Đề Xuất 6/2023 # Giáo Án Ngữ Văn 10 Tiết 86: Chí Khí Anh Hùng ( Trích “ Truyện Kiều” – Nguyễn Du) # Top 9 Like | Athena4me.com

Đề Xuất 6/2023 # Giáo Án Ngữ Văn 10 Tiết 86: Chí Khí Anh Hùng ( Trích “ Truyện Kiều” – Nguyễn Du) # Top 9 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Giáo Án Ngữ Văn 10 Tiết 86: Chí Khí Anh Hùng ( Trích “ Truyện Kiều” – Nguyễn Du) mới nhất trên website Athena4me.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

CHÍ KHÍ ANH HÙNG ( Trích “ Truyện Kiều” – Nguyễn Du) Mục tiêu cần đạt: Giúp HS: Hiểu được lí tưởng anh hùng của Nguyễn Du qua nhân vật Từ Hải. Thấy được nghệ thuật tả người anh hùng trong đoạn trích. Phương pháp: Đọc hiểu tích cực Phát vấn Đàm thoại gợi mở Phương tiện: SGK, SGV, giáo án Trọng tâm bài học: Lí tưởng anh hùng của Nguyễn Du gửi gắm qua nhân vật Từ Hải Nghệ thuật tả người anh hùng trong đoạn trích nói riêng và thi pháp tả anh hùng trong văn học trung đại nói chung. Tiến trình lên lớp: Ổn định tổ chức. Bài mới. GV dẫn: Trong ®êi KiÒu cã nhiÒu cuéc chia tay, chia tay ®ét ngét víi Kim Träng khi mèi t×nh ®Çu chím hÐ; chia tay Thóc Sinh trong t©m tr¹ng c« ®¬n, ®Çy dù c¶m kh«ng lµnh. Trong ®o¹n trÝch nµy t¸c gi¶ t¸i hiÖn c¶nh KiÒu chia tay Tõ H¶i ®Ó chµng ra ®i thùc hiÖn nghiÖp lín. Nh­ng t¹i sao ta l¹i ®Æt tªn cho ®o¹n trÝch nµy lµ “ChÝ khÝ anh hïng” mµ kh«ng ph¶i “Tõ H¶i chia tay Thuý KiÒu”? §ã lµ v× ®o¹n trÝch nµy kh«ng tËp trung kh¾c ho¹ c¶nh chia tay mµ muèn kh¾c ho¹ Tõ H¶i ë vÎ ®Ñp, tÇm vãc vµ quyÕt t©m ®¹t ®Õn kh¸t väng. Hoạt động của GV và HS Yêu cầu cần đạt HĐ1: GV hướng dẫn HS tìm hiểu chung về đoạn trích. – GV hỏi: Em hãy tóm tắt những nội dung chính của phần Tiểu dẫn? – HS suy nghĩ, trả lời – GV nhận xét, chốt HĐ2: Hướng dẫn đọc hiểu khái quát – GV gọi 1 HS đọc diễn cảm VB, 1 HS khác nhận xét cách đọc. – HS đọc, nhận xét – GV nhận xét cách đọc, hướng HS đến cách đọc đúng cho đoạn trích: giọng đọc chậm rãi, hào hùng thể hiện sự khâm phục, ngợi ca. – GV lưu ý HS phần chú giải từ khó chân trang113. – Hỏi: Em hãy cho biết trong đoạn trích trên có lời của những ai? GV hỏi: Theo em nên chia đoạn trích này thành mấy phần? Nêu nội dung chính của từng phần? HS trả lời GV gọi HS bổ sung GV chốt HĐ3. Hướng dẫn đọc hiểu chi tiết GV yêu cầu 1 HS đọc diễn cảm 4 câu thơ đầu. Gv hỏi: Em hãy cho biết Từ Hải ra đi trong hoàn cảnh nào? HS suy nghĩ, trả lời GV bình: Thời điểm Từ Hải ra đi lập nên sự nghiệp lớn cũng chính là lúc cuộc sống lứa đôi với Thúy Kiều mới đang bắt đầu và vô cùng mặn nồng hạnh phúc. Đó là cuộc sống của “Trai anh hùng, gái thuyền quyên Phỉ nguyền sánh phượng đẹp duyên cưỡi rồng”. Thúy Kiều là tri kỉ của anh hùng, Từ Hải là tri kỉ của giai nhân, họ đã nhận ra nhau ngay từ buổi đầu gặp gỡ “ Cười rằng “ Tri kỉ trước sau mấy người”. Thế nhưng Từ Hải không bằng lòng với cuộc sống êm đềm nhưng chật hẹp, tù túng mà luôn khao khát giấc mộng anh hùng nên đã dứt áo ra đi. – GV hỏi: Hình ảnh Từ Hải được hiện lên qua những từ ngữ, hình ảnh, chi tiết nào trong 4 câu thơ trên? – HS phát hiện chi tiết – GV nhận xét và yêu cầu HS trình bày cách hiểu về các chi tiết, hình ảnh đã tìm ra. GV bình cụm “lòng bốn phương”:Bốn phương ở đây là đông, tây, nam, bắc có nghĩa là thiên hạ thế giới. Theo Kinh lễ, xưa sinh con trai, người ta làm cái cung bằng cây dâu, tên bằng cỏ bồng gọi tắt là tang bồng, bắn ra bốn phương, tượng trưng cho mong muốn sau này người con trai làm nên sự nghiệp lớn. Nên khi nói đến lòng bốn phương là nói đến chí tang bồng, chí làm trai của nam tử thời xưa.Ngày xưa chí làm trai là phải “xuống Đông, Đông tĩnh, lên Đoài, Đoài yên”. Chính Nguyễn Công Trứ cũng từng khẳng định “ Chí làm trai nam bắc Đông Tây, cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể. Vốn là một bậc anh hùng cái thế “ đội trời đạp đất” với “ gươm đàn nửa gánh non sông một chèo, Từ Hải làm sao có thể say sưa trong hạnh phúc lứa đôi khi mà chí lớn chưa thành? Chính vì vậy chàng đã quyết chí “lên đường thẳng rong”dứt khoát và mau lẹ chứ hề không bịn rịn, quyến luyến gia đình. GV: Em có nhận xét gì về tâm thế ra đi của Từ Hải? HS trả lời GV nhận xét, chốt GV bình:Từ Hải ra đi một cách mau lẹ, dứt khoát trong không gian mênh mang cao rộng của trời đất: “Trông vời trời bể mênh mang”Câu thơ miêu tả hành động nhìn ra xa, đồng thời khắc hoạ dáng vẻ phóng khoáng của Từ Hải. Nguyễn Du đã xây dựng hình ảnh Từ Hải song song, sánh ngang với hình ảnh trời đất. Nhắc đến Từ Hải là thấy hình ảnh cao rộng của trời đất, vũ trụ. Những từ láy, từ biểu cảm chỉ độ rộng, độ cao càng khắc hoạ rõ hơn tư thế của Từ Hải. Cái nhìn của chàng không phải là trông hay nhìn bình thường mà là “trông vời” – cái nhìn ẩn chứa sự sáng suốt và suy nghĩ phi thường. Từ Hải một mình ra đi thực hiện ý nguyện của mình. Việc xây dựng Từ Hải độc lập một mình không làm chân dung chàng đơn độc mà càng cho thấy sự dũng mãnh của chàng. Hành động được miêu tả đầy sự dứt khoát, nhanh nhẹn. Đã nghĩ là làm, Từ Hải không bao giờ chần chừ, do dự, suy tính lâu. “Thoắt đã động lòng bốn phương” là “lên đường thẳng rong” ngay. GV: Nguyễn Du đã xuất phát từ cảm hứng gì khi miêu tả khi miêu tả người anh hùng? HS trả lời GV nhận xét, chốt GV: Tóm lại qua bốn câu thơ đầu tác giả cho chúng ta thấy được điều gì ở nhân vật Từ Hải? HS trả lời GV chốt GV gọi HS đọc, cho HS xác định lời của Thúy Kiều và Từ Hải. GV: Trước quyết định ra đi của Từ Hải, Thúy Kiều có thái độ ntn? Thái độ ấy được thể hiện qua những hình ảnh, chi tiết nào? HS trả lời GV nhận xét, chốt ý (GV có bình thêm về chữ “tòng” trong quan niệm của Nho giáo) GV: Qua câu nói này em thấy Kiều là một người vợ ntn? HS trả lời GV chốt ý GV yêu cầu HS đọc toàn bộ những câu lời của TH GV: Trước thái độ của TK như vậy, TH đã trả lời ra sao? HS phát hiện, trả lời. GV nhận xét, chốt GV giải thích cụm “ tâm phúc tương tri”: hai người đã hiểu biết lòng dạ nhau, tức là đã hiểu nhau sâu sắc. GV bình: Trong lời đáp của mình Từ Hải đã từ chối mong muốn của Kiều và khẳng định tình cảm chân thành đối với K, coi nàng là người tri ân, tri kỉ vì trong cuộc hội ngộ ở lầu xanh chính K đã nhìn ra TH bằng con mắt tinh đời của mình: “Khen cho con mắt tinh đời Anh hùng đoán giữa trần ai mới già”. TH khuyên K nên vượt lên thói tầm thường nhi nữ. Lời trách khéo của Từ với Kiều đồng thời cũng là lời khẳng định và nâng vị thế của nàng ( một kĩ nữ lầu xanh” lên ngang tầm với mình ( một vị anh hùng). Đằng sau lời trách ấy là ý chí dứt khoát, kiên quyết,ko bị níu kéo bởi thê nhi của TH. GV: Sau khi từ chối TK, Từ Hải muốn nói gì với nàng qua bốn câu thơ tiếp theo? HS trả lời GV nhận xét, chốt GV bình: Nguyễn Du đã sử dụng một loạt các từ ngữ, hình ảnh thuộc phạm trù không gian như “ mười vạn tinh binh” với bóng cờ, tiếng chiêng gợi nên khát vọng lớn lao, tầm vóc vũ trụ của người anh hùng TH. Khát vọng “ làm cho rõ mặt phi thường” chính là khát vọng xây dựng một sự nghiệp, công danh lừng lẫy, xuất chúng, hơn người. Thành công ấy sẽ là sính lễ để TH rước người tri kỉ. “ Nghi gia” là nghi thức đón người con gái về làm vợ, làm dâu, một nghi thức có nhiều bước chu đáo và trang trọng. Thế là so với lần chuộc Kiều ra khỏi lầu xanh trước đây thì lời hứa thực hiện những nghi thức trang trọng này chính là món quà và là hành động rửa sạch vết nhơ của đời kĩ nữ cho Kiều. GV: Em có nhận xét gì về TH qua lời hứa với TK? HS trả lời GV nhận xét, chốt GV : Ngoài lời hứa trở về đón TK, TH còn nói những gì với TK qua 4 câu thơ tiếp. HS trả lời (GV bình qua về lời khẳng định của TH) GV nhận xét, chốt GV bình: Người ta học nghề mất vài ba năm, phải mất hàng chục năm nghề nghiệp mới tinh thông vững vàng. Sự nghiệp lớn muốn hoàn thành có khi phải hiến dâng trọn đời người. TH quyết việc lớn ấy sẽ được thực hiện trong một năm. Phải là một người quyết đoán, tự tin, đầy tài năng mới dám đặt ra một thời hạn như thế cho một sự nghiệp long trời lở đất. GV: Tóm lại, em có nhận xét gì về TH qua đoạn đối thoại với TK? HS trả lời GV nhận xét, chốt GV: Hai câu thơ cuối cho ta thấy hành động gì của TH? HS trả lời GV nhận xét, chốt ý GV bình: Theo sách xưa kể rằng chim bằng là một giống chim rất lớn, đập cánh làm động nước trong ba ngàn dặm, cưỡi gió mà bay lên chín ngàn dặm. Chim bằng trong thơ văn thường tượng trưng cho khát vọng của người anh hùng có bản lĩnh phi thường, khao khát làm nên sự nghiệp lớn. Đem hình ảnh chim bằng để ẩn dụ cho tư thế ra đi của TH, Nguyễn Du muốn khẳng định TH chính là bậc anh hùng cái thế có tầm vóc phi thường, sánh ngang đất trời, vũ trụ. GV: Theo em Nguyễn Du đã gửi gắm điều gì qua nhân vật TH? HS trả lời GV chốt GV bình: Trong KVK truyện, TH chỉ đơn thuần là một tên tướng cướp từng thi hỏng và đi buôn… Nhưng trong TK, ND đã nhận thức lại nhân vật TH, nhất quán miêu tả nhân vật với một sự cảm phục không che giấu, trao cho nhân vật TH lí tưởng anh hùng của ông. Đó là lí tưởng về một con người có phẩm chất, chí khí phi thường, một khát vọng làm nên sự nghiệp lớn. HĐ4: Hướng dẫn tổng kết bài GV: Em hãy nhận xét giá trị nghệ thuật và nội dung của đoạn trích “ Chí khí anh hùng”? Theo em, vì sao tác giả lại đặt tên là CKAH? GV chốt lại những ý chính. Tìm hiểu chung Tóm tắt cuộc gặp gỡ giữa Từ Hải và Thúy Kiều Vị trí đoạn trích Câu 2213 – 2230 II. Đọc hiểu khái quát 1.Đọc, chú giải từ khó Lời tác giả Lời Thúy Kiều Lời Từ Hải 2.Bố cục: 3 phần P1: 4 câu thơ đầu→ Cuộc chia tay giữa Từ Hải và Thúy Kiều sau nửa năm chung sống P2: 12 câu thơ tiếp→ Cuộc đối thoại giữa Thúy Kiều và Từ Hải – tính cách anh hùng của Từ P3: 2 câu cuối: Hình ảnh Từ Hải dứt áo ra đi. III. Đọc hiểu chi tiết. 4 câu đầu: “Nửa năm hương lửa đương nồng, Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương. Trông vời trời bể mênh mang, Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong.” Thúy Kiều và Từ Hải đang có cuộc sống vô cùng hạnh phúc “hương lửa đương nồng” Trượng phu: chỉ người đàn ông có chí khí, bậc anh hùng → Thái độ trân trọng, kính phục của Nguyễn Du với Từ Hải. Thoắt: dứt khoát, mau lẹ,nhanh chóng. Động lòng bốn phương: trong lòng náo nức chí tung hoành ở bốn phương Lên đường thẳng rong: đi liền một mạch → Một tư thế đẹp, hiên ngang không vướng bận, không lệ bộ của người quân tử sẵn sàng lên đường. → Cảm hứng vũ trụ, con người vũ trụ với kích thước phi thường, không gian bát ngát, ngợi ca, khâm phục. 2. 12 câu tiếp: a. Lời Thúy Kiều: – Xưng hô: Chàng – thiếp: tình cảm vợ chồng mặn nồng, tha thiết. – Phận gái chữ tòng: bổn phận của người vợ phải theo chồng. – Một lòng xin đi: quyết tâm theo Từ Hải → Muốn ra đi để tiếp sức, chia sẻ, gánh vác công việc với chồng b. Lời Từ Hải * Lời đáp: “Từ rằng: “Tâm phúc tương tri Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình” Từ chối mong muốn của Kiều Khuyên Kiều hãy vượt lên tình cảm thông thường để xứng đáng làm vợ một người anh hùng. Coi Kiều là người tri kỉ, hiểu mình → Tính cách anh hùng của Từ Hải. * Lời hứa: “Bao giờ mười vạn tinh binh, Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường. Làm cho rỡ mặt phi thường, Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia.” – Rõ mặt phi thường: tạo nên sự nghiệp xuất chúng, phi thường→ niềm tin sắt đá vào bản thân, sự nghiệp của mình. – Rước nàng nghi gia: hứa trở về đón Kiều → Người anh hùng có chí khí, sự thống nhất giữa khát vọng phi thường và tình cảm sâu nặng với người tri kỉ. * 4 câu thơ tiếp: “Bằng nay bốn bể không nhà, Theo càng thêm bận biết là đi đâu? Đành lòng chờ đó ít lâu Chầy chăng là một năm sau vội gì!” Bốn bể không nhà: khẳng định thực tế gian nan, vất vả, khó khăn của buổi đầu lập nghiệp. Lời hẹn: “ một năm” : mốc thời gian cụ thể, nhanh chóng → Khẳng định ý chí, bản lĩnh, sự tự tin → Lời hẹn ước ngắn gọn, dứt khoát, tự tin 3. Hai câu cuối “Quyết lời dứt áo ra đi, Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi” Hành động : + quyết lời + dứt áo ra đi →thái độ, cử chỉ, hành động dứt khoát, không hề do dự, không để tình cảm bịn rịn làm lung lạc và cản bước ý chí người anh hùng Hình ảnh chim bằng : → ẩn dụ tượng trưng về người anh hùng có lí tưởng cao đẹp, hùng tráng, phi thường, mang tầm vóc vũ trụ. Thể hiện ước mơ về người anh hùng lí tưởng của Nguyễn Du ( chân dung kì vĩ, chí khí, tài năng, bản lĩnh phi thường, thực hiện giấc mơ công lí). IV. Tổng kết 1.Nghệ thuật * Bút pháp lí tưởng hóa : – Từ ngữ : trượng phu, thoắt… – Hình ảnh kì vĩ, ước lệ: lòng bốn phương, trời bể… 2.Nội dung Qua hình tượng nhân vật Từ Hải, Nguyễn Du thể hiện quan niệm về người anh hùng lí tưởng và gửi gắm ước mơ công lý. Dặn dò: HS học thuộc lòng đoạn trích, nắm được các nét chính về ND và NT

Cảm Nhận Đoạn Trích Chí Khí Anh Hùng Trích Truyện Kiều Của Nguyễn Du

Cam nhan doan trich Chi khi anh hung – Đề bài: Cảm nhận đoạn trích Chí khí anh hùng trích Truyện Kiều của Nguyễn Du.

“Chí làm trai nam bắc đông tây Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể”

Từ Hải một nhân vật được coi là nhân vật anh hùng trong Truyện kiều của Nguyễn Du đã thể hiện rõ quan niệm của người anh hùng thời xưa. Nhà thơ Nguyễn Du đã xây dựng thành công hình tượng Từ Hải với ý chí anh hùng hơn người. Mặc dù chàng đang rất yêu Thúy Kiều nhưng chàng vẫn quyết dứt áo ra đi để được “vẫy vùng trong bôn bể” để thỏa chí anh hùng của mình.

Nếu như Từ Hải trong truyện Kim Vân Kiều trọng của Thanh Tâm Tài Nhân là cướp thì ở Truyện kiều của Nguyễn Du lại là một anh hùng. Từ Hải không chỉ cứu được Thúy Kiều ra khỏi chốn lầu xanh mà còn giúp Kiều đền ân báo oán. Chàng đã yêu nàng và yêu một cách say đắm:

Nửa năm hương lửa đương nồng Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương Trông vời trời bể mênh mang Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong

Khoảng thời gian nửa năm tính từ thời gian Kiều được chàng cứu ra khỏi chốn ông bướm lả lơi nọ. Họ sống bên nhau như vợ chồng, Thúy Kiều nguyện cùng chàng mãi mãi. Tưởng rằng tình yêu sẽ làm cho Từ Hải quên đi những ước mơ hoài bão, chí khí anh hùng có trong mình thế nhưng không. Chàng không những không quên mà thoắt cái đã muốn lên đường tung hoành ngang dọc. Thanh gươm kia, yên ngựa kia đã lâu rồi chàng không cầm, không cưỡi đến. Chàng quyết định lên đường để thực hiện những ước mơ của mình.

Chí khí ấy lớn đến nỗi cả tình yêu của Thúy Kiều cũng không thể níu giữ bước chân chàng. Kiều không có ý ngăn cản chàng đi để ở lại bên mình, cũng không phải chàng Từ Hải đã hết yêu Thúy Kiều mà bởi vì chàng muốn lên đường và chàng muốn có công danh sự nghiệp:

Nàng rằng: Phận gái chữ tòng Chàng đi thiếp cũng quyết lòng xin đi Từ rằng: Tâm phúc tương tri Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?

Thúy Kiều mong có thể đi cùng chàng để làm vẹn chữ “tòng”, một là có thể ở bên chàng, hai là cũng có thể chăm sóc đỡ đần nhau những lúc ốm đau bệnh tật. Dù đường đi có khó khăn, có nguy hiểm dẫu sao được ở bên nhau là nàng sẽ quyết đi. Nhưng người quân tử đi thực hiện ước mơ hoài bão thì không thể có một mối bận tâm nào khác. Từ Hải khẽ trách Thúy Kiều rằng sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình.

Trách khẽ rồi chàng lại khuyên nhủ cũng như bày tỏ ước nguyện của mình. Chàng hứa với Thúy Kiều sẽ đón nàng khi thành công:

Bao giờ mười vạn tinh binh Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường Làm cho rõ mặt phi thường Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia Bằng ngay bốn bể không nhà Theo càng thêm bận, biết là đi đâu Đành lòng chờ đó ít lâu Chầy chăng là một năm sau vội gì Quyết lời dứt áo ra đi Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi.

Khi nào chàng có thể nắm trong tay “mười vạn tinh binh” và trở về trong tiếng chiêng chúc mừng hồ hởi, bóng cờ rợp đường thì khi ấy chàng sẽ rước nàng về để làm lễ nghi gia. Chàng sẽ cho Thúy Kiều một danh phận thật sự, Từ đó ta có thể thấy được ý chí quyết tâm lên đường của Từ Hải là rất lớn, chàng tự ý thức được việc đưa Kiều theo không phải là điều tốt. Bởi nàng không muốn ảnh hưởng đến ước mơ của mình cũng không muốn nàng phải chịu gian khổ. Thân gái dặm trường đến đâu cũng không thể bằng đấng nam nhi anh hùng nay đi mai ở được. Hơn nữa giờ đây bốn bể là nhà không biết ở đâu đi đâu, cho nàng theo thì chỉ thêm bận tâm mà thôi.Chàng mong Thúy Kiều hiểu cho lòng mình và mong nàng đợi chờ ít lâu, lâu nhất cũng một năm là chàng sẽ quay trở về với nàng. Nói xong những lời chia tay cuối Từ Hải dứt áo lên đường để lại đằng sau nàng Kiều trông theo.

Có thể nói Nguyễn Du đã xây dựng thành công nhân vật Từ Hải – một kiểu nhân vật anh hùng. Chàng không chỉ đẹp về ngoại hình “Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao” mà còn đẹp bởi ý chí, khí phách anh hùng phi thường hơn người. Chàng không để chữ tình làm ảnh hưởng đến chữ chí của mình. Đây quả là điều đáng khen của bậc nam nhi đầu đội trời chân đạp đất.

CÁC BẠN LIKE FANPAGE ĐỂ THEO DÕI CÁC BÀI VĂN MỚI NHẤT NHÉ!

Kiến Thức Chi Tiết: Phân Tích Đoạn Trích Chí Khí Anh Hùng (Trích Truyện Kiều Của Nguyễn Du)

Kiến thức chi tiết: Phân tích đoạn trích Chí khí anh hùng (trích Truyện Kiều của Nguyễn Du)

I. Tìm hiểu chung:

1. Tác giả: (Xem SGK)

2. Tác phẩm:

– Vị trí của đoạn trích: Văn bản từ câu 2213 đến câu 2230 trong Truyện Kiều.

– Nội dung: Thúy Kiều bị bán vào lầu xanh lần thứ hai, được Từ Hải chuộc về làm vợ, sống với nhau rất hạnh phúc nhưng Từ Hải muốn có sự nghiệp lớn nên chàng đã từ biệt Kiều ra đi lập công danh.

II. Đọc – hiểu văn bản:

1. Khát vọng lên đường của nhân vật Từ Hải (Bốn câu thơ đầu)

Nửa năm hương lửa đương nồng,  Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương Trông vời trời bể mênh mang,  Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong

– Những hình ảnh chỉ không gian to rộng, khoáng đạt “bốn phương”, “trời bể mênh mang” → gợi liên tưởng đến không gian vũ trụ, cho thấy khát khao được vẫy vùng, tung hoành bốn phương của Từ Hải.

– Khát vọng lên đường được thể hiện qua hành động nhanh chóng, quyết đoán, hiên ngang, tự tin và mạnh mẽ: “thoắt đã động lòng bốn phương”, “lên đường thẳng rong”, “dứt áo ra đi”

2. Lí tưởng anh hùng của Từ Hải (phần còn lại):

Nàng rằng: “Phận gái chữ tòng  Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi”.  Từ rằng: “Tâm phúc tương tri  Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?  Bao giờ mười vạn tinh binh,  Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường.  Làm cho rõ mặt phi thường Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia Bằng nay bốn bể không nhà,  Theo càng thêm bận biết là đi đâu?  Đành lòng chờ đó ít lâu,  Chầy chăng là một năm sau vội gì!”.

Quyết lời dứt áo ra đi, Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi.

– Không quyến luyến, bịn rịn, không vì tình yêu mà quên đi lí tưởng cao cả: Thúy Kiều mong muốn cùng Từ hải vào sinh ra tử nơi chiến địa, ngỏ lời xin theo. Từ Hải dứt khoát không nghe.  Chí khí anh hùng thể hiện rõ qua lời nói với Thúy Kiều. Chàng không quyến luyến, bịn rịn theo kiểu “nữ nhi thường tình”. Từ Hải không vì tình yêu mà quên đi lí tưởng cao cả.

– Trách Kiều là người tri kỉ mà không hiểu mình, khuyên Kiều vượt lên trên tình cảm thông thường để sánh với anh hùng. Từ Hải trách Thúy Kiều là tri kỉ mà không hiểu mình:

Từ rằng: “tâm phúc tương tri” Sao chưa dứt khoát khỏi nữ nhi thương tình”

– Từ Hải động viên Thúy Kiều hãy vượt qua thói “nữ nhi thương tình” để xứng đáng là vợ của một đấng anh hùng.

– Từ Hải hứa hẹn với Thúy Kiều về một sự nghiệp vẻ vang, một tương lai thành công rực rỡ. Từ khẳng định quyết tâm, tự tin vào thành công. . Ngôn ngữ tráng lệ: “mười vạn tinh binh”, “tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường”, “rõ mặt phi thường”, “bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia” .

– Đó là lời ước hẹn ngắn gọn, dứt khoát, chắc nịch, chất chứa ước mơ về sự nghiệp vẻ vang của người anh hùng. Từ cũng khẳng định quyết tâm, tự tin vào thành công tất yếu qua thời gian ngắn “chầy chăng là một năm sau vội gì!”.

– Hành động Từ Hải vô cùng dứt khoát, không nấn ná, dây dưa. Quyết lời là làm ngay. Thoáng một cái đã ở ngoài xa trường. Đó không phải là một quyết định vội vàng mà là kết quả của những suy tư lâu dài. Người anh hùng hết sức tin tưởng vào khả năng tất thắng của bản thân.

Quyết lời dứt áo ra đi,  Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi.

Nhận xét: Tác giả thể hiện sư tôn trọng, kính trọng và cảm mến sâu sắc đối với nhân vật Từ Hải qua lớp từ ngữ có sắc thái tôn xưng “trượng phu”, “lòng bốn phương”, “mặt phi thường”. Cách dùng hình tượng “chim bằng” để nói về Từ Hải.

→ Từ Hải là một hình tượng nhân vật lí tưởng, thể hiện ước mơ đầy lãng mạn của Nguyễn Du về một người anh hùng có những phẩm chất phi thường.

3. Nghệ thuật

– Nghệ thuật miêu tả đặc sắc; ngôn từ tráng lệ – Hình tượng có tính ước lệ – Cảm hứng vũ trụ kì vĩ, phi thường→ người anh hùng Từ Hải mang tầm vóc vũ trụ.

⇒ Khuynh hướng lí tưởng hóa người anh hùng bằng bút pháp ước lệ và cảm hứng vũ trụ; trong đó, hai phương diện ước lệ và cảm hứng vũ trụ gắn bó chặt chẽ với nhau.

– Người anh hùng Từ Hải là một sáng tạo đặc sắc của Nguyễn Du về phương diện cảm hứng sáng tạo và nghệ thuật miêu tả.

 4. Ý nghĩa văn bản

Lí tưởng của người anh hùng Từ Hải và ước mơ công lí của Nguyễn Du.

III. Luyện tập:

– Hãy nêu vị trí của văn bản “chí khí anh hùng”. – Hãy cho biết thái độ, tình cảm của Nguyễn Du đối với nhân vật Từ Hải. – Từ Hải bộc lộ lí tưởng anh hùng của mình qua lời nói với Thúy Kiều như thế nào? – Hãy cho biết khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của văn bản “chí khí anh hùng”. – Cảm nhận của em về lí tưởng anh hùng của Từ Hải qua đoạn thơ sau:

Từ rằng: “Tâm phúc tương tri  Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?  Bao giờ mười vạn tinh binh,  Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường.  Làm cho rõ mặt phi thường Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia Bằng nay bốn bể không nhà,  Theo càng thêm bận biết là đi đâu?  Đành lòng chờ đó ít lâu,  Chầy chăng là một năm sau vội gì!”.

Soạn Bài Chí Khí Anh Hùng (Trích Truyện Kiều), Soạn Văn Lớp 10

Trong chuỗi các bài soạn văn lớp 10 về Truyện Kiều của Nguyễn Du, bài viết hôm nay chúng tôi sẽ hướng dẫn các em soạn bài Chí khí anh hùng (Trích Truyện Kiều) để các em tìm hiểu sâu hơn về kiệt tác có một không hai trong văn học trung đại Việt Nam. Các em chú ý đón đọc bài soạn văn bản này đế hiểu hơn về nội dung và tư tưởng bài thơ.

Đoạn trích Chí khí anh hùng mà các em sắp được học nằm ở phần hai: Gia biến và lưu lạc trong Truyện Kiều, đây là khoảng thời gian Thúy Kiều bị lừa rơi vào lầu xanh lần 2, khi nàng đang đau khổ tuyệt vọng thì Từ Hải xuất hiện và cứu nàng ra khỏi chốn ô nhục. Các em cùng soạn bài Chí khí anh hùng để hiểu rõ hơn về những ngôn từ ca ngợi của Nguyễn Du dành cho người anh hùng Từ Hài và những ước mơ công lí của nhà thơ gửi gắm qua hình tượng nhân vật này. Muốn biết sâu sắc hơn về văn bản, mời các em tham khảo bài soạn văn lớp 10 của chúng tôi sau đây.

Trong phần hướng dẫn soạn tiếp theo, chúng tôi sẽ gợi ý cho các em soạn bài Thề nguyền (trích Truyện Kiều), các em cùng theo dõi.

Tìm hiểu chi tiết nội dung phần Phân tích bài ca dao sau: “Muối ba năm muối đang còn mặn…Có xa nhau đi nữa cũng ba vạn sáu ngàn ngày mới xa” để học tốt môn Ngữ Văn 10 hơn.

Bên cạnh nội dung đã học, các em cần chuẩn bị bài học sắp tớ với phần Phân tích bài thơ Thuật hoài của Phạm Ngũ Lão để làm sáng tỏ hào khí đời Trần để nắm vững những kiến thức Ngữ Văn 10 của mình.

Ngoài ra, các em cũng cần tìm hiểu và phân tích bài thơ Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi là một bài học quan trọng trong chương trình Ngữ Văn 10 mà các em cần phải đặc biệt lưu tâm.

Bạn đang đọc nội dung bài viết Giáo Án Ngữ Văn 10 Tiết 86: Chí Khí Anh Hùng ( Trích “ Truyện Kiều” – Nguyễn Du) trên website Athena4me.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!