ lợi ích và các nhu cầu chung khác của cộng đồng xã viên. Ý nghĩa xã hội đặc trưng của sở hữu tập thể hầu như không phát huy thực sự. Vậy có nên duy trìhợp tác xã kiểu này?
Tổ hợp tác (hoạt động kinh tế) hiện được xem như một trong hai loại hình kinh tế tập thể chính thức được luật điều chỉnh, có quy chế pháp lý cụ thể. Tổ hợp tác hoạt động theo Bộ Luật dân sự (điều 111 đến điều 120), Nghị định 151/2007/NĐ-CP và Thông tư 04/2008/TT-BKH. Hiện nay, cùng với sự hiện diện của hơn 19.000 hợp tác xã trên phạm vi cả nước, có sự góp mặt của gần 370.000 tổ hợp tác kinh tế hoạt động chủ yếu trong các lĩnh vực nông, ngư nghiệp.
Tổ hợp tác có tài sản do các tổ viên đóng góp, cùng nhau tạo lập và được tặng cho chung. Không có quy định bắt buộc về vốn trợ cấp của Nhà nước cho tổ chức này như hợp tác xã. Tài sản do tổ viên góp vào có thể được hoàn trả khi tổ viên đó ra khỏi tổ hợp tác. Tổ viên quản lý và sử dụng tài sản của tổ hợp tác theo phương thức thoả thuận. Riêng việc định đoạt tài sản là tư liệu sản xuất phải được các tổ viên đồng thuận theo nguyên tắc nhất trí.[6]
Suy cho cùng, hình thức sở hữu tập thể có thể tồn tại hoặc không tồn tại trong loại hình tổ hợp tác. Nếu sở hữu của tổ hợp tác là sở hữu tập thể, thì phương thức thực hiện quyền sở hữu vẫn rất khác với hợp tác xã (như đã nêu trên). Cùng là hình thức sở hữu tập thể, sao lại có sự khác nhau về tính chất chủ sở hữu và phương thức thực hiện quyền sở hữu?
Mặcdù kinh tế hợp tác xã khởi nguồn từ một nhà tư tưởng theo chủ nghĩa xã hội không tưởng – Robert Owen (1771-1858) – nhưng thực tiễn áp dụng thành công mô hình này ở rất nhiều quốc gia khác nhau trên thế giới, kể cả các nước tư bản phát triển như Mỹ, Nhật, Đức, Phần Lan, Thụy Sĩ…. đã khẳng định vị trí và vai trò tích cực của kinh tế tập thể đối với quá trình tăng trưởng kinh tế, góp phần nâng cao đời sống của đại đa số người dân lao động trong xã hội. Vậy, ở các quốc gia đó có chế định một hình thức sở hữu đặc thù nào cho các đơn vị kinh tế tập thể, tương tự như sở hữu tập thể ở nước ta không?
Người viết nghĩ rằng không nhất thiết và cũng không nên gắn mỗi loại hình kinh tế với một hình thức sở hữu nhất định. Trong văn bản luật, chỉ nên tiếp cận cáchình thức sở hữu từ góc độ chủ thể và phương thức thực hiện quyền, theo đó cần sửa đổi Bộ luật dân sự theo hướng chế định năm hình thức sở hữu sau: a/ Sở hữu cá nhân; b/ Sở hữu nhà nước; c/ Sở hữu pháp nhân; d/ Sở hữu của tổ chức có năng lực pháp lý hạn chế và e/ Sở hữu chung. Sở hữu pháp nhân và sở hữu của tổ chức khác đều có thể gắn với chủ thể hoạt động trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, nghề nghiệp,… Những giới hạn trong sử dụng và định đoạt quyền đối với tài sản chung của “tập thể” chỉ nên xem như một trong những dấu hiệu đặc trưng gắn liền với loại hình kinh tế tập thể, chứ không nên xem là cơ sở để định danh một hình thức sở hữu riêng biệt.Suy cho cùng, mỗi loại tổ chức khác nhau ra đời và hoạt động trong những lĩnh vực khác nhau (tôn giáo, chính trị… ) đều có quy chế riêng cho việc sử dụng và định đoạt tài sản gắn với mục đích hoạt động đặc trưng của mình.
” Chế độ sở hữu tập thể” đã tồn tại rất lâu trong đời sống cũng như trong khoa học chính trị pháp lý của nước ta, nhưng nếu xét ở khía cạnh được luật hóa thành hình thức sở hữu thì có vẻ còn khá mơ hồ. Những khác biệt, thậm chí bất đồng trong cách hiểu và vận dụng đã để lại không ít hệ lụy, mà sự thất bại của mô hình hợp tác xã kiểu cũ là một ví dụ điển hình. Tư duy làm chủ tập thể trong quá khứ đã từng là một trong những yếu tố khiến cho người dân bị tước bỏ nhiều quyền trên thực tế, cho dù họ có rất nhiều quyền theo Hiến pháp[7]. Phải chăng vì cứ gắn sở hữu tập thể vào kinh tế tập thể, nên dù cho nhà làm luật có khẳng định hợp tác xã không phải là doanh nghiệp (ban hành đạo luật riêng cho hợp tác xã), sở hữu của hợp tác xã là sở hữu tập thể nhưng không ít các chuyên gia, nhà quản lý vẫn cứ phát biểu “hợp tác xã là một loại hình doanh nghiệp” và “sở hữu tài sản trong hợp tác xã là sở hữu tư nhân”!?
Trong pháp luật Việt Nam, tư cách pháp nhân của tổ chức (đặc biệt là tổ chức kinh doanh) có ý nghĩa quan trọng hơn là việc chỉ ghi nhận tính hợp pháp của chủ thể trong các quan hệ pháp lý. Vốn chủ sở hữu và tài sản kinh doanh là phương tiện cần thiết để pháp nhân huy động thêm nguồn lực để phát triển, bảo đảm hiệu quả hoạt động, khẳng định được quyền tự chủ và năng lực trách nhiệm độc lập đối với các nghĩa vụ tài sản do mình tạo ra.
Theo người viết, không nên duy trì mô hình hợp tác xã dịch vụ hỗ trợ (như kiểu dịch vụ hỗ trợ trong ngành vận tải hiện nay) vì rủi ro cho cộng đồng, thêm phức tạp cho công tác quản lý về an toàn giao thông trong khi không phát huy đầy đủ ý nghĩa xã hội tốt đẹp của kinh tế tập thể. Chỉ nên thừa nhận 2 mô hình: hợp tác xã quản lý tập trung và hợp tác xã hỗn hợp trong ngành vận tải, ở đó hợp tác xã có nguồn lực tài chính thực sự, có năng lực chuyên môn để hoạt động nghề nghiệp như đăng ký và quan trọng là hợp tác xã quản lý được việc hành nghề của xã viên dưới danh nghĩa của mình. Nhằm bảo đảm tính thống nhất trong nhận thức và thực thi pháp luật, thiết nghĩ cũng cần đưa ra những tiêu chí pháp lý cụ thể hơn để hướng dẫn các hình thức tổ chức hợp tác xã trong các ngành, lĩnh vực nói chung.
Lịch sử hình thành và phát triển gần 200 năm qua của hợp tác xã và kinh tế tập thể (nói chung) trên thế giới đã khẳng định vai trò quan trọng của loại hình kinh tế này, đặc biệt là ở những cộng đồng nông thôn. Việt Nam với vị trí của một nước nông nghiệp thì việc hoàn thiện chính sách, pháp luật về hợp tác xã trong đó có chế định hình thức sở hữu, để từ đó phát hiện và nhân rộng các mô hình hợp tác xã tiên tiến là công việc có ý nghĩa thiết thực đối với yêu cầu tăng trưởng kinh tế bền vững của quốc gia.
Điều 54 Luật Hợp Tác Xã Giải Thể Hợp Tác Xã, Liên Hiệp Hợp Tác Xã
Điều 54 Luật hợp tác xã Giải thể hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã
Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2013.(
Luật hợp tác xã năm 2012
).
Luật hợp tác xã số 18/2003/QH12 hết hiệu lực kể từ ngày Luật này có hiệu lực.
Thủ tục thành lập Hợp tác xã
1. Giải thể tự nguyện: Đại hội thành viên, hợp tác xã thành viên quyết định việc giải thể tự nguyện và thành lập hội đồng giải thể tự nguyện. Hội đồng giải thể tự nguyện gồm đại diện hội đồng quản trị, ban kiểm soát hoặc kiểm soát viên, ban điều hành, đại diện của thành viên, hợp tác xã thành viên. Trong thời hạn 60 ngày, kể từ ngày đại hội thành viên ra nghị quyết giải thể tự nguyện, hội đồng giải thể tự nguyện có trách nhiệm thực hiện các công việc sau đây: a) Thông báo về việc giải thể tới cơ quan nhà nước đã cấp giấy chứng nhận đăng ký cho hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã; đăng báo địa phương nơi hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã hoạt động trong 03 số liên tiếp về việc giải thể; b) Thông báo tới các tổ chức, cá nhân có quan hệ kinh tế với hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã về thời hạn thanh toán nợ, thanh lý các hợp đồng; thực hiện việc xử lý tài sản và vốn của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã theo quy định tại Điều 49 của Luật này. 2. Giải thể bắt buộc: Ủy ban nhân dân cùng cấp với cơ quan nhà nước cấp giấy chứng nhận đăng ký hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã quyết định giải thể bắt buộc đối với hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã thuộc một trong các trường hợp sau đây: a) Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã không hoạt động trong 12 tháng liên tục; b) Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã không bảo đảm đủ số lượng thành viên tối thiểu theo quy định của Luật này trong 12 tháng liên tục; c) Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã không tổ chức được đại hội thành viên thường niên trong 18 tháng liên tục mà không có lý do; b) Bị thu hồi giấy chứng nhận đăng ký; đ) Theo quyết định của Tòa án. 3. Thủ tục giải thể bắt buộc đối với hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã như sau: a) Ủy ban nhân dân cùng cấp với cơ quan nhà nước cấp giấy chứng nhận đăng ký hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã ra quyết định giải thể và thành lập hội đồng giải thể. Chủ tịch hội đồng giải thể là đại diện của Ủy ban nhân dân; ủy viên thường trực là đại diện của cơ quan nhà nước cấp giấy chứng nhận đăng ký; ủy viên khác là đại diện của cơ quan nhà nước chuyên ngành cùng cấp, tổ chức đại diện, liên minh hợp tác xã tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (nếu hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã là thành viên của liên minh), Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã đóng trụ sở, hội đồng quản trị, ban kiểm soát hoặc kiểm soát viên, thành viên, hợp tác xã thành viên; b) Hồ sơ giải thể bắt buộc gồm quyết định giải thể bắt buộc và giấy chứng nhận đăng ký hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã; c) Trong thời hạn 60 ngày, kể từ ngày ra quyết định giải thể bắt buộc, hội đồng giải thể có trách nhiệm thực hiện các công việc sau đây: đăng báo địa phương nơi hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã đã đăng ký trong 03 số liên tiếp về quyết định giải thể bắt buộc; thông báo tới các tổ chức, cá nhân có quan hệ kinh tế với hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã về việc giải thể và thời hạn thanh toán nợ, thanh lý các hợp đồng; xử lý tài sản và vốn của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã theo quy định tại Điều 49 của Luật này. 4. Ngay sau khi hoàn thành việc giải thể theo quy định tại khoản 1, khoản 2 của Điều này, hội đồng giải thể phải nộp 01 bộ hồ sơ về việc giải thể, con dấu và bản gốc giấy chứng nhận đăng ký hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã tới cơ quan đã cấp giấy chứng nhận đăng ký. Việc xử lý các tài liệu khác thực hiện theo quy định của pháp luật. 5. Cơ quan nhà nước đã cấp giấy chứng nhận đăng ký hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã phải xóa tên hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã trong sổ đăng ký. 6. Trong trường hợp không đồng ý với quyết định giải thể bắt buộc, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã có quyền khiếu nại đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc khởi kiện ra Tòa án theo quy định của pháp luật. 7. Chính phủ quy định chi tiết Điều này.
Điều 54. Giải thể hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã1. Giải thể tự nguyện:Đại hội thành viên, hợp tác xã thành viên quyết định việc giải thể tự nguyện và thành lập hội đồng giải thể tự nguyện. Hội đồng giải thể tự nguyện gồm đại diện hội đồng quản trị, ban kiểm soát hoặc kiểm soát viên, ban điều hành, đại diện của thành viên, hợp tác xã thành viên.Trong thời hạn 60 ngày, kể từ ngày đại hội thành viên ra nghị quyết giải thể tự nguyện, hội đồng giải thể tự nguyện có trách nhiệm thực hiện các công việc sau đây:a) Thông báo về việc giải thể tới cơ quan nhà nước đã cấp giấy chứng nhận đăng ký cho hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã; đăng báo địa phương nơi hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã hoạt động trong 03 số liên tiếp về việc giải thể;b) Thông báo tới các tổ chức, cá nhân có quan hệ kinh tế với hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã về thời hạn thanh toán nợ, thanh lý các hợp đồng; thực hiện việc xử lý tài sản và vốn của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã theo quy định tại Điều 49 của Luật này.2. Giải thể bắt buộc:Ủy ban nhân dân cùng cấp với cơ quan nhà nước cấp giấy chứng nhận đăng ký hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã quyết định giải thể bắt buộc đối với hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã thuộc một trong các trường hợp sau đây:a) Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã không hoạt động trong 12 tháng liên tục;b) Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã không bảo đảm đủ số lượng thành viên tối thiểu theo quy định của Luật này trong 12 tháng liên tục;c) Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã không tổ chức được đại hội thành viên thường niên trong 18 tháng liên tục mà không có lý do;b) Bị thu hồi giấy chứng nhận đăng ký;đ) Theo quyết định của Tòa án.3. Thủ tục giải thể bắt buộc đối với hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã như sau:a) Ủy ban nhân dân cùng cấp với cơ quan nhà nước cấp giấy chứng nhận đăng ký hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã ra quyết định giải thể và thành lập hội đồng giải thể. Chủ tịch hội đồng giải thể là đại diện của Ủy ban nhân dân; ủy viên thường trực là đại diện của cơ quan nhà nước cấp giấy chứng nhận đăng ký; ủy viên khác là đại diện của cơ quan nhà nước chuyên ngành cùng cấp, tổ chức đại diện, liên minh hợp tác xã tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (nếu hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã là thành viên của liên minh), Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã đóng trụ sở, hội đồng quản trị, ban kiểm soát hoặc kiểm soát viên, thành viên, hợp tác xã thành viên;b) Hồ sơ giải thể bắt buộc gồm quyết định giải thể bắt buộc và giấy chứng nhận đăng ký hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã;c) Trong thời hạn 60 ngày, kể từ ngày ra quyết định giải thể bắt buộc, hội đồng giải thể có trách nhiệm thực hiện các công việc sau đây: đăng báo địa phương nơi hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã đã đăng ký trong 03 số liên tiếp về quyết định giải thể bắt buộc; thông báo tới các tổ chức, cá nhân có quan hệ kinh tế với hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã về việc giải thể và thời hạn thanh toán nợ, thanh lý các hợp đồng; xử lý tài sản và vốn của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã theo quy định tại Điều 49 của Luật này.4. Ngay sau khi hoàn thành việc giải thể theo quy định tại khoản 1, khoản 2 của Điều này, hội đồng giải thể phải nộp 01 bộ hồ sơ về việc giải thể, con dấu và bản gốc giấy chứng nhận đăng ký hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã tới cơ quan đã cấp giấy chứng nhận đăng ký. Việc xử lý các tài liệu khác thực hiện theo quy định của pháp luật.5. Cơ quan nhà nước đã cấp giấy chứng nhận đăng ký hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã phải xóa tên hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã trong sổ đăng ký.6. Trong trường hợp không đồng ý với quyết định giải thể bắt buộc, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã có quyền khiếu nại đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc khởi kiện ra Tòa án theo quy định của pháp luật.7. Chính phủ quy định chi tiết Điều này.
Căn cứ pháp lý thành lập Hợp tác xã: Luật hợp tác xã năm 2012; Nghị định 193/2013/NĐ-CP Quy định chi tiết một số điều của Luật Hợp tác xã; Thông tư 03/2014/TT-BKHĐT Hướng dẫn đăng ký hợp tác xã;
Bạn đang đọc nội dung bài viết Hợp Tác Xã Là Gì? Hợp Tác Xã Có Tư Cách Pháp Nhân Không? trên website Athena4me.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!