Đề Xuất 3/2023 # Đà Nẵng Tiến Tới Xây Dựng Thành Phố Thông Minh # Top 11 Like | Athena4me.com

Đề Xuất 3/2023 # Đà Nẵng Tiến Tới Xây Dựng Thành Phố Thông Minh # Top 11 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Đà Nẵng Tiến Tới Xây Dựng Thành Phố Thông Minh mới nhất trên website Athena4me.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Người dân tra cứu dữ liệu qua hệ thống CNTT

Chính quyền điện tử phục vụ CCHC

Theo UBND TP. Đà Nẵng, việc xây dựng và đưa vào vận hành hệ thống thông tin chính quyền điện tử (egov.danang.gov.vn) là nền tảng tích hợp hàng loạt ứng dụng chính quyền điện tử cốt lõi của Thành phố như hệ thống một cửa điện tử; hệ thống quản lý văn bản và điều hành; hệ thống góp ý, hệ thống quản lý CBCCVC; hệ thống quản lý nhân hộ khẩu…

Trong các ứng dụng, nổi bật là hệ thống quản lý văn bản và điều hành dùng chung cho 215 đơn vị nhà nước sử dụng. Hệ thống này là nền tảng để nâng cao chất lượng, tốc độ xử lý công việc hành chính tại các cơ quan, tạo môi trường thuận lợi để ứng dụng văn bản điện tử, chữ ký số trong xử lý công việc thay cho văn bản giấy.

Một ứng dụng cốt lõi khác là phần mềm một cửa điện tử dùng chung cho các sở, ngành, quận, huyện, xã, phường, các đơn vị trực thuộc. Đây là ứng dụng cho phép quản lý việc tiếp nhận, xử lý, trả kết quả của các thủ tục hành chính của Thành phố, trong đó có 526 thủ tục được xử lý trực tuyến mức độ 3, 4.

Ứng dụng góp ý để tiếp nhận và xử lý ý kiến của người dân về nhiều lĩnh vực trong đời sống kinh tế-xã hội của Thành phố như giao thông, môi trường, xây dựng, y tế, giáo dục… Thông qua hệ thống này, người dân thể hiện vai trò giám sát, đối thoại công khai, phản biện xã hội, tạo dựng hình ảnh một chính quyền thân thiện và minh bạch.

Bên cạnh hệ thống thông tin chính quyền điện tử Đà Nẵng, các sở, ngành trong Thành phố còn sử dụng hàng trăm phần mềm chuyên ngành như: Phần mềm cấp giấy phép lái xe, quản lý phương tiện; phần mềm quản lý cấp giấy phép đầu tư; phần mềm quản lý đăng ký kinh doanh qua mạng; phần mềm quản lý hành nghề y dược tư nhân, quản lý số liệu thống kê; phần mềm quản lý các cơ sở đào tạo nghề và đối tượng xã hội; phần mềm hộ tịch tại các phường xã, phần mềm y tế xã phường, phần mềm quản lý bệnh viện… góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động chuyên môn nghiệp vụ của các cơ quan.

Triển khai Thành phố thông minh

Từ năm 2012, Thành phố phối hợp với Tập đoàn IBM khảo sát, xây dựng đề án “Xây dựng thành phố thông minh hơn” tại Đà Nẵng, từ đó triển khai thành công nhiều ứng dụng thông minh như hệ thống quản lý xe buýt bằng thiết bị giám sát hành trình; triển khai hệ thống điều khiển hệ thống đèn tín hiệu giao thông và trung tâm quản lý và vận hành đèn tín hiệu giao thông và vận tải công cộng.

Hiện nay, hệ thống cho phép điều khiển đèn tín hiệu tại 64 nút giao thông, 97 camera giám sát tại 51 điểm giao thông. Thành phố cũng đã bắt đầu xử phạt vi phạm giao thông qua hình ảnh camera giám sát giao thông từ ngày 1/11/2016. Thành phố đã phê duyệt dự án đầu tư dự án hệ thống camera giám sát an ninh trật tự với quy mô khoảng 1.600 camera trên địa bàn.

Trong lĩnh vực môi trường, Đà Nẵng đã triển khai hệ thống giám sát và cảnh báo sớm môi trường nước tại hồ Thạc Gián để phát hiện và cảnh báo sớm các chỉ số: độ pH, độ oxy hòa tan, độ đục, nhiệt độ…

Trong lĩnh vực giáo dục, Đà Nẵng cũng đã xây dựng cơ sở dữ liệu dùng chung và cổng giao tiếp dữ liệu ngành giáo dục, liên thông tích hợp dữ liệu của các phần mềm quản lý trường học tại các trường trong cả thành phố, tiến đến hình thành CSDL học sinh (quá trình học tập từ lớp 1 đến 12) và giáo viên toàn Thành phố.

Về lĩnh vực y tế, Đà Nẵng đã xây dựng hoàn thiện và đưa vào sử dụng 3 phần mềm, phần mềm y tế xã phường (100% xã, phường sử dụng); phần mềm quản lý bệnh viện tại trung tâm y tế cấp quận; phần mềm hồ sơ y tế điện tử và quản lý ID bệnh nhân.

Để quản lý vệ sinh an toàn thực phẩm, Đà Nẵng đã triển khai cơ sở dữ liệu và hỗ trợ người dân tra cứu các đơn vị đạt chuẩn an toàn thực phẩm qua tin nhắn, điện thoại…

Ông Trần Ngọc Thạch, Phó Giám đốc Sở TT&TT Thành phố cho biết, với những thành công bước đầu, Thành phố Đà Nẵng sẽ tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng thành phố thông minh dựa trên nền tảng ban đầu là các ứng dụng chính quyền điện tử mà Thành phố đã triển khai thành công trong nhiều năm qua, trong đó đặc biệt là hệ thống thông tin chính quyền điện tử (egov.danang.gov.vn) đóng vai trò là nòng cốt.

Phương châm xây dựng thành phố thông minh của Đà Nẵng là “đa đối tác-một nền tảng-một hạ tầng-một chính sách-đa ứng dụng”. Thành phố Đà Nẵng có thể hợp tác với nhiều đối tác trong và ngoài nước nhưng thực hiện xây dựng thành phố thông minh trên một nền tảng duy nhất, một cơ sở hạ tầng, một chính sách thống nhất để từ đó xây dựng đa dạng các ứng dụng, dịch vụ thông minh.

Để giảm gánh nặng cho ngân sách địa phương, Thành phố sẽ đa dạng hóa các nguồn đầu tư từ kinh phí của Trung ương, nguồn vốn vay ODA, vốn đầu tư của doanh nghiệp dưới hình thức hợp tác (PPP)…

Chi Cục Biển Và Hải Đảo Thành Phố Đà Nẵng

Báo cáo của Việt Nam về Công ước Luật Biển 1982

 Việc 107 quốc gia cùng  ký vào Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển tại Montego Bay, Jamaica 30 năm trước đây là một thành quả hết sức quan trọng của Hội nghị lần thứ 3 của Liên Hợp Quốc về Luật Biển. Sự ra đời của Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển năm 1982 (Công ước Luật Biển 1982) đã đáp ứng nguyện vọng và mong đợi của cộng đồng quốc tế về một chuẩn mực pháp lý quốc tế công bằng mang tính toàn cầu đối với tất cả các vấn đề về biển và đại dương, bao gồm cả đáy biển và lòng đất dưới đáy biển.

  Quá trình xây dựng Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển năm 1982 đã diễn ra nhiều năm với sự nỗ lực của trên 150 quốc gia và nhiều tổ chức quốc tế, kể cả các tổ chức quốc tế phi chính phủ. Đến nay, thành viên của Công ước Luật biển năm 1982 đã lên tới 164 quốc gia. Công ước Luật biển 1982 không chỉ quy định về quyền, nghĩa vụ của quốc gia ven biển mà còn đề cập đến quyền được tiếp cận với biển của các quốc gia không có biển, do vậy Công ước Luật Biển 1982 được nhiều quốc gia, kể cả những quốc gia không có biển, cùng chấp nhận. 

Là một quốc gia ven biển có bờ biển dài trên 3260 km, Việt Nam có nhiều lợi ích lớn gắn liền với biển. Nhận thức rõ tầm quan trọng của biển cả, Việt Nam đã tích cực tham gia vào quá trình thương lượng xây dựng Công ước Luật biển năm 1982 và có nhiều nỗ lực trong việc thực thi Công ước Luật biển 1982; luôn đề cao tôn chỉ và mục tiêu của Công ước, đồng thời có những hành động thiết thực vào việc thực hiện Công ước.

2. Việt Nam là quốc gia tham gia Hội nghị lần thứ 3 của Liên Hợp Quốc về Luật Biển tại Montego Bay, Jamaica. Ngay sau khi Công ước Luật biển 1982 được thông qua, ngày 30/4/1982, Việt Nam là một trong 107 quốc gia tham gia ký Công ước. Trước khi Công ước có hiệu lực, ngày 23/6/1994, Quốc hội Việt Nam đã ra Nghị quyết về việc phê chuẩn văn kiện pháp lý quan trọng này. Điểm 1 trong Nghị quyết nêu rõ: “Bằng việc phê chuẩn Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật biển 1982, nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam biểu thị quyết tâm cùng cộng đồng quốc tế xây dựng một trật tự pháp lý công bằng, khuyến khích sự phát triển và hợp tác trên biển”.

3. Vận dụng các quy định của Công ước Luật biển 1982, Việt Nam đã từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật tạo môi trường pháp lý cho công tác quản lý biển và các hoạt động kinh tế biển, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình hội nhập quốc tế và tăng cường hợp tác với các nước, vì hòa bình, ổn định trong khu vực và trên thế giới. Ngày 21/06/2012, Quốc hội Việt Nam đã thông qua Luật biển Việt Nam. Luật biển Việt Nam được xây dựng trên cơ sở các quy định của Công ước Luật biển 1982, có tham khảo các thông lệ quốc tế và thực tiễn của các nước. Luật biển Việt Nam gồm 7 chương với 55 điều, đề cập đến các nguyên tắc quản lý và sử dụng biển; phạm vi và quy chế các vùng nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa; quy chế các đảo, quần đảo; các hoạt động trong các vùng biển Việt Nam; tìm kiếm, cứu nạn, cứu hộ; bảo vệ tài nguyên và môi trường biển; nghiên cứu khoa học biển; phát triển kinh tế biển; tuần tra kiểm soát trên biển; hợp tác quốc tế về biển. Với việc thông qua Luật biển, Việt Nam đã làm cho các quy định của luật pháp về biển của mình hài hoà với các quy định của Công ước Luật Biển 1982. Việc Luật biển Việt Nam khẳng định chủ trương giải quyết các tranh chấp biển, đảo bằng biện pháp hoà bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, Công ước Luật Biển 1982 càng khẳng định rõ Việt Nam là một thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, tôn trọng và tuân thủ luật pháp quốc tế, Công ước Luật biển 1982, thể hiện quyết tâm của Việt Nam phấn đấu vì hoà bình, ổn định, hợp tác và phát triển của khu vực và trên thế giới.

5. Với chủ trương nhất quán thông qua các biện pháp hòa bình giải quyết tranh chấp, bất đồng trên biển, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong việc áp dụng có hiệu quả Công ước Luật Biển 1982 giải quyết các tranh chấp về phân định biển với các nước láng giềng, trong đó luôn đề cao nguyên tắc công bằng để tìm ra giải pháp hợp lý, cụ thể là: Việt Nam đã ký với Thái Lan Hiệp định về Phân định biển ngày 09/8/1997; ký với Trung Quốc Hiệp định về Phân định Vịnh Bắc Bộ và Hiệp định Hợp tác Nghề cá trong Vịnh Bắc Bộ ngày 25/12/2000; ký với Indonesia Hiệp định về Phân định Thềm lục địa ngày 26/6/2003.  Việt Nam đang đàm phán phân định khu vực ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ với Trung Quốc, đàm phán phân định vùng đặc quyền kinh tế với Indonesia và đang chuẩn đàm phán về vấn đề trên biển với các nước láng giềng khác. Thực tiễn đàm phán, ký kết các văn kiện phân định biển của Việt Nam với các nước láng giềng đã thể hiện sự vận dụng sáng tạo các quy định của Công ước Luật biển 1982, đóng góp và làm phong phú thêm luật pháp quốc tế về phân định biển.  Kết quả đàm phán giải quyết phân định giữa Việt Nam với Thái Lan và Trung Quốc góp phần khẳng định xu thế không thể phủ nhận của việc sử dụng đường trung tuyến hoặc cách đều làm xuất phát điểm để đi tới một giải pháp phân định công bằng và xu thế sử dụng đường phân định đơn nhất cho phân định vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.

Việt Nam đã nỗ lực đưa nguyên tắc này vào các văn kiện của ASEAN, kể cả Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC); Tuyên bố 6 điểm ngày 20/7/2012 của ASEAN về Biển Đông. Với nỗ lực của Việt Nam, nội dung “căn cứ luật pháp quốc tế, Công ước Luật Biển 1982 để tìm ra giải pháp cơ bản lâu dài cho các tranh chấp tại Biển Đông” đã được đưa vào vào Thỏa thuận những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam – Trung Quốc ký ngày 11/10/2011. Điều đó cho thấy Việt Nam không chỉ chủ động thực hiện nghiêm túc các quy định của Công ước Luật Biển 1982 mà còn luôn có ý thức thúc đẩy việc tôn trọng và thực hiện đầy đủ các nội dung của Công ước.

6. Căn cứ vào khuyến nghị trong Điều 74 và Điều 83 của Công Luật Biển 1982, Việt Nam luôn sẵn sàng cùng các bên hữu quan tiến hành hợp tác cùng phát triển ở những khu vực thực sự có tranh chấp, phù hợp với các quy định của Công ước Luật biển 1982. Năm 1992, Việt Nam đã ký với Ma-lai-xia Thỏa thuận về việc hợp tác khai thác tài nguyên khoáng sản khu vực thềm lục địa chồng lấn và thỏa thuận này đang được triển khai có hiệu quả. Hiện nay, Việt Nam đang cùng Thái Lan – Ma-lai-xia đàm phán về hợp tác tại khu vực biển chồng lấn 3 bên Việt Nam – Thái Lan – Ma-lai-xia.

7. Thực hiện quyền và nghĩa vụ của quốc gia ven biển theo quy định của Công ước Luật Biển 1982, sau gần 3 năm nỗ lực (từ 2007 đến 2009), Việt Nam đã hoàn thành Báo cáo xác định ranh giới ngoài thềm lục địa bảo đảm chất lượng, xác định một cách có cơ sở khoa học và pháp lý phạm vi thềm lục địa mở rộng của Việt Nam ở Biển Đông theo đúng tiêu chuẩn, quy định của Uỷ ban Thềm lục địa Liên Hợp Quốc.  Đầu tháng 5-2009, Việt Nam đã trình lên Liên Hợp Quốc Báo cáo xác định ranh giới ngoài thềm lục địa khu vực phía Bắc và Báo cáo chung xác định ranh giới ngoài thềm lục địa khu vực phía Nam với Malaysia theo đúng thời hạn quy định của Liên Hợp Quốc. Trong các ngày 27 và 28/8/2009, Việt Nam đã trình bày hai bản Báo cáo này tại Ủy ban Thềm lục địa Liên Hợp Quốc, đồng thời đề nghị Uỷ ban Thềm lục địa Liên Hợp Quốc sớm thành lập các Tiểu ban để xem xét Báo cáo quốc gia của Việt Nam theo đúng các quy định của Công ước Luật biển 1982 cũng như Quy tắc hoạt động của Uỷ ban Thềm lục địa. Việc làm này khẳng định rõ quyết tâm của Việt Nam trong việc thực thi Công ước Luật biển 1982.

8. Việt Nam đã tích cực tham gia các hoạt động trong khuôn khổ các cơ chế quốc tế  được thành lập theo Công ước Luật Biển 1982. Việt Nam là thành viên của Hội đồng Cơ quan Quyền lực quốc tế về đáy đại dương và đã từng được bầu làm Phó chủ tịch Đại hội đồng Cơ quan Quyền lực quốc tế về đáy đại dương.  

Nhà nước Việt Nam đã, đang và sẽ tiếp tục hành động theo mục tiêu, tôn chỉ và các quy định của Công ước Luật Biển 1982; đồng thời yêu cầu, kêu gọi các quốc gia khác tuân thủ nghĩa vụ này./.

Đại Hội Đại Biểu Đảng Bộ Thành Phố Đà Nẵng Lần Thứ Xxii Thành Công….

Trang chủ

Chính trị – Quân sự

Tin tức – Sự kiện

23/10/2020 08:48:00

296

Ban Chấp hành Đảng bộ TP. Đà Nẵng khóa XXII ra mắt đại hội

Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố khóa XXII, nhiệm kỳ 2020-2025 gồm 51 đồng chí, trong đó tái cử 33 đồng chí, tham gia lần đầu 18 đồng chí, cán bộ nữ 11 đồng chí (đạt tỉ lệ 21,56%), cán bộ trẻ 6 đồng chí (đạt tỉ lệ 11,76%). Đại hội bầu Đoàn đại biểu đi dự Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng gồm 18 đại biểu chính thức và 1 đại biểu dự khuyết.

Tại Hội nghị lần thứ nhất,Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố khóa XXII đã bầu 14 đồng chí tham gia Ban Thường vụ Thành uỷ. Đồng chí Nguyễn Văn Quảng được bầu làm Bí thư Thành ủy. Các đồng chí Lương Nguyễn Minh Triết, Lê Trung Chinh được bầu giữ chức Phó Bí thư Thành ủy. Hội nghị bầu Ủy ban kiểm tra Thành ủy khóa XXII gồm 10 đồng chí. Đồng chí Lê Thị Mỹ Hạnh, Ủy viên Ban Thường vụ được bầu làm Chủ nhiệm Uỷ ban kiểm tra Thành ủy.

Đồng chí Nguyễn Văn Quảng, Bí thư Thành ủy Đà Nẵng phát biểu bế mạc

Phát biểu bế mạc đại hội, đồng chí Bí thư Thành uỷ Đà Nẵng Nguyễn Văn Quảng khẳng định: Để thực hiện hiệu quả mục tiêu đại hội đã đề ra, ngay sau đại hội, Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố khóa XXII sẽ khẩn trương hoàn thành Nghị quyết Đại hội và Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội; xây dựng các chương trình, kế hoạch, đề án lớn để quán triệt, tổ chức triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội đến toàn hệ thống chính trị, từng cán bộ, đảng viên và tầng lớp nhân dân…

Đồng chí Bí thư Thành ủy Đà Nẵng đề nghị từng cấp, từng ngành, địa phương, đơn vị cần khẩn trương xây dựng chương trình, kế hoạch cụ thể để đưa Nghị quyết Đại hội và Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội vào cuộc sống; quyết liệt trong lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện, nhất là tập trung vào 3 nhiệm vụ trọng tâm, đột phá với quyết tâm chính trị cao nhất, gắn với trách nhiệm của người đứng đầu.

Ngay sau phiên bế mạc, Ban Thường vụ Thành ủy Đà Nẵng đã tổ chức họp báo, thông tin kết quả Đại hội đại biểu Đảng bộ thành phố lần thứ XXII, nhiệm kỳ 2020-2025.

Tin, ảnh: Hải Hà

Chào Mừng Thành Công Đại Hội Đại Biểu Lần Thứ Xxii Đảng Bộ Thành Phố Đà Nẵng:nghị Quyết: Đại Hội Đại Biểu Lần Thứ Xxii Đảng Bộ Thành Phố Đà Nẵng Nhiệm Kỳ 2022

Đại hội đại biểu lần thứ XXII Đảng bộ thành phố Đà Nẵng diễn ra từ ngày 20 tháng 10 đến ngày 22 tháng 10 năm 2020 tại Hội trường Trường Chính trị thành phố, gồm 349 đại biểu chính thức:

QUYẾT NGHỊ

I. Tán thành những nội dung cơ bản về đánh giá tình hình và kết quả 5 năm 2015-2020 và phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ 5 năm 2020-2025 nêu trong Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố khóa XXI trình Đại hội:

A. Về đánh giá tình hình và kết quả 5 năm 2015-2020 Đại hội khẳng định:

5 năm qua, trong bối cảnh có nhiều khó khăn, thách thức, Đảng bộ, quân và dân thành phố đã nỗ lực phấn đấu, đạt được nhiều kết quả quan trọng. Kinh tế duy trì được nhịp độ tăng trưởng khá; môi trường đầu tư được cải thiện. Ba đột phá về phát triển kinh tế – xã hội đạt kết quả khá rõ nét, trong đó ngành dịch vụ, nhất là du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, có thương hiệu và khả năng cạnh tranh quốc tế. Hạ tầng kinh tế – xã hội được quan tâm đầu tư, góp phần thay đổi diện mạo đô thị theo hướng văn minh, hiện đại. Lĩnh vực văn hóa – xã hội, xây dựng và phát triển con người Đà Nẵng đạt được nhiều tiến bộ. Quốc phòng, an ninh được giữ vững; hoạt động đối ngoại được mở rộng, góp phần khẳng định vị thế của thành phố. Công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị đạt nhiều kết quả tích cực; khối đại đoàn kết toàn dân được củng cố, tăng cường; tiếp tục khẳng định Đảng bộ Đà Nẵng là Đảng bộ mạnh, đoàn kết, thống nhất cao, nhân dân Đà Nẵng kiên cường, tự hào và luôn đồng hành với thành phố.

Tuy nhiên, việc thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XXI vẫn còn một số mặt hạn chế. Nửa đầu nhiệm kỳ, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng chưa được thực hiện nghiêm túc, thường xuyên. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của một số cấp ủy, tổ chức đảng, nhất là trong khâu tổ chức thực hiện chưa đáp ứng yêu cầu. Kinh tế – xã hội phát triển chưa tương xứng với tiềm năng và kỳ vọng; còn 5/12 chỉ tiêu chưa đạt kế hoạch. Kết cấu hạ tầng đô thị có mặt chưa đồng bộ. Lĩnh vực văn hóa – xã hội phát triển chưa ngang tầm với tiềm năng, lợi thế của thành phố. Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, an toàn giao thông còn tiềm ẩn những yếu tố phức tạp.

Những hạn chế nêu trên, có nguyên nhân khách quan do tác động của kinh tế thế giới, thiên tai, dịch bệnh, nhưng chủ yếu là do nguyên nhân chủ quan, đó là: Đầu nhiệm kỳ, việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, quy chế làm việc chưa nghiêm túc, dẫn đến sai phạm, khuyết điểm. Việc triển khai các nhiệm vụ, nhất là cụ thể hóa thực hiện 3 đột phá về kinh tế – xã hội chưa quyết liệt; khả năng phân tích, dự báo tình hình còn hạn chế. Công tác lãnh đạo, điều hành còn lúng túng khi phát sinh khó khăn, thách thức, nhất là sau các kết luận kiểm tra, thanh tra, điều tra… đã nảy sinh tư tưởng e ngại, làm việc cầm chừng, không chủ động tháo gỡ khó khăn, vướng mắc.

Từ thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XXI, Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố rút ra một số bài học kinh nghiệm:

– Thứ nhất, chú trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; đổi mới phương thức lãnh đạo, phong cách, lề lối làm việc; giữ vững các nguyên tắc cơ bản của Đảng, phát huy vai trò, trách nhiệm, nêu gương của người đứng đầu. Trong lãnh đạo, quản lý, điều hành phải bám sát, cụ thể hóa các mục tiêu, giải pháp đã đề ra, hành động quyết liệt, sáng tạo và vận dụng đúng các quy định pháp luật. Tăng cường kỷ luật, kỷ cương; thường xuyên kiểm tra, giám sát và kịp thời phát hiện, chấn chỉnh, xử lý những thiếu sót, vi phạm ngay từ đầu.

– Thứ hai, phát huy dân chủ, thường xuyên xây dựng và củng cố sự đoàn kết, thống nhất trong cấp ủy, đồng thuận trong xã hội; kịp thời có các giải pháp khắc phục ngay các hạn chế và giải quyết hiệu quả các vướng mắc phát sinh từ thực tiễn.

– Thứ ba, kiên định mục tiêu phát triển bền vững, đặt lợi ích của người dân và thành phố lên hàng đầu. Đánh giá và nhận định đúng, đầy đủ, kịp thời tình hình, nhất là các vấn đề mới nảy sinh để có những quyết sách, giải pháp phù hợp, đột phá và tổ chức thực hiện nhanh chóng, quyết liệt, có hiệu quả.

– Thứ tư, giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo quốc phòng – an ninh, trật tự, an toàn xã hội, xây dựng thành phố Đà Nẵng thực sự là điểm đến an toàn, thân thiện, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển nhanh và bền vững.

– Thứ năm, tranh thủ sự quan tâm chỉ đạo, hỗ trợ, giúp đỡ của Trung ương và các địa phương bạn; mạnh dạn đề xuất các ý tưởng có tầm nhìn, các cơ chế, chính sách đặc thù và quyết tâm chính trị cao để xây dựng và phát triển thành phố.

B. Về phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp 5 năm 2020-2025 Đại hội nhất trí:

1. Quan điểm: Quán triệt, thực hiện xuyên suốt quan điểm phát triển đã được Nghị quyết số 43-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa XII) xác định, trọng tâm là: Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng bộ; tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý của các cấp chính quyền; phát huy cao độ truyền thống văn hóa, cách mạng, tinh thần tiên phong, đoàn kết, khát vọng phát triển, năng động, sáng tạo, tự lực, tự cường của người Đà Nẵng, xem đây là nhân tố có ý nghĩa quyết định thành công của sự nghiệp xây dựng và phát triển thành phố. Tập trung đổi mới căn bản mô hình phát triển kinh tế; phát triển nhanh và bền vững, có bản sắc riêng.

2. Mục tiêu tổng quát đến năm 2025: Xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch vững mạnh, chính quyền tiên phong trong đổi mới và phát triển, đưa thành phố Đà Nẵng trở thành đô thị khởi nghiệp, sáng tạo, là trung tâm kinh tế – xã hội lớn của cả nước, là hạt nhân của chuỗi đô thị và cực tăng trưởng vùng kinh tế trọng điểm miền Trung – Tây Nguyên; quốc phòng – an ninh và chủ quyền biển, đảo được bảo đảm vững chắc; phấn đấu xây dựng thành phố giàu đẹp, an bình, văn minh, hiện đại.

3. Tầm nhìn đến năm 2030: Xây dựng thành phố Đà Nẵng trở thành một trong những trung tâm kinh tế – xã hội lớn của cả nước, hướng đến đô thị sinh thái, hiện đại, thông minh và đáng sống; người dân có mức sống thuộc nhóm địa phương dẫn đầu cả nước với chất lượng cuộc sống tốt, thân thiện, hạnh phúc và sáng tạo; quốc phòng, an ninh và chủ quyền biển, đảo được đảm bảo vững chắc.

4. Một số chỉ tiêu chủ yếu đến năm 2025:

– Hằng năm, có từ 80% tổ chức đảng và đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên; giảm dần tổ chức đảng, đảng viên không hoàn thành nhiệm vụ hoặc bị kỷ luật. Đảng viên mới được kết nạp hằng năm đạt từ 2,5-3% số lượng đảng viên đầu năm.

– Tổng sản phẩm trên địa bàn giai đoạn 2020-2025 tăng 9-10%/năm. GRDP bình quân đầu người đạt 5.000-5.500 USD. Tổng vốn đầu tư phát triển xã hội tăng 9-10%/năm. Thu ngân sách tăng bình quân 7-10%/năm.

– Tỷ lệ tăng dân số bình quân 2,4%/năm. Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 75%. Không còn hộ nghèo còn sức lao động theo chuẩn đa chiều của thành phố. 100% xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao, trong đó có ít nhất 3 xã nông thôn mới kiểu mẫu.

– 100% khu, cụm công nghiệp có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt chuẩn. Trên 90% nước thải sinh hoạt đô thị, 100% nước thải công nghiệp, chất thải rắn sinh hoạt được thu gom và xử lý tập trung đạt chuẩn. Duy trì tỷ lệ che phủ rừng đạt 47%.

5. Nhiệm vụ trọng tâm, đột phá:

Một là, xây dựng Đảng, chính quyền và các tổ chức trong hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, tiên phong đổi mới và phát triển; nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển thành phố nhanh và bền vững.

Hai là, thực hiện đồng bộ các giải pháp khắc phục ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, sớm lấy lại đà tăng trưởng kinh tế – xã hội của thành phố. Đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, trọng tâm là phát triển mạnh công nghiệp công nghệ cao và công nghệ thông tin, gắn với xây dựng đô thị khởi nghiệp sáng tạo, thành phố thông minh, tạo nền tảng thúc đẩy phát triển các ngành, lĩnh vực mới, nhất là kinh tế số, xã hội số và chính quyền số.

Ba là, triển khai quyết liệt, đồng bộ, có hiệu quả Nghị quyết số 119/2020/QH14 ngày 19-6-2020 của Quốc hội về thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị và một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển thành phố Đà Nẵng.

6. Nhiệm vụ thường xuyên và giải pháp lớn

6.1. Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng bộ. Đẩy mạnh xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và đạo đức. Hoàn thiện sắp xếp tổ chức bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, gắn với tinh giản biên chế, phù hợp với mô hình chính quyền đô thị. Giữ vững sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng; thực hiện nghiêm túc quy chế làm việc của cấp ủy, trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên; đẩy mạnh cải cách hành chính trong Đảng. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy đảng đối với công tác kiểm tra, giám sát, dân vận, nội chính, phòng, chống tham nhũng, lãng phí; vận động nhân dân thực hiện tốt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhất là chính sách đền bù, giải tỏa, bố trí tái định cư tại các dự án lớn, trọng điểm.

6.2. Xây dựng chính quyền các cấp trong sạch, vững mạnh. Triển khai mô hình tổ chức chính quyền đô thị gắn với lãnh đạo tổ chức tốt cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026. Đẩy mạnh cải cách hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin; phấn đấu hoàn thiện nền tảng mô hình thành phố thông minh, hình thành chính quyền số.

6.3. Phát huy dân chủ, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận, các tổ chức chính trị – xã hội. Tập trung hướng về cơ sở, kịp thời nắm bắt tình hình nhân dân, dư luận xã hội; thực hiện tốt công tác giám sát và phản biện xã hội, xây dựng Đảng, chính quyền vững mạnh.

6.4. Triển khai đồng bộ các giải pháp sớm khôi phục nhịp độ tăng trưởng kinh tế – xã hội thành phố sau đại dịch Covid-19; trước hết, tập trung các giải pháp phục hồi và phát triển các ngành dịch vụ phục vụ thị trường trong nước, xuất nhập khẩu, tạo việc làm, đảm bảo an sinh xã hội, giảm thấp nhất mức tăng trưởng âm những tháng cuối năm 2020; đẩy nhanh triển khai các công trình, dự án trọng điểm nhằm thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công.

6.5. Đổi mới mô hình, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Thúc đẩy tăng trưởng và duy trì chuyển dịch cơ cấu kinh tế đảm bảo phát triển bền vững (dịch vụ 63-65%; công nghiệp – xây dựng 23-25%; nông nghiệp 1-2%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm 11-12%). Thực hiện đồng bộ, có hiệu quả 3 trụ cột, 5 lĩnh vực mũi nhọn về phát triển kinh tế theo Nghị quyết số 43-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa XII).

6.6. Triển khai có hiệu quả Nghị quyết số 43-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa XII) với 12 chương trình, kế hoạch chuyên đề đã được cụ thể hóa; trước mắt, tập trung thực hiện Nghị quyết số 119/2020/QH14 ngày 19-6-2020 của Quốc hội về thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị và một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển thành phố Đà Nẵng. Phối hợp với các địa phương thực hiện có hiệu quả công tác liên kết phát triển vùng.

6.7. Đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ, có trọng điểm theo Quy hoạch chung thành phố đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Đẩy nhanh tiến độ lập Quy hoạch thành phố Đà Nẵng thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050. Mở rộng không gian và phát triển các khu đô thị mới về hướng tây, tây bắc theo hướng đô thị sinh thái, đô thị xanh. Phát triển khu trung tâm thành phố theo mô hình đô thị nén hiện đại. Thí điểm tái thiết đô thị ở một số khu vực quận Hải Châu, Thanh Khê.

Đẩy nhanh triển khai các dự án, công trình trọng điểm, động lực, nhất là: Xây dựng bến cảng Liên Chiểu – giai đoạn 1; mở rộng nhà ga hành khách T1 Cảng hàng không quốc tế Đà Nẵng, đầu tư tuyến kết nối giao thông sân bay về phía tây; di dời ga đường sắt Đà Nẵng và tái phát triển đô thị; công trình vượt sông Hàn; nâng cấp, mở rộng quốc lộ 14B, 14G, 14D, một số nút giao thông khác mức (Túy Loan, Liên Chiểu, Hòa Hiệp…); Trung tâm thương mại Chợ Cồn; đường vành đai phía tây (đoạn từ quốc lộ 14B đến đường Hồ Chí Minh – giai đoạn 1); nâng cấp, cải tạo đường ĐT601; đường số 2 kết nối từ đường vành đai phía nam đến Hòa Thọ Tây, Hòa Nhơn); Khu công viên phần mềm số 2…

6.8. Đầu tư phát triển văn hóa – xã hội đồng bộ với phát triển kinh tế; chú trọng xây dựng và phát triển toàn diện con người Đà Nẵng, làm nền tảng phát triển bền vững, xây dựng “thành phố đáng sống”. Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Nâng cao chất lượng hệ thống y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân, năng lực kiểm soát, phòng chống dịch bệnh; nghiên cứu xây dựng Bệnh viện nhiệt đới; đầu tư mở rộng Bệnh viện Phụ sản – Nhi, Bệnh viện đa khoa Đà Nẵng cơ sở 2. Ưu tiên nguồn lực, hợp tác quốc tế về phát triển khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo.

Xây dựng môi trường văn hóa, nghệ thuật, thể dục, thể thao lành mạnh; đẩy mạnh đầu tư phát triển văn hóa, văn học – nghệ thuật. Hoàn thành tu bổ, phục hồi và tôn tạo Thành Điện Hải – giai đoạn 2; cải tạo, nâng cấp cơ sở 42 đường Bạch Đằng làm Bảo tàng Đà Nẵng, Nghĩa trủng Hòa Vang; xây dựng Trung tâm Văn hóa thành phố. Nâng cao chất lượng và thực hiện có hiệu quả các chính sách xã hội trên địa bàn, nhất là các chương trình thành phố “5 không”, “3 có”, “4 an”.

6.9. Tăng cường quốc phòng, an ninh, giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội. Kết hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội, đối ngoại với đảm bảo quốc phòng, an ninh. Xây dựng khu vực phòng thủ thành phố ven biển, kết hợp với chiến lược biển. Đảm bảo công tác gọi công dân nhập ngũ hằng năm đạt 100% chỉ tiêu. Xây dựng thành phố là điểm đến tin cậy, an toàn, thân thiện. Đẩy mạnh cải cách tư pháp; tăng cường năng lực giám sát của cơ quan dân cử và nhân dân đối với các cơ quan tư pháp và cán bộ tư pháp.

II. Thông qua Báo cáo kiểm điểm sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố khóa XXI, nhiệm kỳ 2015-2020.

IV. Thông qua kết quả bầu cử Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố khóa XXII gồm 51 đồng chí; Đoàn đại biểu đi dự Đại hội lần thứ XIII của Đảng gồm 18 đồng chí đại biểu chính thức và 1 đồng chí đại biểu dự khuyết. Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố khóa XXII hoàn chỉnh hồ sơ về kết quả bầu cử, báo cáo Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các ban xây dựng Đảng của Trung ương để chuẩn y theo quy định.

Với phương châm “Đoàn kết – Kỷ cương – Nêu gương – Hành động”, Đại hội kêu gọi toàn thể cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân thành phố tiếp tục phát huy truyền thống đoàn kết, tinh thần cách mạng, tự lực, tự cường khắc phục khó khăn, nêu cao tinh thần chủ động, sáng tạo, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, quyết tâm phấn đấu hoàn thành thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ mà Nghị quyết Đại hội lần thứ XXII Đảng bộ thành phố đề ra, góp phần xứng đáng cùng cả nước thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng.

Bạn đang đọc nội dung bài viết Đà Nẵng Tiến Tới Xây Dựng Thành Phố Thông Minh trên website Athena4me.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!