Cập nhật nội dung chi tiết về Hệ Thống Pháp Luật Việt Nam mới nhất trên website Athena4me.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Hệ thống pháp luật Việt Nam là tổng thể các quy phạm pháp luật, các nguyên tắc, định hướng và mục đích của pháp luật có mối liên hệ mật thiết và thống nhất với nhau, được phân định thành các ngành luật, các chế định pháp luật và được thể hiện trong các văn bản do cơ quan nhà nước Việt Nam có thẩm quyền ban hành theo những hình thức, thủ tục nhất định. Việt Namcó hệ thống pháp luật phức tạp nhất thế giới, nó được đặc trưng bởi sự rườm rà, yếu kém, tính thiếu đồng bộ, sự chồng chéo, mâu thuẫn, thiếu tính thực tiễn, không có tính khả thi, không đi vào cuộc sống, không có tư duy và tầm nhìn và mang đậm lợi ích nhóm.
Việc gọi tên hệ thống pháp luật có nhiều quan điểm khác nhau, trong đó, có quan điểm cho rằng, hệ thống pháp luật bao gồm hai bộ phận là công pháp và tư pháp, quan điểm khác cho rằng cần phải phân biệt hai khái niệm: Hệ thống pháp luật và hệ thống pháp luật thực định và quan điểm chỉ có một khái niệm hệ thống pháp luật, không thể phân biệt rõ nét hai khái niệm hệ thống pháp luật và hệ thống pháp luật thực định. Theo quan điểm này, hệ thống pháp luật có nội dung rất rộng, bao gồm hệ thống quy phạm pháp luật hiện hành và những nguồn khác nữa của pháp luật tồn tại trên thực tế mà dựa trên cơ sở đó tính hiện thực của pháp luật được bảo đảm và pháp luật phát huy hiệu lực.
Theo quan điểm này hệ thống pháp luật là một khái niệm chung bao gồm hai mặt cụ thể là: Hệ thống cấu trúc của pháp luật và hệ thống văn bản pháp luật (hệ thống nguồn của pháp luật).
Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam bao gồm:
Hệ thống cấu trúc của pháp luật Việt Nam gồm có 3 thành tố cơ bản gồm:
Quy phạm pháp luật (đơn vị cơ bản trong hệ thống cấu trúc)
Chế định pháp luật (tập hợp các quy phạm pháp luật có cùng tính chất)
Ngành luật (tập hợp các quy phạm pháp luật có đặc tính chung để điều chỉnh các quan hệ xã hội trong một lĩnh vực nhất định của đời sống xã hội). Ở Việt Nam có 12 ngành luật sau đây:
Hệ Thống Pháp Luật Hình Sự Việt Nam
Đặc biệt, từ năm 2016, Tòa án nhân dân tối cao đã lựa chọn các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án, tổng kết, phát triển thành án lệ để áp dụng trong xét xử. Việc phát triển án lệ được coi là một trong những dấu ấn cải cách tư pháp, là phương thức hữu hiệu để đảm bảo áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử, tạo lập tính ổn định, minh bạch và công bằng trong các phán quyết của Tòa án theo tinh thần của Nghị quyết số 04-NQ/TW ngày 2 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 và Hiến pháp năm 2013. Cũng từ năm 2016, Tòa án nhân dân tối cao đã tổng hợp các vướng mắc, kiến nghị của địa phương để kịp thời nghiên cứu, ban hành các giải đáp vấn đề nghiệp vụ để áp dụng thống nhất trong khi chờ ban hành các nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
Giải đáp một số vấn đề về hình sự, tố tụng hình sự, dân sự, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính
Cháy là một thảm họa đối với con người, xã hội và môi trường, gây thiệt hại lớn về tài sản của Nhà nước, tổ chức và cá nhân. Phòng, chống cháy, nổ là một việc làm cấp thiết, nhất là ở thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Phòng cháy và chữa cháy là trách nhiệm của mỗi cơ quan, tổ chức, hộ gia đình và cá nhân. Đây cũng là một biện pháp thiết thực nhằm bảo đảm an toàn tuyệt đối tính mạng người lao động, bảo vệ môi trường, bảo đảm an ninh và trật tự an toàn xã hội, đồng thời cũng tránh được những thiệt hại không đáng có về tiền bạc, tài sản của Nhà nước và nhân dân.
Nội dung cuốn sách bao gồm những phần chính sau:
PHẦN I. LUẬT PHÒNG CHÁY, CHỮA CHÁY VÀ SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC PHÒNG CHÁY, CHỮA CHÁY
PHẦN II. HƯỚNG DẪN TIẾP NHẬN, XỬ LÝ THÔNG TIN BÁO CHÁY VÀ TRIỂN KHAI HOẠT ĐỘNG CHỮA CHÁY
PHẦN III. QUẢN LÝ CHI PHÍ THẨM DUYỆT THIẾT KẾ VÀ KIỂM ĐỊNH PHƯƠNG TIỆN PHÒNG CHÁY, CHỮA CHÁY
PHẦN IV. QUY CHẾ GIÁM SÁT VÀ BẢO ĐẢM AN TOÀN PHÒNG CHÁY, CHỮA CHÁY
PHẦN V. NGUYÊN TẮC QUẢN LÝ, BẢO QUẢN, BẢO DƯỠNG PHƯƠNG TIỆN PHÒNG CHÁY, CHỮA CHÁY
CÔNG TÁC TRANG BỊ PHƯƠNG TIỆN VÀ TRANG PHỤC PHÒNG CHÁY, CHỮA CHÁY CHO CÁC LỰC LƯỢNG CHUYÊN NGÀNH
Khái Quát Về Hệ Thống Pháp Luật Việt Nam
Bài này sẽ trình bày cơ sở hình thành hệ thống pháp luật Việt Nam, các căn cứ phân chia ngành luật và giới thiệu tổng quát về các ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
Nhà nước trong quá trình quản lý xã hội, ban hành rất nhiều văn bản quy phạm pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội. Toàn bộ các quy phạm trong các văn bản Pháp luật không ở trong trạng thái hỗn độn, vô trật tự mà chúng được sắp xếp trong một hệ thống chặt chẽ và có mối liên hệ gắn bó mật thiết. Vì vậy trước khi tìm hiểu chi tiết các ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam, chúng ta cần tìm hiểu và phân tích các khái niệm cơ bản về hệ thống pháp luật.
Theo quan điểm học thuyết Mác -Lênin, cần dựa trên quan điểm duy vật biện chứng và lý thuyết hệ thống để xem xét khái niệm hệ thống pháp luật. Trên quan điểm này, hệ thống pháp luật được định nghĩa như sau:
Hệ thống pháp luật là tổng thể các quy phạm pháp luật có mối liên hệ nội tại thống nhất với nhau được phân định thành các chế định Pháp luật và các ngành luật và được thể hiện trong các văn bản do Nhà nước ban hành theo những trình tự và hình thức nhất định.
Theo lý thuyết về hệ thống thì hệ thống pháp luật hay bất cứ hệ thống nào đều có những yếu tố cấu thành. Các yếu tố này thể hiện trong hệ thống pháp luật ở 2 mặt là: các bộ phận mang tính cấu trúc bên trong hệ thống và mặt thể hiện bên ngoài của hệ thống.
1.1. Cấu trúc bên trong Hệ thống pháp luật
Các bộ phận cấu trúc bên trong hệ thống pháp luật gồm: Quy phạm pháp luật, Chế định Pháp luật và Ngành luật.
Quy phạm pháp luật là những quy tắc xử sự mang tính bắt buộc do Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các hành vi trong xã hội theo định hướng của Nhà nước. Là phần tử nhỏ nhất trong hệ thống pháp luật.
Chế định Pháp luật là nhóm những quy phạm pháp luật điều chỉnh một nhóm các quan hệ xã hội cùng loại có quan hệ mật thiết với nhau.
Ngành luật là tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội trong một lĩnh vực nhất định của đời sống.
1.2. Mặt thể hiện bên ngoài của Hệ thống pháp luật
Mặt thể hiện bên ngoài của hệ thống pháp luật là hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, bao gồm các văn bản luật và văn bản dưới luật được sắp xếp theo trật tự thứ bậc, hiệu lực pháp lý trong một hệ thống.
2. Căn cứ phân định ngành luật
Xuất phát từ quan điểm duy vật, khoa học pháp lý xã hội chủ nghĩa quan điểm rằng: có sự khác biệt trong mỗi lĩnh vực quan hệ xã hội cần được Pháp luật điều chỉnh. Mỗi ngành luật chỉ điều chỉnh một lĩnh vực quan hệ xã hội và cần có những cách thức, phương pháp điều chỉnh phù hợp, do đó Pháp luật xã hội chủ nghĩa căn cứ vào đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh để phân định các ngành luật.
2.1. Đối tượng điều chỉnh
Đối tượng điều chỉnh là những quan hệ xã hội chịu sự tác động của luật pháp.
Ví dụ: quan hệ lao động giữa người sử dụng lao động và người lao động, Nhà nước sử dụng những quy phạm điều chỉnh hành vi các bên trong quan hệ lao động, những quy phạm này hợp thành ngành Luật Lao động.
2.2. Phương pháp điều chỉnh
Phương pháp điều chỉnh là cách thức luật pháp tác động vào mối quan hệ xã hội đã được điều chỉnh (đối tượng điều chỉnh).
Ví dụ: Trong quan hệ kinh tế phương pháp điều chỉnh là thỏa thuận, bình đẳng còn trong quan hệ hình sự là phương pháp mệnh lệnh quyền uy.
3. Các ngành luật trong hệ thống Pháp luật Việt Nam
3.1. Sơ lược về hệ thống pháp luật Việt Nam
Hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay hình thành và phát triển gắn liền với lịch sử đấu tranh giành độc lập và xây dựng đất nước. Bản tuyên ngôn độc lập ngày 02/09/1945, khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa cũng là văn bản pháp lý đầu tiên đặt nền tảng cho việc xây dựng hệ thống pháp luật nước ta hiện nay.
Theo sự phát triển của đất nước qua các thời kỳ, hệ thống pháp luật nước ta có sự phát triển ngày càng hoàn thiện hơn.
Giai đoạn từ 1945 đến 1954: Việt Nam đã có Hiến pháp 1946 là Hiến pháp đầu tiên trong lịch sử dân tộc và các văn bản Pháp luật nhưng vẫn còn hạn chế, chưa hình thành đầy đủ các ngành luật.
Giai đoạn từ 1954 đến 1986: Nhà nước xây dựng và phát triển hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Tính ưu việt của Pháp luật xã hội chủ nghĩa được phát huy. Tuy nhiên trong giai đoạn này vẫn còn những hạn chế về cơ chế tập trung, bao cấp làm chậm sự phát triển kinh tế đất nước.
Giai đoạn từ 1986 đến nay: Quan điểm đổi mới đã khắc phục được những nhược điểm trước đó, hệ thống pháp luật có đầy đủ các ngành luật điều chỉnh hầu hết các quan hệ xã hội. Văn bản quy phạm pháp luật ban hành kịp thời và phù hợp với sự phát triển kinh tế của đất nước.
3.2. Các ngành luật trong hệ thống Pháp luật nước ta hiện nay
Hiện nay, các ngành luật trong hệ thống pháp luật nước ta chia thành:
Nhóm ngành luật quốc nội gồm 11 ngành luật và nhóm ngành luật quốc tế gồm 2 ngành luật.
– Nhóm ngành luật quốc nội
3.2.1. Luật Hiến pháp
Luật Hiến pháp gồm tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ cơ bản về tổ chức quyền lực Nhà nước, về chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa-xã hội, chế độ bầu cử, quyền và nghĩa vụ công dân… Đây là ngành luật quan trọng nhất của quốc gia, là nền tảng để xây dựng các ngành luật khác.
3.2.2. Luật Hành chính
Luật Hành chính gồm tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội hình thành trong quá trình tổ chức và thực hiện hoạt động chấp hành và điều hành của Nhà nước trên các, lĩnh vực hành chính, chính trị kinh tế và văn hóa xã hội.
3.2.3. Luật Tài chính
Luật Tài chính gồm tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình Nhà nước động viên, phân phối và sử dụng những nguồn vốn tiền tệ, bảo đảm cho việc thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước cũng nhưđáp ứng các nhu cầu kinh tế khác.
3.2.4. Luật Hình sự
Gồm tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội do các hành vi bị xem là tội phạm và hình phạt tương ứng đối với người phạm tội.
3.2.5. Luật Tố tụng Hình sự
Gồm những quy phạm pháp luật quy định những nguyên tắc, thủ tục, điều kiện trong việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án các vụ án hình sự, quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng hình sự.
3.2.6. Luật Dân sự
Gồm tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ tài sản hoặc các quan hệ nhân thân phi tài sản phát sinh giữa các cá nhân hoặc giữa cá nhân với tổ chức trong quá trình sinh hoạt, phân phối và tiêu dùng.
3.2.7. Luật Tố tụng Dân sự
Gồm tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ thủ tục phát sinh giữa Tòa án với những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết các vụ án dân sự.
3.2.8. Luật Hôn nhân và Gia đình
Gồm tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản do việc kết hôn, ly hôn giữa nam và nữ, quyền và nghĩa vụ của cha mẹ, con cái, các quy định về đỡ đầu và nuôi con nuôi nhằm mục đích bảo đảm chế độ hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, bình đẳng giữa nam và nữ, xây dựng gia đình hạnh phúc, văn minh.
3.2.9. Luật Lao động
Gồm tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ lao động phát sinh giữa người sử dụng lao động và người lao động, quan hệ bảo hiểm, bồi thường thiệt hại và quan hệ giải quyết các tranh chấp lao động.
3.2.10. Luật Đất đai
Gồm tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội hình thành trong việc quản lý và sử dụng đất đai, các quan hệ phát sinh trong quá trình bảo vệ, quản lý và khai thác tài nguyên đất đai.
3.2.11. Luật Kinh tế
Gồm tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh giữa các đơn vị kinh tế với nhau và giữa các đơn vị kinh tế với các cơ quan quản lý Nhà nước về kinh tế.
3.2.12. Luật Quốc tế
Pháp luật quốc tế bao gồm: Công pháp quốc tế và Tư pháp quốc tế
Công pháp quốc tế là hệ thống các nguyên tắc và quy phạm pháp luật do các quốc gia và các chủ thể khác của luật quốc tế thỏa thuận nên và bảo đảm thi hành trên cơ sở thỏa thuận tự nguyện và bình đẳng nhằm điều chỉnh các quan hệ giữa các chủ thể luật quốc tế.
Tư pháp quốc tế gồm những nguyên tắc và những quy phạm pháp luật điều chỉnh những quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động và tố tụng dân sự có yếu tố nước ngoài.
TÓM LƯỢC
Hệ thống pháp luật là tổng thể các các quy phạm pháp luật có mối liên hệ nội tại thống nhất với nhau được phân định thành các chế định Pháp luật và các ngành luật và được thể hiện trong các văn bản do Nhà nước ban hành theo những trình tự và hình thức nhất định.
Các bộ phận cấu trúc bên trong hệ thống pháp luật gồm: Quy phạm pháp luật, Chế định pháp luật và Ngành luật.
Mặt thể hiện bên ngoài của hệ thống pháp luật: là hệ thống văn bản quy phạm pháp luật.
Pháp luật xã hội chủ nghĩa căn cứ vào đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh để phân định các ngành luật.
Các ngành luật trong hệ thống pháp luật nước ta chia thành: Nhóm ngành luật quốc nội gồm 11 ngành luật (Luật Hiến pháp, Luật Hành chính, Luật Tài chính, Luật Hình sự, Luật Tố tụng Hình sự, Luật Dân sự, Luật Tố tụng Dân sự, Luật Hôn nhân và Gia đình, Luật Lao động, Luật Kinh tế, Luật Đất đai) và nhóm ngành luật quốc tế gồm 2 ngành luật (Công pháp quốc tế và Tư pháp quốc tế).
Những Điểm Hạn Chế Của Hệ Thống Pháp Luật Việt Nam
Những điểm hạn chế của hệ thống pháp luật Việt Nam. Đề bài và bài làm Bài tập cá nhân môn học Xây dựng văn bản pháp luật đạt điểm cao xuất sắc tại Đại học Luật Hà Nội 9 điểm.
Hệ thống pháp luật Việt Nam từ thập niên 90 của thế kỷ XX trở lại đây đã có sự phát triển mạnh mẽ, với nhiều thành tựu to lớn. Bên cạnh những thành tựu đạt được, hệ thống pháp luật Việt Nam cũng đã và đang bộc lộ những khiếm khuyết, trong đó có vấn đề thiếu tính thống nhất trong pháp luật.
Thứ nhất, hệ thống pháp luật Việt Nam đa dạng về thể loại văn bản và lớn về số lượng văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL). Trước thời điểm ban hành Luật Ban hành VBQPPL năm 2008, hệ thống pháp luật có 26 loại văn bản được xác định là VBQPPL. Số lượng các VBQPPL như vậy là nhiều và vẫn quá đa dạng.
Thứ ba, tuổi đời của các VBQPPL ở Việt Nam thường không dài. Về nguyên nhân khách quan, việc chuyển từ cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường dẫn tới việc các quan hệ xã hội thay đổi nhanh chóng. Theo đó, các quy phạm pháp luật thường nhanh lạc hậu so với thực tiễn. Về nguyên nhân chủ quan, do thiếu một cơ chế phối hợp toàn diện, nên khi xây dựng các VBQPPL, trong một số trường hợp, lợi ích ngành, lợi ích nhóm, lợi ích địa phương… được đặt lên trên, hệ quả là các quy phạm pháp luật được ban hành trong những trường hợp như vậy không đáp ứng được yêu cầu điều chỉnh các quan hệ xã hội.
Thứ tư, nhiều VBQPPL có tính quy phạm thấp. Bản chất của quy phạm pháp luật là để xác định mô hình hành vi, xác định những quy tắc xử sự cụ thể mà chủ thể phải thực hiện. Nhưng trên thực tế, có những văn bản chứa đựng những quy định mang tính tuyên ngôn hơn là quy phạm pháp luật.
Thứ năm, tính hệ thống của pháp luật còn rất hạn chế. Các văn bản luật, các văn bản có giá trị pháp lý thấp hơn luật chưa thực sự tạo thành một chỉnh thể với những nguyên tắc chỉ đạo xuyên suốt mang tính chuyên ngành hoặc liên ngành. Những mâu thuẫn giữa Luật Nhà ở, Luật Đất đai, Bộ luật Dân sự về một số vấn đề (như: hiệu lực các giao dịch, về căn cứ xác định sở hữu, đăng ký quyền sở hữu) là ví dụ cho tính hệ thống thấp của pháp luật hiện hành ở nước ta.
Thứ sáu, tính kịp thời của hệ thống pháp luật còn thấp, một số lĩnh vực ở nước ta chưa có luật điều chỉnh như: lĩnh vực bảo vệ người tiêu dùng, chuyển đổi giới tính…
Về mặt nội dung, trước tiên, tính thống nhất của pháp luật đòi hỏi pháp luật phải bảo đảm sự nhất quán. Điều này thể hiện ở chỗ các văn bản pháp luật trong cùng một lĩnh vực, hoặc trong nhiều lĩnh vực khác nhau, đều thống nhất trong việc xác lập mô hình hành vi. Tránh tình trạng văn bản luật thì cho phép nhưng xuống đến văn bản hướng dẫn thi hành luật lại không cho phép, đồng thời, văn bản luật và văn bản có giá trị pháp lý thấp hơn luật đều phải phù hợp với Hiến pháp.
Mặt khác, pháp luật phải bảo đảm thực hiện quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của chủ thể. Ví dụ, quyền sở hữu của công dân được Hiến pháp quy định phải được bảo đảm bởi các luật và văn bản có giá trị pháp lý dưới luật. Tuy nhiên, việc thành phố Hà Nội đưa ra quy định hạn chế công dân sở hữu xe máy, xe ô tô những năm trước đây là không bảo đảm tính nhất quán của hệ thống pháp luật.
Về phương diện hình thức, tính thống nhất của hệ thống pháp luật còn được thể hiện qua cấu trúc, cách sắp xếp, phân loại thứ bậc, hiệu lực của quy phạm pháp luật. Cũng là các quy phạm cùng điều chỉnh về một quan hệ, nhưng tính thống nhất đòi hỏi những quy phạm pháp luật được quy định trong Hiến pháp phải có giá trị pháp lý cao nhất, sau với đến những quy phạm pháp luật được chứa đựng trong các bộ luật và luật, thứ nữa mới đến các quy phạm pháp luật chứa đựng trong các VBQPPL khác.
Ở phương diện khác, khi xem xét tính thống nhất, cần đặt VBQPPL trong mối tương quan với toàn bộ hệ thống pháp luật. Khi xem xét tính thống nhất của hệ thống pháp luật, cần xem xét tính thống nhất giữa các quy phạm pháp luật, các chế định pháp luật trong cùng một ngành luật và với các ngành luật khác. Điều này là rất quan trọng vì: pháp luật Việt Nam tuy được chia ra thành các ngành luật nhưng trên thực tế, xã hội là tổng hòa các mối quan hệ xã hội, nên giữa các quy phạm pháp luật luôn có mối liên hệ mật thiết với nhau, dù thuộc về các ngành luật khác nhau.
Tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật còn được xem xét trong mối quan hệ giữa luật chung và luật chuyên ngành, luật nội dung và luật hình thức,… Bởi vậy, việc xem xét về tính thống nhất của hệ thống pháp luật đòi hỏi phải có một cái nhìn bao quát, toàn diện ở nhiều góc độ, nhiều cấp độ khác nhau. Tính thống nhất của hệ thống pháp luật đòi hỏi phải loại bỏ mâu thuẫn, trùng lặp hay chồng chéo ngay trong bản thân hệ thống, trong mỗi ngành luật, mỗi chế định pháp luật và giữa các quy phạm pháp luật với nhau, xác định ranh giới giữa các ngành luật và định ra một hệ thống quy phạm pháp luật đồng bộ.
Muốn pháp luật là cơ sở để hướng dẫn hành vi, thống nhất hành vi của các chủ thể khi tham gia vào các quan hệ pháp luật, tạo lập trật tự, hệ thống pháp luật của một quốc gia nói chung, pháp luật phải bảo đảm tính thống nhất. Chỉ trong điều kiện hệ thống pháp luật bảo đảm sự thống nhất mới tránh được việc các chủ thể lựa chọn hành vi nào có lợi cho mình khi họ tham gia vào các quan hệ pháp luật và điều này tạo nên sự xung đột trong hành vi xử sự của các chủ thể pháp luật, là căn nguyên của sự xung đột pháp luật. Tính thống nhất của hệ thống pháp luật phản ánh tính thống nhất của hệ thống khách thể mà chúng điều chỉnh, rộng hơn là phản ánh sự thống nhất của thị trường, sự thống nhất của một quốc gia.
Bạn đang đọc nội dung bài viết Hệ Thống Pháp Luật Việt Nam trên website Athena4me.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!