Đề Xuất 5/2023 # Giới Luật Theo Tinh Thần Phật Giáo # Top 12 Like | Athena4me.com

Đề Xuất 5/2023 # Giới Luật Theo Tinh Thần Phật Giáo # Top 12 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Giới Luật Theo Tinh Thần Phật Giáo mới nhất trên website Athena4me.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Luật lệ thế gian có tính bắt buộc và ai phạm lỗi sẽ bị trừng trị theo luật lệ đã ban hành, nhưng cho dù luật lệ có tốt cách mấy cũng không tránh khỏi mặt tiêu cực bởi nó có thể thích hợp với người xấu nhưng lại cản trở quyền tự do của người tốt. Đó là chưa nói tới những luật lệ quá khắt khe, những hình phạt quá tàn ác của những kẻ cầm quyền độc tài. Dù thế nào đi nữa khi đã sinh ra làm ” con dân” sống trong cộng đồng quốc gia nào thì phải tuân thủ luật lệ của quốc gia đó, không có sự chọn lựa.

– Giới tiếng Pàlilà “Sila” phiên âm là Thi-La, được hiểu Là lời dạy, sự ngăn cấm, quy luật do Đức Phật chế định nhằm khuyên con người về hai mặt:

: “Sila” là những lời dạy của Đức Phật nhằm hướng dẫn đệ tử tránh làm những điều ác, làm những điều lành, tu tập thân-khẩu-ý thanh tịnh, diệt trừ tham sân si đưa đến sự an lạc giải thoát cho chính mình.

Về phương diện đạo đức, theo ngài Phật Âm (Buddhaghosa) cho rằng “Sila” có nghĩa là “Giới hạnh”. Giới hạnh là gì? Đó là một con người sống đạo đức với một tâm sở thánh thiện, xa lánh việc sát sanh, không trộm cướp, không có hành động phá hoại đời sống hạnh phúc của người khác v.v.. Có thể nói đó là một người tu tập thực hành viên mãn các học Giới do đức Phật chế định.

– Luật tiếng Phạn là “Vinaya” phiên âm là Tỳ-nại-da, ngắn gọn là Tỳ-ni. Dịch nghĩa là điều phục, chế ngự, nhiếp phục, diệt (trừ điều ác) hay là kỷ luật (discipline) gồm những nguyên tắc, những phương thức quy định thực hành cho đời sống trong tập thể Tăng đoàn do Phật ban hành, được ghi lại trong Luật tạng.

Trong “Tam vô lậu học: Giới-Định-Huệ”, Giới là nền tảng của thiền Định và Trí tuệ. Nhờ Giới, tâm mới Định, tâm có Định, Huệ mới phát sanh, Huệ có phát sanh mới trừ dứt được vô minh phiền não, vô minh phiền não có dứt trừ thì mới minh tâm kiến tánh. Nói đến tầm quan trọng của Giới, trong Trường Bộ Kinh, Đức Phật đã dặn dò Ngài Ananda như sau: “Này Ananda , Pháp và Luật Ta đã giảng dạy và trình bày. Sau khi Ta diệt độ, Chánh Pháp và Giới Luật ấy sẽ là Đạo Sư của các ngươi”. Như vậy Luật không thể tách rời ra khỏi Pháp. Luật là một phần Giáo Pháp của Đức Phật Thích Ca để lại. Ngài cũng đã để lại lời di chúc khẩn thiết trước khi nhập Niết Bàn: ” Sau khi ta diệt độ, các người tu hành phải tôn kính Giới Luật làm Thầy; dầu ta còn tại thế để dạy dỗ các người mấy ngàn đời đi nữa, ta cũng không thêm điều nào ngoài Giới Luật”.

1) Để đem lại sự tốt đẹp cho Tăng chúng.

2) Để đem lại sự an vui cho Tăng chúng.

3) Để kiềm chế những người xấu.

4) Để đem lại lạc trú cho các Tỳ Kheo đức hạnh.

6) Để tiêu trừ các lậu hoặc trong tương lai.

7) Để đem lại niềm tin cho những người chưa có niềm tin.

8) Để làm tăng trưởng niềm tin cho những người đã tin.

CÁC LOẠI GIỚI LUẬT TRONG ĐẠO PHẬT

Trong Tam Tạng Kinh Điển gồm có: Kinh tạng (Sutta-pitaka), Luật tạng (Vinaya-pitaka) và Luận Tạng (Abidhamma-pitaka). Về mặt Lý thuyết thì Giới Luật chiếm 1/3 trong Tam Tạng Kinh Điển. Về mặt thực hành thì Giới đóng một vai trò mấu chốt trong Tăng đoàn.

NGŨ GIỚI

Năm giới đó là:

2) Không trộm cắp: Không xâm phạm đến của cải của người khác, theo đó phải tôn trọng của cải của người khác.

3) Không tà hạnh: Không xâm phạm đến danh tiết của người khác, theo đó phải tôn trọng thân thể của người khác.

4) Không nói dối: Sẽ không xâm phạm đến danh dự người khác.

GIỚI BÁT QUAN TRAI

“Bát” là tám, “Quan” là cửa. “Trai” nghĩa là khi qua giờ ngọ (12 giờ trưa) không được ăn. Vậy Bát Quan Trai Giới là sự giữ gìn cho thân tâm được thanh tịnh trong 24 giờ, ngăn chận 8 điều tội lỗi bằng cách thọ 8 giới cấm, đồng thời phát huy 8 điều thiện lành do Đức Phật chỉ định.

Hoà Thượng Thích Tuệ Sỹ định nghĩa: “Bát Quan Trai nghĩa đen là 8 điều kiêng cữ, như là 8 cửa ải chận đứng các pháp bất thiện. Giới Bát Quan Trai chính xác được gọi là “giới cận trụ “, nghĩa là sống gần đời sống xuất gia, gần chùa chiền, gần nơi thanh tịnh. Tập quen với đời sống thanh tịnh. Cao hơn nữa “cận trụ” được hiểu là tập sống gần đời sống một vị A-La-Hán là bậc Thánh xuất thế gian”.

Bát Quan Trai giới là phương pháp tu tập của người tại gia, thọ trì 8 giới, áp dụng trong một ngày một đêm tức 24 tiếng đồng hồ. Mỗi tháng có 6 ngày thọ giới là mồng 8, 14, 15, 23, 29, 30 hoặc 8 ngày nếu thêm mồng 7 và 22. Hiệu lực của sự thọ giới phân làm hai loại:

1) Phát nguyện thọ rồi thì trì suốt đời cho đến khi chết thì giới tự động xả, hoặc chưa chết nhưng không còn tin tưởng, không còn thích thú trong việc trì giới, tự mình tuyên bố xả giới, hay bỏ Phật Pháp Tăng, bấy giờ giới thể cũng mất.

2) Giới một ngày một đêm, đó là “giới cận trụ”. Sau khi thọ, giới thể chỉ tồn tại luân lưu trong thâm tâm người thọ giới một ngày một đêm, từ khi mặt trời mọc hôm nay đến mặt trời mọc hôm sau. Hết thời hạn này, giới tự động xả. Hiện nay mốc khởi đầu của một ngày để thọ giới quan trai có thể ấn định từ 6 giờ sáng hôm nay tới 6 giờ sáng hôm sau. Sau 24 giờ dù có lên chùa làm lễ hay không, giới vẫn tự động xả. Giới Bát Quan Trai không thể tự thọ, mà phải thọ từ một Sa di hay Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni.

Hoà Thượng Tuệ Sỹ phân chia nội dung 8 giới thành 4 loại. Đó là: Giới Tự Tánh (gồm 4 chi), Giới ngăn trừ phóng dật (1 chi là cấm uống rượu), Giới ngăn trừ tánh kiêu mạn (gồm 2 chi) và một chi thuộc Giới thể của Bát Quan Trai.

Giới tự tánh

1) Như hạnh Phật ngày đêm không Sát sinh.

2) Như hạnh Phật ngày đêm không trộm cướp.

3) Như hạnh Phật ngày đêm không dâm dục (chi này khác với cư sĩ thọ Ngũ Giới. Trong Ngũ Giới, Đức Phật cấm vợ chồng không được liên hệ tà dâm với người ngoài. Nhưng trong “Bát Quan Trai” thì việc quan hệ vợ chồng ân ái bị cấm luôn, nghĩa là cấm hành động dâm dục trong thời gian thọ giới một ngày một đêm)

4) Như hạnh Phật ngày đêm không vọng ngữ.

Giới trừ phóng dật

5) Như hạnh Phật ngày đêm không uống rượu:Cấm dùng những chất say, những chất khiến tâm buông lung không kiểm soát được. Trong Ngũ giới chi tránh uống rượu (thọ trọn đời) là phòng hộ để không bị say sưa, mất tự chủ dẫn đến nhiều hành động sai phạm xấu ác khác. Còn trong Bát Quan Trai giới, chi này trở thành năng lực tỉnh giác, ngăn trừ sự phóng dật, buông lung xao lãng.

Giới ngăn trừ kiêu mạn, gồm 2 chi

6) Như hạnh Phật ngày đêm không trang điểm, dầu thơm, múa hát và xem hát:Tập hạnh sống tự nhiên chân thật không giả dối không tự đề cao tự mãn với những vẽ hào nhoáng đẹp đẽ giả tạo bề ngoài, cũng không để tâm đắm chìm trong cảnh múa hát, kịch diễn trên sân khấu khiến cho mình xa rời tự tánh thanh tịnh.

7) Như hạnh Phật ngày đêm không nằm ngồi giường cao rộng đẹp:Không chiều chuộng, cho phép bản thân hưởng thụ nệm ấm chăn êm giường cao rộng đẹp rồi đắm tâm ưa thích dính vào tham dục quên việc tu hành.

Thể của Bát Quan Trai THẬP THIỆN GIỚI

Đức Phật dạy chúng ta tu thập thiện để tạo nhân duyên, có đầy đủ phước báo để đời này được sống an vui hạnh phúc và đời sau cũng được an lạc bình yên sung sướng. Ngoài ra tu thập thiện còn là một nấc thang quan trọng trên con đường tu tập tiến hoá của tâm linh.

Tu có hai phần: Chỉ và Hành. Chỉ là ngưng mọi hành động bất thiện xấu ác hại mình hại người. Hành là làm việc thiện lành, giữ đúng giới luật mang lại an vui hạnh phúc cho mình và cho người.

Thập thiện giới gồm:

7) Trọn đời không nói lời thêu dệt (ỷ ngữ): Không dùng lời hoa mỹ hoặc lý lẽ ngụy biện bóp méo sự thật vì quyền lợi riêng.

8) Trọn đời không tham dục: Không tham trước tình dục trần cảnh, nuôi lớn tâm thanh tịnh phạm hạnh.

10) Trọn đời không tà kiến: Không bảo thủ chấp trước, không mê tín dị đoan, không đoạn kiến, thường kiến, mà luôn tu tập chánh kiến.

BỒ TÁT GIỚI

Bồ Tát là tiếng gọi tắt của “Bồ Đề Tát Đoả” dịch âm từ tiếng Phạn Bodhisattva. “Bồ đề” dịch là ” giác”, “tát đoả” dịch là “hữu tình”, hợp lại gọi là “giác hữu tình”, có nghĩa là bất cứ đệ tử nào của Phật, hễ phát tâm “trên cầu Phật đạo, dưới độ hữu tình” thì kẻ đó được gọi là Bồ Tát.

Có 2 trường hợp mất Giới Bồ Tát, đó là: 1) Cố ý sát nhân không biết hỗ thẹn, sám hối, 2) Xả Bồ Đề tâm, ví dụ như nói: “Tôi không tin việc làm của Phật, không tin Tam Bảo và không phát tâm Bồ Đề nữa.”

Sáu giới trọng (tội nặng):

6) Từ thân này đến thân thành Phật, ở trong khoảng giữa không được bán rượu, nấu rượu.

2) Say đắm rượu chè.

3) Cố ý gớm ghê không chăm sóc người bệnh khổ.

5) Không đứng dậy nghinh tiếp hỏi thăm khi thấy Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Trưởng lão, bậc Tôn đức, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di.

6) Nếu thấy Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Trưởng lão, bậc Tôn đức, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di, hủy phạm giới đã thọ, sinh tâm kiêu mạn, rồi nói rằng: “Ta hơn người kia, người kia không bằng ta”.

8) Trong vòng 80 dặm, nơi có thuyết pháp, mà không đến nghe.

10) Nghi ngờ trong nước có vi trùng nhưng vẫn tuỳ tiện dùng.

11) Không có bạn mà vẫn một mình đi vào nơi hiểm nạn.

13) Vì của cải, thân mạng mà đánh mắng người giúp việc, trẻ con hầu hạ hoặc người ngoài…

15) Nuôi những loài ăn thịt như mèo, chồn…

18) Làm nghề canh tác sinh sống, không tìm chỗ nước sạch, đất cao ráo để trồng trọt.

20) Hành dục không đúng chỗ đúng thời.

22) Vi phạm luật pháp nhà nước.

23) Có lúa mới, hoa trái, dưa rau các thứ đầu muà, không hiến cúng Tam Bảo mà thọ dụng trước.

27) Nuôi tằm lấy tơ.

28) Đi đường gặp người bệnh, không tìm phương tiện chăm sóc, hoặc nhờ người khác chăm sóc.

GIỚI CỦA NGƯỜI XUẤT GIA

Là giới dành cho những người mang lý tưởng “trên cầu Phật đạo, dưới độ chúng sanh”. Những người này pháttâmrời bỏ gia đình cạo râu cạo tóc, khoác áo nâu sòng, sống đời phạm hạnh, theo đúng con đường Đức Phật đã đi. Nhưng là người phàm trần đã từng gieo nhiều nghiệp xấu khi xưa , nên trong một đời một kiếp không dễ gì thoát khỏi Luật Nhân Quả, nói chi là đạt quả Thánh quả Phật. Cho nên dù đã phát tâm rời bỏ ngôi nhà lửa, vẫn có lúc bị nghiệp lôi kéo, tâm tình lên xuống, khi hành trì thiền định nghiêm mật, lúc lo ra phóng dật phạm lỗi nên không bao giờ phát huy được Trí Huệ tâm linh. Vì thế người xuất gia vẫn cần phải thọ trì Giới Luật của Đức Phật chế định để giúp mình giữ gìn sự trong sạch thân tâm, phát huy thiền định.

Việc học hành ngoài đời bắt đầu từ lớp thấp rồi mới lên lớp cao. Vấn đề tu hành cũng thế, từ dễ đến khó, từ thấp lên cao. Sa-di hay Sa-di-ni là những người mới tu tập nên chỉ thọ trì 10 giới. Tỳ-Kheo thọ 250 giới, Tỳ-Kheo-Ni thọ 348 giới theo Đại thừa Phát triển. Tỳ-Kheo 227 giới, Tỳ-Kheo-Ni thọ 311 giới theo hệ Theravàda.

Tăng đoàn Tỳ-Kheo là những nam tu sĩ gồm có Tỳ-Kheo (bhikkhu) là những thành viên chính thức trong giáo hội tăng già, đã thọ Cụ Túc Giới (upasampadà). Kế đến là Sa-di thành phần xuất gia đang tập sự để thành bậc Tỳ-Kheo. Những vị này chưa thọ Cụ Túc Giới (anusampanna).

Thời kỳ Phật còn tại thế, mới đầu trong Tăng đoàn không có Sa-di. Sự xuất hiện Sa-di trong Phật giáo sớm hơn sự xuất hiện của Tỳ-Kheo-Ni. Đó là lúc La-Hầu-La con của Đức Phật theo Phật xuất gia mới bắt đầu có Sa-di. Sa-di là cấp bậc đầu tiên của người xuất gia.

2) Ứng pháp Sa-di: Từ 14 tuổi đến 19 tuổi được gọi là Ứng Pháp Sa-di, tức Sa-di thực thụ học tập đầy đủ các phận sự của người xuất gia.

3) Danh tự Sa-di: Từ 20 tuổi đến 70 tuổi được gọi là Danh tự Sa-di, tức Sa-di trên danh nghĩa. Những vị lớn tuổi từ 60 đến 70 tuổi muốn xin xuất gia, Đức Phật cho phép nhưng không cho thọ Cụ Túc Giới.

Hai chủng loại Sa-di là:

1) Hình đồng Sa-di: Người có tướng mạo và cốt cách trông giống như Sa-di nhưng không đủ tư cách thọ lãnh giới pháp chẳng hạn như bị căn tật, cơ thể không tròn đủ v.v…

2) Pháp đồng Sa-di: Đây là chân thật Sa-di, do thọ trì giới pháp Sa-di mà thành Sa-di.

NỘI DUNG CỦA SA DI THẬP GIỚI CÁC GIỚI KHÁC CỦA NGƯỜI XUẤT GIA – Thức Xoa Ma Na:

Sáu giới này đều có trong 10 giới của Sa-di-ni. Theo Luật tông thì đây không phải là giảm bớt 4 giới cho nhẹ đi phần hành trì, mà trong thời gian thọ giới Thức-xoa-ma-na, Sa-di-ni còn học và tập giữ giới luật của Tỳ-Kheo-Ni nữa. Sự giữ giới Thức-xoa-ma-na kéo dài trong 2 năm. Những ai chưa thọ giới Sa-di-ni mà đã đến 18 tuổi cũng có quyền xin thọ giới Thức-xoa-ma-na và sau thời gian hành trì đủ 2 năm cũng có đủ tư cách để thọ giới Tỳ-kheo-ni vậy.

– Cụ Túc Giới

Tiếng Phạn là Upasampadà, Hán dịch là “giới Cụ Túc” hay “Cận viên”. “Cụ túc” có nghĩa là “thành tựu trọn vẹn”. “Cận viên” nghĩa là “gần đến Niết bàn viên mãn”. Giới Cụ Túc gồm 4 yếu tố:

a) Giới thanh tịnh: Những giới điều đưa đến thân tâm thanh tịnh an lạc. Tiếng Phạn là ” Pratimoksa” được phiên âm là “Ba-la-đề-mộc-xoa” dịch nghĩa là “biệt giải thoát” tức là giữ được giới nào thì giải thoát phạm vi giới đó.

b) Căn thanh tịnh: Hộ trì các căn. Khi các căn tiếp xúc với các trần phải luôn luôn cảnh giác không để cho các căn bị ô nhiễm.

d) Niệm thanh tịnh: Luôn giữ Chánh niệm tỉnh giác. Khi ăn biết mình đang ăn, khi ngủ biết mình đang ngủ, khi đi tới đi lui, biết rõ việc mình đang đi tới đi lui… không để những tà niệm xen vào.

2) 13 pháp tăng-tàng: Việc tiếp xúc, đụng chạm giữa nam nữ

Cụ Túc giới của Tỳ-Kheo-Ni gồm 348 khoản như sau: KẾT LUẬN

Người viết xin mượn nguyên văn đoạn cuối của Hoà Thượng Thích Trí Quang trong lời tựa của quyển “Tỳ-Kheo-Ni Giới” để kết thúc bài viết này: “Ai cũng có cái hảo tâm xuất gia ban đầu. Ai đứng trước Phật cũng muốn mình xứng đáng với Ngài. Nhưng chỉ có Giới Luật mới làm mình xứng đáng với Phật và không phụ hảo tâm của mình”.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

THÍCH NỮ HẰNG NHƯ (Những ngày nhập thất, November 10-2017)

– ” Tỳ-Kheo-Ni giới” Hoà Thượng Thích Trí Quang dịch giải

– ” Chánh Pháp Và Hạnh Phúc” Cố Đại lão Hoà Thượng Thích Minh Châu, nxb Tôn Giáo Hà Nội 2001.

– “Giới Luật Học Cương Yếu” Cố Hoà Thượng Thích Thiện Hoa, nxb Tôn Giáo Hà Nội, 2004

– “Giới Luật Phật Học Căn Bản” tác giả Thích Bảo Lạc (www.quangduc.com)

– ” Tìm hiểu về Giới Luật (Sila) trong Phật Giáo”, tác giả Thích Quang Hạnh (Thư Viện Hoa Sen)

-” Cương Yếu Giới Luật” tác giả Thích Thiện Siêu, nxb Tôn Giáo Hà Nội, 2002

-” Việt Nam Phật Giáo Sử” tác giả Nguyễn Lang, nxb Lá Bối Paris, 1978

-” Kinh Đại Bát Niết Bàn” . Bản dịch cố Hoà Thượng Thích Minh Châu.

-” tác giả Thích Phước Tịnh giảng dịch.

Khái Lược Về Giới Luật Phật Giáo

Khi Phật còn tại thế …

Một lần Tôn giả Xá-lợi-phất thưa với Phật : “Bạch đức Thế Tôn! Sau khi Như Lai diệt độ, làm sao để chánh pháp của Như Lai được tồn tại lâu dài?” Thế Tôn dạy : “Đức Phật nào có nói giới nói pháp thì chúng đệ tử nhờ đó để tu hành, làm cho chánh pháp được trụ lâu dài sau khi Như Lai diệt độ”. Khi ấy Xá-lợi-phất thưa : “Bạch Thế Tôn! Tại sao con không thấy Ngài chế giới mà chỉ nói pháp?

Phật dạy : “Này Tôn giả! Ta biết thời phải làm gì. Nay chưa tới thời nên ta chưa chế giới. Khi nào trong Tăng chúng có việc vì danh lợi, vì hữu lậu xảy ra thì Như Lai mới chế giới”.

Vì thế, suốt 12 năm đầu, sau khi Phật thành đạo, Ngài đã không thuyết giới. Đến năm thứ 13, các pháp hữu lậu xuất hiện, bắt đầu xảy ra sai phạm trong chúng Tỳ kheo … Căn cứ vào đó Phật mới chế giới. Như người vá áo, không bao giờ vá vào những chỗ chưa bị rách. Đức Phật cũng không bao giờ quy định trước điều này, hay ngăn cấm điều kia khi đệ tử của Ngài chưa thật sự làm gì sai với Thánh đạo. Như vậy chứng tỏ rằng Phật chế giới không phải là để bó buộc đệ tử mình, mà chính vì con đường giải thoát và ngăn ngừa sự hư đốn của Tăng đoàn.

Giới luật Phật giáo bao gồm tại gia và xuất gia. Tại gia có Ngũ giới, Bát quan trai giới, Thập thiện (mười giới). Xuất gia thì có 10 giới của Sa di và Sa di ni. Thức xoa ma ni thì có thêm 6 học giới. Tỳ kheo có 250 giới. Tỳ kheo ni có 348 giới. Bồ tát thì có 10 giới trọng và 48 giới khinh cho cả xuất gia lẫn tại gia.

Với mục đích ngăn ngừa các hành vi bất thiện, giới luật của đạo Phật đã được thiết lập trên tinh thần “tùy phạm tùy chế”, nên không có tính cách giáo điều ràng buộc. Vì vậy ý nghĩa về giới luật rất rõ ràng :

GIỚI: tiếng Pali là Sila, phiên âm là Thi la, có nghĩa là điều ngăn cấm do đức Phật chế định cho hàng đệ tử Phật dùng để ngăn ngừa tội lỗi của 3 nghiệp. Do vậy, GIỚI còn được định nghĩa là :

– Phòng phi chỉ ác : Ngăn ngừa điều sai trái, chặn đứng việc xấu ác.– Biệt giải thoát : Giữ được giới nào, giải thoát được giới đó.– Xứ xứ giải thoát : Nơi nào giới luật được tuân thủ thì nơi ấy cuộc sống được thanh thoát.– Tùy thuận giải thoát : Hướng về con đường giải thoát.– Thanh lương : Làm cho cuộc sống mát mẻ, thoải mái.– Chế ngự : Có năng lực kiềm chế những việc xấu, ác.

LUẬT: Tiếng Phạn là Vinaya, phiên âm là Tỳ-nại-da, nói gọn là Tỳ-ni. Dịch nghĩa là điều phục (chế ngự, nhiếp phục) hay diệt (diệt trừ điều ác). LUẬT là những nguyên tắc do Phật quy định cho hàng Tỳ kheo áp dụng khi sống trong tập thể Tăng đoàn.

Tóm lại, GIỚI là điều răn, LUẬT là quy luật thi hành giới. Luật bao hàm cả giới còn giới chỉ là một bộ phận của luật. Tuy gọi khác nhau như thế nhưng tính chất vốn đồng nên có tên ghép là GIỚI LUẬT.

GIỚI LUẬT gồm có nhiều loại:

1. Giới Thanh văn : Đây là giới của hàng xuất gia, có công năng giúp giữ gìn bản thể thanh tịnh Tỳ kheo và phát triển sự hòa hợp Tăng đoàn, gồm các điểm sau:+ Công dụng:– Chỉ trì : Không làm việc bất thiện tức là hành trì. Đây chỉ cho các loại giới bản của Tỳ kheo, Tỳ kheo ni– Tác trì : Thực hiện các điều Phật quy định tức là hành trì. Đây chỉ cho các Kiền độ, các pháp Yết ma.– Tánh giới : Tính chất của sự việc. Nghĩa là việc đó nếu vi phạm thì có tội.– Giá giới : Những điều ngăn cấm để khỏi dẫn đến phạm các trọng tội.+ Qui cách: Giới chia làm 4 loại:– Giới pháp: Những điều do Phật chế định– Giới thể : Bản thể của giới. Giới này phát sinh lúc thọ giới Cụ túc khi có đủ 3 nhân tố: Giới tử chí thành, giới sư thanh tịnh và giới đàn trang nghiêm.– Giới hạnh: Các hành vi của 3 nghiệp hoạt hiện ra ngoài phù hợp với giáo pháp.– Giới tướng: Các tướng trạng của giới.Thông thường các Luật sư đem chia giới bản của Tỳ kheo, Tỳ kheo ni thành 5 thiên 7 tụ.– Năm thiên : 1/Thiên Ba-la-di. 2/Thiên Tăng-già-bà-thi-sa. 3/Thiên Ba-dật-đề, 4/Thiên Đề-xá-ni. 5/Thiên Đột-cát-la.– Bảy tụ : 1/Tụ Ba-la-di. 2/ Tụ Tăng-già-bà-thi-sa. 3/Tụ Thâu-lan-giá. 4/Tụ Ba-dật-đề. 5/Tụ Đề-xá-ni. 6/Tụ Aùc-tác. 7/Tụ Aùc-thuyết.Ngoài ra còn phân chia qua các tên gọi :

– Khai : Mở ra. – Giá : Ngăn lại. – Trì : Tuân thủ. – Phạm : Vi phạm. – Danh : Tên gọi của giới. – Chủng : Chủng loại của giới. – Tánh : Tính chất của giới. – Tướng : Tướng trạng của giới.

2. Giới Bồ tát : Giới này còn gọi là thông giới, tức gồm cả xuất gia và tại gia cùng ứng dụng tu tập để thành tựu tâm Bồ đề, cũng có các đặc điểm sau: + Tính chất : Được chia thành 3 loại gọi là Tam tụ tịnh giới. Đó là:– Nhiếp luật nghi giới : Giới lìa ác (Nguyện dứt các điều ác).– Nhiếp thiện pháp giới : Giới hành thiện (Nguyện làm các điều lành).– Nhiêu ích hữu tình giới : Giới lợi tha (Nguyện làm lợi ích cho tất cả chúng sanh).+ Khinh và trọng : 10 giới trọng và 48 giới khinh.+ Ứng dụng : Chia thành 2 loại : – Định cọng giới : Do tu thiền định, tự nhiên thân tâm thanh tịnh, giới hạnh đầy đủ, nghĩa là người tu thiền khi phát sanh hiệu quả, không cần giữ giới mà vẫn sống phù hợp với giới pháp.– Đạo cọng giới : Do tu Vô lậu nghiệp phát sanh trí tuệ, không cần thọ giới mà vẫn sống phù hợp với giới pháp.Ngoài ra giới của Phật chế còn có Biệt giới và Thông giới.– Biệt giới : Như giới của hàng xuất gia là 10 giới Sa di, 250 giới Tỳ kheo… và giới của hàng tại gia là 5 giới.– Thông giới : Là giới Bồ tát ai thọ cũng được.3. Giới tại gia : Theo nguyên tắc của Phật giáo, để trở thành một Phật tử, yêu cầu mọi người phải phát tâm thọ nhận ba pháp quy y (Quy y Tam Bảo là Phật, Pháp và Tăng) và hành trì năm giới.– Năm giới : Đây là bước đầu của sự tu học Phật pháp mà cả xuất gia và tại gia đều phải chấp hành. Bởi vì Năm giới là căn bản đạo đức làm người, là đức tính cơ bản của luân lý, là chiếc cầu nối đưa đến an lạc Niết Bàn. Đó cũng là yếu tố để xây dựng nền tảng cho hạnh phúc cá nhân, gia đình và xã hội. Năm giới đó là:

1. Không được sát sanh. 2. Không được trộm cắp. 3. Không được tà dâm 4. Không được nói dối. 5. Không được uống rượu.

Năm giới này được ghi chép lại trong bài kinh Ưu-bà-tắc 128 thuộc kinh Trung A Hàm và đã được đức Phật đúc kết lợi ích của việc thọ trì năm giới qua bài kệ sau:

” Kẻ trí sống tại gia, Thấy địa ngục sợ hãi, Do thọ trì Thánh pháp, Trừ bỏ tất cả ác. Không sát hại chúng sanh, Biết rồi hay lìa bỏ, Chân thật không nói dối, Không trộm của kẻ khác, Tri túc với gia phụ, Không ái lạc vợ người, Dứt bỏ việc uống rượu, Gốc tâm loạn cuồng si. Thường nên niệm chánh giác, Suy nghĩ các pháp lành, Niệm Tăng, quán giới cấm, Do đó được hoan hỉ…”

– Mười giới : Trên nền tảng căn bản của năm giới, cũng y cứ nơi hành vi (thân), ngôn ngữ (khẩu), tâm lý (ý) mà đức Phật đã thiết lập pháp tu Thập thiện ( 10 giới) để nâng cao đời sống tâm linh, ý thức đạo đức cho hàng Phật tử tại gia. Thập thiện là: + Thân : Có 3 : Không sát sanh, không trộm cướp, không tà dâm.+ Khẩu : Có 4 : Không nói dối, không nói lưỡi đôi chiều, không nói lời độc ác, không nói lời phù phiếm.+ Ý : Có 3 : Không tham lam, không sân hận, không si mê.– Bát quan trai giới : Để tạo điện kiện cho hàng Phật tử tại gia tập tu hạnh xuất gia trong một ngày một đêm 24 giờ, đức Phật đã dạy thọ trì 8 giới. Trong đó, 5 giới đầu là của hàng tại gia, chỉ trừ giới thứ 3 là đổi lại thành không dâm dục; 3 giới sau tương đương với giới Sa di (của hàng xuất gia) là không được nằm giường cao rộng lớn đẹp đẽ, không được trang điểm, thoa dầu thơm và múa hát hay xem múa hát, không được ăn phi thời.

Nói chung, Đức Phật chế giới không ngoài việc đem lại an lạc trong đời sống hiện tại và tương lai cho những ai có ứng dụng hành trì. Không phân biệt là xuất gia hay tại gia, nếu khéo nghiêm trì giới luật thì sẽ được những lợi ích sau:

1. Người có giới đức sẽ hưởng được gia tài pháp bảo nhờ tinh tấn. 2. Người có giới đức được tiếng tốt đồn xa. 3. Người có giới đức không sợ hãi rụt rè khi đến các hội chúng đông đúc. 4. Người có giới đức khi chết tâm không rối loạn. 5. Người có giới đức sau khi mạng chung được sinh về thiện thú, thiên giới.

Ở các bộ Quảng luật (chỉ cho tất cả các bộ Luật trong Luật tạng) có nói đến 10 lợi ích của giới là:

1. Nhiếp phục Tăng chúng. 2. Triệt để nhiếp phục Tăng chúng. 3. Khiến cho Tăng chúng an lạc. 4. Nhiếp phục những người không biết hổ thẹn. 5. Khiến những người biết hổ thẹn cư trú yên ổn. 6. Khiến những người không tin khiến họ tin tưởng. 7. Khiến những người đã tin tăng thêm lòng tin. 8. Khiến dứt hết pháp lậu hoặc ngay trong hiện tại. 9. Giúp những lậu hoặc chưa sinh không thể sinh khởi. 10. Giúp cho chánh pháp được tồn tại lâu dài.

Như vậy, giới luật là nền tảng để hành giả hoàn thiện nhân cách, trong sạch thân tâm, hóa giải phiền não, xây dựng Tăng đoàn, tận trừ mọi lậu hoặc. Người nào tha thiết chấp trì giới luật thì chính là giữ gìn sự an lạc hạnh phúc cho mình và tha nhân ngay trong hiện tại và tương lai. Ngược lại, người nào không nghiêm túc vâng giữ giới luật là tự mình gây tổn hại đến nguồn an lạc hạnh phúc ấy.

Về việc thọ trì giới luật, trong kinh Tăng Chi II, chương 7 Pháp, đức Phật có dạy: ” Biết vi phạm, biết không vi phạm, biết phạm nhẹ, biết phạm nặng, có giới luật, sống ngự với sự chế ngự của giới bổn, đầy đủ oai nghi chánh hạnh, thấy sợ hãi trong các lỗi nhỏ nhặt, chấp nhận và học tập các học pháp, chứng được không khó khăn, không mệt nhọc, không phí sức đối với bốn Thiền Tăng thượng tâm, hiện tại lạc trú, đoạn trừ các lậu hoặc, tự mình với thắng trí ngay trong hiệh tại, chứng ngộ, chứng đạt Vô lậu tâm giải thoát. Thành tựu bảy pháp này gọi là người trì luật.”

Nói tóm lại, để bảo hộ sự thanh tịnh trang nghiêm của Tăng đoàn, để gìn giữ bản thể của các Tỳ kheo cũng như để thiết lập một đời sống an ninh cho nhân loại, đức Phật đã tuyên bày giới luật. Giới luật có công năng là dứt đi nghiệp duyên, nghiệp nhân trong đường sanh tử. Không chỉ ở vị lai mà ngay trong đời sống hiện tại, nếu chúng ta vâng giữ giới pháp nghiêm cẩn thì cuộc sống sẽ an lành, thân tâm luôn thanh thản.

Tuy nhiên cũng nên hiểu cho đúng nghĩa của giới luật là không chỉ ngăn ngừa đều xấu ác mà còn thể hiện ở việc năng làm điều thiện. Tức là bên cạnh việc “chỉ ác”, mặt tích cực của giới luật phải là “tác thiện”.

Cho nên, là đệ tử Phật chúng ta phải thể hiện đúng vai trò của mình. Đối với hàng xuất gia thì phải “Thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sanh”, giữ gìn gia tài pháp bảo để hoằng dương chánh pháp. Đối với Phật tử tại gia thì song song với việc hộ trì Tam bảo, người phật tử còn phải thể hiện nếp sống mô phạm của hàng tại gia, góp phần xây dựng một gia đình hạnh phúc và một xã hội văn minh.

TÀI LIỆU THAM KHẢO1.Thích Minh Châu, Chánh pháp và hạnh phúc, Nxb Tôn Giáo, Hà Nội, 2001.2.Tuệ Đăng(dịch), Giới luật học cương yếu, Nxb Tp. HCM, 2000.3.Thích Thiện Hoa, Phật học phổ thông, quyển 1, Nxb Tôn Giáo, Hà Nội 2004.4.Thích Nhất Hạnh, Để có một tương lai, Nxb Lá Bối.5.Thích Thanh Kiểm, Luật học đại cương, Nxb Tôn Giáo, Hà Nội 2001.6.Thích Đổng Minh, Luật tỳ kheo giới bổn sớ nghĩa, Nxb Tôn Giáo, Hà Nội 2004.7.Thích Hành Trụ, Luật tứ phần giới bổn, Nxb chúng tôi 1999.8.Thích Minh Thông, Đại cương giới Tỳ kheo, lưu hành nội bộ.9.Viên Trí, Ý nghĩa giới luật, Nxb Tôn Giáo, Hà Nội, 2004.10.Thích Thiện Siêu, Cương yếu giới luật, Nxb Tôn Giáo, Hà Nội, 2002.11.Thích Phước Sơn (dịch), Luật Ma Ha Tăng Kỳ, Nxb Tôn Giáo, Hà Nội, 2003.12.Thích Phước Sơn, Một số vấn đề giới luật, Nxb Phương Đông,Tp. HCM,

Luật Nhân Quả Báo Ứng Theo Lời Phật Dạy (Rất Hay), Không Gian Phật Giáo

Rate this post

Nhân quả rất đa dạng và phức tạp, sự diễn biến từ nhân đến quả còn tùy thuộc vào các duyên, nhân quả có thể báo ứng liền tức khắc như chúng ta đang đói, chỉ cần ăn vào một thứ gì đó thì được no và kết quả của nó cũng có thể xảy ra ở tương lai gần hoặc xa. Nhân quả ở đời vốn rất chính xác và rõ ràng, gieo nhân nào thì gặt quả ấy. Do nhận thức đúng về nhân quả nên người con Phật luôn thận trọng trong mỗi việc làm, lời nói và suy nghĩ của chính mình. Chỉ cần chúng ta chịu khó quan sát trong hiện tại, ta sẽ dễ dàng nhận ra quả báo trước mắt của những việc làm tốt hay xấu.

Đang xem: Luật nhân quả báo ứng theo lời phật dạy

Suy nghĩ và cảm xúc của con người luôn thay đổi và chịu tác động nhanh chóng bởi các sự kiện xung quanh. Ví dụ, khi nhận được một thông tin tốt đẹp có lợi cho mình, thì lập tức ta có thái độ hoan hỷ vui vẻ, lạc quan. Ngược lại, nếu nhận được tin xấu, ngay khi ấy chúng ta sẽ cảm thấy khó chịu, buồn phiền, bực bội và có thể nóng nảy với những người khác. Theo luật nhân quả, thành công hay thất bại đều có nguyên nhân sâu xa của nó. Nếu chúng ta muốn có được nhiều kết quả tốt đẹp thì phải biết gieo nhân thiện ích giúp người cứu vật.Trên thế gian này với nhiều thể chế chính trị và rất nhiều tôn giáo đều lý giải nhân quả theo cách riêng của mình, đa số đều nghiêng về có một đấng tối cao ban phước giáng họa. Tuy nhiên theo quan điểm của đạo Phật, luật nhân quả báo ứng là nền tảng sống của muôn loài vật, không ai có thể tách rời luật nhân quả mà tồn tại. Cho nên Phật giáo, đối với “nhân quả báo ứng“, có cái nhìn đầy đủ và thấu triệt, Phật dạy chính chúng ta là chủ nhân của bao điều họa phúc, mình làm lành được hưởng phước tốt đẹp, làm ác chịu quả khổ đau.Nói một cách đơn giản và dễ hiểu, “nhân quả báo ứng” chính là làm thiện được quả báo tốt đẹp, còn làm các điều xấu xa tội lỗi bị quả báo khổ đau. Mỗi hành vi xấu ác, đều phải chịu ác báo tương xứng với hành vi đó. Vả lại, căn cứ vào những hành vi xấu ác nặng hay nhẹ mà có quả báo tương xứng khác nhau.

Ai làm mười điều ác, sau khi chết chắc chắn phải thọ khổ trong địa ngục, còn tạo nghiệp ác nhẹ hơn, sẽ bị tái sinh vào loài quỷ đói và các loài súc vật để chịu khổ báo. Sau khi thọ hết tất cả thống khổ trong các đường này rồi, sẽ được chuyển sinh trở lại làm người, mà làm người thấp kém và tiếp tục bị thọ các quả báo xấu còn xót lại.Để cho chúng ta có đủ niềm tin về nhân quả, xin mời tất cả quý vị cùng nghe bài kinh triết lý sâu sắc về tội lỗi, bởi gieo nghiệp xấu ác.

Tiến trình diễn biến từ nhân đến quả, có thể báo ứng ngay trong hiện tại mà cũng có thể xảy ra ở tương lai gần hoặc xa. Chỉ cần quan sát trong hiện tại, chúng ta cũng dễ dàng nhận ra quả báo nhãn tiền của những việc làm ác.

Công Tác Cán Bộ Theo Tinh Thần Nghị Quyết…

Sau khi khái quát những kết quả của công tác cán bộ, Nghị quyết nêu rõ những hạn chế như, đội ngũ cán bộ đông nhưng chưa mạnh; tình trạng vừa thừa, vừa thiếu cán bộ xảy ra ở nhiều nơi; sự liên thông giữa các cấp, các ngành còn hạn chế. Tỉ lệ cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ người dân tộc thiểu số chưa đạt mục tiêu đề ra. Thiếu những cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi, nhà khoa học và chuyên gia đầu ngành trên nhiều lĩnh vực. Năng lực của đội ngũ cán bộ chưa đồng đều, có mặt còn hạn chế, yếu kém; nhiều cán bộ, trong đó có cả cán bộ cấp cao thiếu tính chuyên nghiệp, làm việc không đúng chuyên môn, sở trường; trình độ ngoại ngữ, kỹ năng giao tiếp và khả năng làm việc trong môi trường quốc tế còn nhiều hạn chế. Không ít cán bộ trẻ thiếu bản lĩnh, ngại rèn luyện. Một bộ phận không nhỏ cán bộ phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, làm việc hời hợt, ngại khó, ngại khổ, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, có biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Một số cán bộ lãnh đạo, quản lý, trong đó có cả cán bộ cấp chiến lược, thiếu gương mẫu, uy tín thấp, năng lực, phẩm chất chưa ngang tầm nhiệm vụ, quan liêu, xa dân, cá nhân chủ nghĩa, vướng vào tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, lợi ích nhóm. Không ít cán bộ quản lý doanh nghiệp nhà nước thiếu tu dưỡng, rèn luyện, thiếu tính Đảng, lợi dụng sơ hở trong cơ chế, chính sách, pháp luật, cố ý làm trái, trục lợi, làm thất thoát vốn, tài sản của Nhà nước, gây hậu quả nghiêm trọng, bị xử lý kỷ luật đảng và xử lý theo pháp luật. Tình trạng chạy chức, chạy quyền, chạy tuổi, chạy quy hoạch, chạy luân chuyển, chạy bằng cấp, chạy khen thưởng, chạy danh hiệu, chạy tội…, trong đó có cả cán bộ cao cấp, chậm được ngăn chặn, đẩy lùi.

Công tác cán bộ còn nhiều hạn chế, bất cập, việc thực hiện một số nội dung còn hình thức. Đánh giá cán bộ vẫn là khâu yếu, chưa phản ánh đúng thực chất, chưa gắn với kết quả, sản phẩm cụ thể, không ít trường hợp còn cảm tính, nể nang, dễ dãi hoặc định kiến. Quy hoạch cán bộ thiếu tính tổng thể, liên thông giữa các cấp, các ngành, các địa phương; còn dàn trải, khép kín, chưa bảo đảm phương châm “động” và “mở”. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chậm đổi mới, chưa kết hợp chặt chẽ giữa lý luận với thực tiễn, chưa gắn với quy hoạch và theo chức danh. Luân chuyển cán bộ và thực hiện chủ trương bố trí một số chức danh không là người địa phương, trong đó có bí thư cấp ủy các cấp còn bất cập, chưa đạt yêu cầu. Việc sắp xếp, bố trí, phân công, bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử vẫn còn tình trạng đúng quy trình nhưng chưa đúng người, đúng việc. Tình trạng bổ nhiệm cán bộ không đủ tiêu chuẩn, điều kiện, trong đó có cả người nhà, người thân, họ hàng, “cánh hẩu” xảy ra ở một số nơi, gây bức xúc trong dư luận xã hội. Công tác tuyển dụng, thi nâng ngạch công chức, viên chức còn nhiều hạn chế, chất lượng chưa cao, chưa đồng đều, có nơi còn xảy ra sai phạm, tiêu cực. Chủ trương thu hút nhân tài chậm được cụ thể hóa bằng các cơ chế, chính sách phù hợp; kết quả thu hút trí thức trẻ và người có trình độ cao chưa đạt yêu cầu. Chính sách cán bộ giữa các cấp, các ngành có mặt còn thiếu thống nhất, chưa đồng bộ; chính sách tiền lương, nhà ở và việc xem xét thi đua, khen thưởng chưa thực sự tạo động lực để cán bộ toàn tâm, toàn ý với công việc.

Phân cấp quản lý cán bộ chưa theo kịp tình hình, còn tập trung nhiều ở cấp trên. Một số chủ trương thí điểm chỉ đạo chưa quyết liệt, tổ chức thực hiện thiếu nhất quán, đồng bộ và chưa kịp thời đánh giá, rút kinh nghiệm. Việc kiểm tra, giám sát thiếu chủ động, chưa thường xuyên, còn nặng về kiểm tra, xử lý vi phạm, thiếu giải pháp hiệu quả để phòng ngừa, ngăn chặn sai phạm. Công tác bảo vệ chính trị nội bộ còn bị động, chưa theo kịp tình hình, tổ chức bộ máy thiếu ổn định. Đầu tư xây dựng đội ngũ làm công tác tổ chức, cán bộ chưa tương xứng với yêu cầu, nhiệm vụ; tổ chức bộ máy cơ quan tham mưu còn nhiều đầu mối, chức năng, nhiệm vụ chưa thật sự hợp lý; phẩm chất, năng lực và uy tín của không ít cán bộ làm công tác tổ chức, cán bộ chưa đáp ứng yêu cầu.

Nghị quyết nhấn mạnh: Sự trưởng thành, lớn mạnh và phát triển của đội ngũ cán bộ 20 năm qua là nhân tố then chốt, quyết định làm nên những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Song, những khuyết điểm, yếu kém của một bộ phận không nhỏ cán bộ và những hạn chế, bất cập trong công tác cán bộ cũng là một nguyên nhân chủ yếu làm cho đất nước phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh và mong muốn của chúng ta, làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.

Nghị quyết xác định mục tiêu của công tác cán bộ:

Mục tiêu tổng quát:  Xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược có phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; đủ về số lượng, có chất lượng và cơ cấu phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế – xã hội và bảo vệ Tổ quốc; bảo đảm sự chuyển tiếp liên tục, vững vàng giữa các thế hệ, đủ sức lãnh đạo đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 trở thành nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, ngày càng phồn vinh, hạnh phúc.

Mục tiêu cụ thể:

– Đến năm 2020: (1) Thể chế hóa, cụ thể hóa Nghị quyết thành các quy định của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác cán bộ, xây dựng và quản lý đội ngũ cán bộ; (2) Hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực; kiên quyết xóa bỏ tệ chạy chức, chạy quyền; ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên; (3) Đẩy mạnh thực hiện chủ trương bố trí bí thư cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa phương; (4) Hoàn thành việc xây dựng vị trí việc làm và rà soát, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ các cấp gắn với kiện toàn tổ chức bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.

– Đến năm 2025:(1) Tiếp tục hoàn thiện, chuẩn hóa, đồng bộ các quy định, quy chế, quy trình về công tác cán bộ; (2) Cơ bản bố trí bí thư cấp ủy cấp tỉnh không là người địa phương và hoàn thành ở cấp huyện; đồng thời khuyến khích thực hiện đối với các chức danh khác; (3) Xây dựng được đội ngũ cán bộ các cấp đáp ứng tiêu chuẩn chức danh, vị trí việc làm và khung năng lực theo quy định.

– Đến năm 2030: (1) Xây dựng được đội ngũ cán bộ các cấp chuyên nghiệp, có chất lượng cao, có số lượng, cơ cấu hợp lý, bảo đảm sự chuyển giao thế hệ một cách vững vàng; (2) Cơ bản xây dựng được đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là cấp chiến lược ngang tầm nhiệm vụ.

Nghị quyết xác định rõ 8 nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu trong công tác cán bộ, gồm: Nâng cao nhận thức, tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên; Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác cán bộ; Xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp có phẩm chất, năng lực, uy tín, đáp ứng yêu cầu trong thời kỳ mới; Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược ngang tầm nhiệm vụ; Kiểm soát chặt chẽ quyền lực trong công tác cán bộ; chống chạy chức, chạy quyền; Phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng đội ngũ cán bộ; Nâng cao chất lượng công tác tham mưu, coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về công tác tổ chức, cán bộ; Một số nội dung cơ bản về công tác nhân sự đại hội đảng bộ các cấp và Đại hội Đảng toàn quốc.

Để thực hiện 8 nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu trong công tác cán bộ, Nghị quyết yêu cầu tập trung vào hai trọng tâm và năm đột phá.

Hai trọng tâm là: Thứ nhất, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, toàn diện, đồng bộ, hiệu quả công tác cán bộ; chuẩn hóa, siết chặt kỷ luật, kỷ cương đi đôi với tạo môi trường, điều kiện để thúc đẩy đổi mới, sáng tạo phục vụ phát triển và có cơ chế bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung. Thứ hai, tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược và bí thư cấp uỷ, người đứng đầu các cấp đi đôi với phân cấp, phân quyền nhằm phát huy tính chủ động, sáng tạo, đồng thời, tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát chặt chẽ quyền lực.

Năm đột phá là: Đổi mới công tác đánh giá cán bộ theo hướng xuyên suốt, liên tục, đa chiều, theo tiêu chí, bằng sản phẩm, thông qua khảo sát, công khai kết quả và so sánh với chức danh tương đương; Kiểm soát chặt chẽ quyền lực, sàng lọc kỹ càng, thay thế kịp thời; chấm dứt tình trạng chạy chức, chạy quyền; Thực hiện nhất quán chủ trương bố trí bí thư cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa phương ở những nơi đủ điều kiện; Cải cách chính sách tiền lương và nhà ở để tạo động lực cho cán bộ phấn đấu, toàn tâm, toàn ý với công việc; có cơ chế, chính sách để tạo cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh và thu hút, trọng dụng nhân tài; Hoàn thiện cơ chế để cán bộ, đảng viên thật sự gắn bó mật thiết với nhân dân và phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng đội ngũ cán bộ.

Qua học tập, quán triệt Nghị quyết Trung ương 7 khóa XII về công tác tác cán bộ cho thấy, Đảng ta trong thời kỳ mới cần những cán bộ có năng lực, phẩm chất ngang tầm với nhiệm vụ cách mạng. Vì thế, việc quán triệt sâu sắc hơn nữa quan điểm và giải pháp đồng bộ, thực hiện hiệu quả công tác cán bộ; siết chặt kỷ luật, kỷ cương đi đôi với tạo môi trường, điều kiện để thúc đẩy đổi mới, sáng tạo phục vụ phát triển và có cơ chế bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung./.

Sau khi khái quát những kết quả của công tác cán bộ, Nghị quyết nêu rõ những hạn chế như, đội ngũ cán bộ đông nhưng chưa mạnh; tình trạng vừa thừa, vừa thiếu cán bộ xảy ra ở nhiều nơi; sự liên thông giữa các cấp, các ngành còn hạn chế. Tỉ lệ cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ người dân tộc thiểu số chưa đạt mục tiêu đề ra. Thiếu những cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi, nhà khoa học và chuyên gia đầu ngành trên nhiều lĩnh vực. Năng lực của đội ngũ cán bộ chưa đồng đều, có mặt còn hạn chế, yếu kém; nhiều cán bộ, trong đó có cả cán bộ cấp cao thiếu tính chuyên nghiệp, làm việc không đúng chuyên môn, sở trường; trình độ ngoại ngữ, kỹ năng giao tiếp và khả năng làm việc trong môi trường quốc tế còn nhiều hạn chế. Không ít cán bộ trẻ thiếu bản lĩnh, ngại rèn luyện. Một bộ phận không nhỏ cán bộ phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, làm việc hời hợt, ngại khó, ngại khổ, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, có biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Một số cán bộ lãnh đạo, quản lý, trong đó có cả cán bộ cấp chiến lược, thiếu gương mẫu, uy tín thấp, năng lực, phẩm chất chưa ngang tầm nhiệm vụ, quan liêu, xa dân, cá nhân chủ nghĩa, vướng vào tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, lợi ích nhóm. Không ít cán bộ quản lý doanh nghiệp nhà nước thiếu tu dưỡng, rèn luyện, thiếu tính Đảng, lợi dụng sơ hở trong cơ chế, chính sách, pháp luật, cố ý làm trái, trục lợi, làm thất thoát vốn, tài sản của Nhà nước, gây hậu quả nghiêm trọng, bị xử lý kỷ luật đảng và xử lý theo pháp luật. Tình trạng chạy chức, chạy quyền, chạy tuổi, chạy quy hoạch, chạy luân chuyển, chạy bằng cấp, chạy khen thưởng, chạy danh hiệu, chạy tội…, trong đó có cả cán bộ cao cấp, chậm được ngăn chặn, đẩy lùi.Công tác cán bộ còn nhiều hạn chế, bất cập, việc thực hiện một số nội dung còn hình thức. Đánh giá cán bộ vẫn là khâu yếu, chưa phản ánh đúng thực chất, chưa gắn với kết quả, sản phẩm cụ thể, không ít trường hợp còn cảm tính, nể nang, dễ dãi hoặc định kiến. Quy hoạch cán bộ thiếu tính tổng thể, liên thông giữa các cấp, các ngành, các địa phương; còn dàn trải, khép kín, chưa bảo đảm phương châm “động” và “mở”. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chậm đổi mới, chưa kết hợp chặt chẽ giữa lý luận với thực tiễn, chưa gắn với quy hoạch và theo chức danh. Luân chuyển cán bộ và thực hiện chủ trương bố trí một số chức danh không là người địa phương, trong đó có bí thư cấp ủy các cấp còn bất cập, chưa đạt yêu cầu. Việc sắp xếp, bố trí, phân công, bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử vẫn còn tình trạng đúng quy trình nhưng chưa đúng người, đúng việc. Tình trạng bổ nhiệm cán bộ không đủ tiêu chuẩn, điều kiện, trong đó có cả người nhà, người thân, họ hàng, “cánh hẩu” xảy ra ở một số nơi, gây bức xúc trong dư luận xã hội. Công tác tuyển dụng, thi nâng ngạch công chức, viên chức còn nhiều hạn chế, chất lượng chưa cao, chưa đồng đều, có nơi còn xảy ra sai phạm, tiêu cực. Chủ trương thu hút nhân tài chậm được cụ thể hóa bằng các cơ chế, chính sách phù hợp; kết quả thu hút trí thức trẻ và người có trình độ cao chưa đạt yêu cầu. Chính sách cán bộ giữa các cấp, các ngành có mặt còn thiếu thống nhất, chưa đồng bộ; chính sách tiền lương, nhà ở và việc xem xét thi đua, khen thưởng chưa thực sự tạo động lực để cán bộ toàn tâm, toàn ý với công việc.Phân cấp quản lý cán bộ chưa theo kịp tình hình, còn tập trung nhiều ở cấp trên. Một số chủ trương thí điểm chỉ đạo chưa quyết liệt, tổ chức thực hiện thiếu nhất quán, đồng bộ và chưa kịp thời đánh giá, rút kinh nghiệm. Việc kiểm tra, giám sát thiếu chủ động, chưa thường xuyên, còn nặng về kiểm tra, xử lý vi phạm, thiếu giải pháp hiệu quả để phòng ngừa, ngăn chặn sai phạm. Công tác bảo vệ chính trị nội bộ còn bị động, chưa theo kịp tình hình, tổ chức bộ máy thiếu ổn định. Đầu tư xây dựng đội ngũ làm công tác tổ chức, cán bộ chưa tương xứng với yêu cầu, nhiệm vụ; tổ chức bộ máy cơ quan tham mưu còn nhiều đầu mối, chức năng, nhiệm vụ chưa thật sự hợp lý; phẩm chất, năng lực và uy tín của không ít cán bộ làm công tác tổ chức, cán bộ chưa đáp ứng yêu cầu.Sự trưởng thành, lớn mạnh và phát triển của đội ngũ cán bộ 20 năm qua là nhân tố then chốt, quyết định làm nên những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Song, những khuyết điểm, yếu kém của một bộ phận không nhỏ cán bộ và những hạn chế, bất cập trong công tác cán bộ cũng là một nguyên nhân chủ yếu làm cho đất nước phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh và mong muốn của chúng ta, làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.Mục tiêu tổng quát: Xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược có phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; đủ về số lượng, có chất lượng và cơ cấu phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế – xã hội và bảo vệ Tổ quốc; bảo đảm sự chuyển tiếp liên tục, vững vàng giữa các thế hệ, đủ sức lãnh đạo đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 trở thành nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, ngày càng phồn vinh, hạnh phúc.- Đến năm 2020: (1) Thể chế hóa, cụ thể hóa Nghị quyết thành các quy định của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác cán bộ, xây dựng và quản lý đội ngũ cán bộ; (2) Hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực; kiên quyết xóa bỏ tệ chạy chức, chạy quyền; ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên; (3) Đẩy mạnh thực hiện chủ trương bố trí bí thư cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa phương; (4) Hoàn thành việc xây dựng vị trí việc làm và rà soát, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ các cấp gắn với kiện toàn tổ chức bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.- Đến năm 2025:(1) Tiếp tục hoàn thiện, chuẩn hóa, đồng bộ các quy định, quy chế, quy trình về công tác cán bộ; (2) Cơ bản bố trí bí thư cấp ủy cấp tỉnh không là người địa phương và hoàn thành ở cấp huyện; đồng thời khuyến khích thực hiện đối với các chức danh khác; (3) Xây dựng được đội ngũ cán bộ các cấp đáp ứng tiêu chuẩn chức danh, vị trí việc làm và khung năng lực theo quy định.- Đến năm 2030: (1) Xây dựng được đội ngũ cán bộ các cấp chuyên nghiệp, có chất lượng cao, có số lượng, cơ cấu hợp lý, bảo đảm sự chuyển giao thế hệ một cách vững vàng; (2) Cơ bản xây dựng được đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là cấp chiến lược ngang tầm nhiệm vụ.gồm: Nâng cao nhận thức, tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên; Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác cán bộ; Xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp có phẩm chất, năng lực, uy tín, đáp ứng yêu cầu trong thời kỳ mới; Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược ngang tầm nhiệm vụ; Kiểm soát chặt chẽ quyền lực trong công tác cán bộ; chống chạy chức, chạy quyền; Phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng đội ngũ cán bộ; Nâng cao chất lượng công tác tham mưu, coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về công tác tổ chức, cán bộ; Một số nội dung cơ bản về công tác nhân sự đại hội đảng bộ các cấp và Đại hội Đảng toàn quốc.Để thực hiện 8 nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu trong công tác cán bộ, Nghị quyết yêu cầu tập trung vào hai trọng tâm và năm đột phá.Hai trọng tâm là: Thứ nhất, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, toàn diện, đồng bộ, hiệu quả công tác cán bộ; chuẩn hóa, siết chặt kỷ luật, kỷ cương đi đôi với tạo môi trường, điều kiện để thúc đẩy đổi mới, sáng tạo phục vụ phát triển và có cơ chế bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung. Thứ hai, tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược và bí thư cấp uỷ, người đứng đầu các cấp đi đôi với phân cấp, phân quyền nhằm phát huy tính chủ động, sáng tạo, đồng thời, tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát chặt chẽ quyền lực.Năm đột phá là: Đổi mới công tác đánh giá cán bộ theo hướng xuyên suốt, liên tục, đa chiều, theo tiêu chí, bằng sản phẩm, thông qua khảo sát, công khai kết quả và so sánh với chức danh tương đương; Kiểm soát chặt chẽ quyền lực, sàng lọc kỹ càng, thay thế kịp thời; chấm dứt tình trạng chạy chức, chạy quyền; Thực hiện nhất quán chủ trương bố trí bí thư cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa phương ở những nơi đủ điều kiện; Cải cách chính sách tiền lương và nhà ở để tạo động lực cho cán bộ phấn đấu, toàn tâm, toàn ý với công việc; có cơ chế, chính sách để tạo cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh và thu hút, trọng dụng nhân tài; Hoàn thiện cơ chế để cán bộ, đảng viên thật sự gắn bó mật thiết với nhân dân và phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng đội ngũ cán bộ.Qua học tập, quán triệt Nghị quyết Trung ương 7 khóa XII về công tác tác cán bộ cho thấy, Đảng ta trong thời kỳ mới cần những cán bộ có năng lực, phẩm chất ngang tầm với nhiệm vụ cách mạng. Vì thế, việc quán triệt sâu sắc hơn nữa quan điểm và giải pháp đồng bộ, thực hiện hiệu quả công tác cán bộ; siết chặt kỷ luật, kỷ cương đi đôi với tạo môi trường, điều kiện để thúc đẩy đổi mới, sáng tạo phục vụ phát triển và có cơ chế bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung./.

Hòa Bình

Bạn đang đọc nội dung bài viết Giới Luật Theo Tinh Thần Phật Giáo trên website Athena4me.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!