Đề Xuất 4/2023 # Cơ Sở Pháp Lý Là Gì? Những Thuật Ngữ Liên Quan Đến Cơ Sở Pháp Lý # Top 8 Like | Athena4me.com

Đề Xuất 4/2023 # Cơ Sở Pháp Lý Là Gì? Những Thuật Ngữ Liên Quan Đến Cơ Sở Pháp Lý # Top 8 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Cơ Sở Pháp Lý Là Gì? Những Thuật Ngữ Liên Quan Đến Cơ Sở Pháp Lý mới nhất trên website Athena4me.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Cơ sở pháp lý là gì?

Tính pháp lý là những khái niệm, định nghĩa về sự vật, hiện tượng có trong hệ quy chiếu pháp luật để giải đáp các quy định, luật lệ của luật pháp. Nếu không có cơ sở pháp lý, mọi vấn đề gây bất hòa và tranh cãi sẽ không bao giờ có hồi kết.

Các ví dụ về cơ sở pháp lý

Cơ sở pháp lý của lĩnh vực bất động sản bao gồm Luật đất đai năm 2013; Luật xây dựng năm 2014; Luật kinh doanh bất động sản năm 2014; Luật nhà ở năm 2014.

Cơ sở pháp lý về nhân quyền bao gồm Hiến chương Liên Hợp Quốc; Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền năm 1948; Công ước quốc tế về quyền dân sự chính trị năm 1966; Hiến pháp Việt Nam năm 20163; Bộ luật hình sự năm 2017.

Cơ sở pháp lý trong lĩnh vực kinh doanh thương mại điện tử bao gồm Luật thương mại điện tử; Luật bảo vệ sự riêng tư trong thương mại điện tử; Luật bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ.

Cơ sở pháp lý trong hoạt động kinh doanh đa cấp gồm Luật cạnh tranh năm 2004; Nghị định 40; Nghị định 42 và Nghị định 110.

Giá trị pháp lý

Giá trị pháp lý có thể được hiểu là sự hữu ích của tài liệu văn bản, nó đóng vai trò như một bằng chứng pháp lý về thẩm quyền, nghĩa vị có thể thi hành hoặc làm cơ sở cho hành động pháp lý.

Các văn bản mang tính quy phạm pháp luật phải được kiểm chứng, xác minh trước khi được ban hành. Trong đó, các văn bản pháp luật tại Việt Nam tuân theo thứ bậc, nghĩa là khi có nhiều văn bản khác nhau nhưng lại quy định một vấn đề như nhau thì sẽ áp dụng cho văn bản có thứ bậc cao hơn.

Văn bản có giá trị pháp lý được xây dựng trên không gian lãnh thổ Việt Nam, cho mọi công dân có quốc tịch Việt Nam, cũng như người Việt Kiều cho đến khi được điều chỉnh, bổ sung hoặc sửa đổi sao cho phù hợp với lịch sử và điều kiện kinh tế. Thời điểm văn bản có giá trị pháp lý còn tùy vào chủ thể ban hành, thời gian ban hành theo quy định của pháp luật.

Cơ chế pháp lý

Cơ chế pháp lý là cơ chế tổ chức hoạt động của một thể chế chính trị, xã hội, kinh tế, tổ chức,… được pháp luật hỗ trợ cho các hoạt động giám sát tư pháp. Nó đóng vai trò vận hành, tổ chức của hệ thống các cơ quan, tổ chức, công dân theo quy định của pháp luật.

Các hoạt động tư pháp được diễn ra theo đúng luật, giúp giảm thiểu việc lạm dụng quyền, chức vụ theo hướng tiêu cực. Ngoài ra, cơ chế pháp lý cũng giúp cơ quan tư pháp, công chức, nhân viên pháp lý nâng cao trách nhiệm và vai trò trong công cuộc thực thi công lý.

Vấn đề pháp lý

Vấn đề pháp lý là những vấn đề mang tính trọng tâm cần tranh luận hoặc giải quyết triệt để theo pháp luật. Trong một vụ việc hay tình huống nào đó muốn giải quyết bằng pháp luật thì phải xem xét đây có phải là vấn đề pháp lý hay không.

Khi vấn đề pháp lý được xác nhận, quá trình điều tra và giải quyết vụ việc diễn ra nhanh chóng và đơn giản hơn. Một số trường hợp có vấn đề pháp lý phức tạp cần phải có nhiều thời gian để điều tra, thu thập thông tin, tìm bằng chứng và thường giải quyết các vụ án mang tính hình sự.

Nâng Cao Hiệu Lực Quan Lý An Toàn Thực Phẩm Trên Cơ Sở Pháp Luật

Theo thống kê của Cục ATTP, trên toàn quốc có gần 90.000 cơ sở sản xuất, chế biến, kinh doanh thực phẩm, dịch vụ ăn uống. Từ năm 2012 đến tháng 3/2017, cơ quan chức năng đã thanh tra, kiểm tra và phát hiện 94.768/224.791 lượt cơ sở (chiếm 42,1%) không đạt tiêu chuẩn ATTP; kết quả xét nghiệm mẫu thực phẩm có 2.109/12.785 mẫu (chiếm 16,4%) không đạt tiêu chuẩn vệ sinh. Trong giai đoạn từ năm 2012 đến tháng 3 năm 2017 trên địa bàn toàn quốc đã xảy ra 2.213 vụ ngộ độc thực phẩm tại bếp ăn tập thể với 7.653 nạn nhân; 297 vụ ngộ độc thực phẩm tại các khu công nghiệp, khu chế xuất với 4.498 nạn nhân; 118 vụ ngộ độc thực phẩm trong các trường học với 1.090 học sinh; 238 vụ ngộ độc thực phẩm do thức ăn đường phố với 4.980 nạn nhân. Qua kiểm tra, cơ quan chức năng đã xử lý 9.768 vụ vi phạm về an toàn thực phẩm; tiêu hủy trên 180 tấn thực phẩm không đảm bảo an toàn thực phẩm. Tình trạng ngộ độc thực phẩm có xu hướng gia tăng và ảnh hưởng không nhỏ tới sức khoẻ cộng đồng. Sản xuất, kinh doanh thực phẩm cơ bản vẫn là nhỏ lẻ, quy mô hộ gia đình nên việc kiểm soát an toàn thực phẩm rất khó khăn, công tác quản lý an toàn thực phẩm còn nhiều yếu kém, bất cập, hạn chế về nguồn lực và đầu tư kinh phí, chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn.

Xuất phát từ thực trạng vi phạm pháp luật trong lĩnh vực ATTP, đòi hỏi phải nâng cao chất lượng hiệu quả công tác quản lý lĩnh vực này để đảm bảo chất lượng cuộc sống, an sinh xã hội. Một trong những vấn đề cần phải được chú trọng đầu tư đó là các quy định của pháp luật điều chỉnh nhằm quản lý vấn đề an toàn thực phẩm.

Hai là, đã xây dựng được một hệ thống tiêu chuẩn về thực phẩm,tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, cơ quan quản lý nhà nước áp dụng trong quá trình sản xuất kinh doanh thực phẩm cũng như kiểm soát ATTP.

Ba là, pháp luật ATTP nói chung đã có một bước tiến vượt bậc trong việc phân công trách nhiệm cụ thể cho từng bộ ngành đối với hoạt động quản lý ATTP trên thị trường. Trên cơ sở phân công phân cấp cho các lực lượng chức năng, ban ngành, tạo được sức mạnh tổng hợp trong đảm bảo ATTP.

Bên cạnh những thành tựu đạt được thì hệ thống pháp luật về ATTP còn một số hạn chế bất cập, đó là:

Sự chồng chéo giữa các cơ quan quản lý ATTP đang là một thực tế tồn tại từ lâu nhưng việc giải quyết vẫn chưa dứt điểm, đã gây không ít khó khăn cho doanh nghiệp, cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống. Chẳng hạn, cùng một chủ thể kinh doanh 03 nhãn hàng thuộc về trách nhiệm quản lý về ATTP của cả ba ngành Công thương, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Y tế thì một năm sẽ phải lần lượt chịu sự thanh kiểm tra của cả 3 cơ quan trên.

Hai là, tính khả thi của các văn bản QPPL về ATTP còn chưa cao, cần phải sửa đổi bổ sung cho phù hợp với thực tiễn áp dụng. Theo quy định tại Điều 6 Luật ATTP, việc xử lý hành vi vi phạm pháp luật về ATTP quy định có 02 biện pháp xử lý: xử lý vi phạm hành chính và xử lý hình sự, nhưng trong thực tế chưa có hướng dẫn của các cơ quan có thẩm quyền trong việc quy định cụ thể về hành vi, hình thức và mức xử phạt các vi phạm hành chính trong lĩnh vực ATTP tại Điều 5 Luật An toàn thực phẩm. Điều 244 Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định về tội vi phạm các quy định về vệ sinh ATTP, nhưng chưa có hướng dẫn thế nào là tình tiết gây hậu quả nghiêm trọng, việc chứng minh ý thức chủ quan của người phạm tội biết rõ là thực phẩm không đảm bảo vệ sinh ATTP rất khó xác định. Dự thảo Bộ luật Hình sự năm 2015 có hướng dẫn quy định cụ thể xác định hậu quả của hành vi vi phạm về vệ sinh an toàn thực phẩm nhưng lại đang tạm hoãn thi hành, không được triển khai cho nên việc xử lý còn lúng túng, thiếu tính răn đe.

Ba là, tính ổn định của một số văn bản QPPL về kiểm soát ATTP chưa cao. Có những văn bản được các cơ quan chức năng ban hành chỉ trong một thời gian ngắn đã phải sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ. Sự thiếu ổn định của các văn bản QPPL đó đã gây khó khăn cho các chủ thể kinh doanh thực phẩm cũng như công tác kiểm soát ATTP của các cơ quan nhà nước.

Bốn là, hiện nay, hệ thống pháp luật về kiểm soát ATTP đang thiếu các quy định chi tiết dẫn đến việc áp dụng của các chủ thể đang gặp không ít khó khăn. Luật ATTP đã có hiệu lực từ ngày 01/07/2011 nhưng các cơ quan chức năng vẫn chưa thể áp dụng toàn bộ vào thực tiễn hoạt động kiểm soát ATTP.

c.Nguyên nhân

Năm là, các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về ATTP hiện còn thiếu rất nhiều, đặc biệt là đối với những thực phẩm truyền thống (các loại mắm, nem chua, tương…) và một số tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật được ban hành cũng đã lạc hậu nhưng chưa được sửa đổi. Chính vì sự bất cập này mà hiện nay, nhiều doanh nghiệp thực phẩm ghi lên nhãn hàng hoá của mình các số liệu khác xa với thực tế sản xuất mà không có một chế tài kiểm soát nào.

Những hạn chế của pháp luật về đảm bảo ATTP tại Việt Nam thời gian qua là do nguyên nhân sau: Hoạt động ban hành các văn bản dưới luật của các cơ quan quản lý còn chậm trễ, gây khó khăn cho công tác thực thi, các vấn đề cơ bản của công tác quản lý lại chưa được đầu tư nghiên cứu sâu để có lộ trình giải quyết; sự hợp tác, phối hợp giữa các bộ trong công tác xây dựng VBQPPL còn chưa được quan tâm đúng mức, nhiều vấn đề “xung đột” lại né tránh, không quy định cụ thể nên việc thực hiện pháp luật còn gặp nhiều khó khăn.

3.Một là, các cơ quan chức năng cần tăng cường rà soát các quy định về đảm bảo ATTP Một số kiến nghị, giải pháp hoàn thiện pháp luật

Mặt khác, kinh phí đầu tư cho hoạt động xây dựng pháp luật về ATTP nói chung và kiểm soát ATTP còn thấp.

Công tác rà soát pháp luật có ý nghĩa hết sức quan trọng để đưa ra những kiến nghị nhằm khắc phục những khó khăn, bất cập, vướng mắc trong việc thực thực thi. Việc rà soát pháp luật về kiểm soát ATTP cần thực hiện những vấn đề sau:

– Rà soát và bổ sung quy chế quản lý nhập khẩu hoá chất, thuốc bảo vệ thực vật, các phụ gia thực phẩm, các loại thực phẩm không đảm bảo vệ sinh, chống di nhập các loại sinh vật lạ lây lan mầm bệnh, làm biến đổi gen. Loại bỏ những điểm chồng chéo giữa các văn bản của các bộ ngành khác nhau, những quy định không hoặc ít có tính khả.

Thứ hai, cần sửa đổi, bổ sung một số VBPL

– Rà soát lại các quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ ăn uống, kinh doanh thực phẩm tươi sống và chế biến, quy định về điều kiện vệ sinh ATTP đối với thực phẩm sản xuất trong nước và nhập khẩu nhằm tiêu thụ tại Việt Nam, các quy định về ghi nhãn chi tiết đối với thực phẩm bao gói sẵn để có những bổ sung, điều chỉnh phù hợp với điều kiện thực tế và chuẩn quốc tế. Trước mắt, ban hành các quy định cụ thể đối với từng loại hình dịch vụ kinh doanh ăn uống, chợ và siêu thị. Xây dựng quy trình ghi nhãn rộng rãi và chặt chẽ hơn.

– Rà soát lại các quy định và tiêu chuẩn về chất lượng của hàng thực phẩm xuất khẩu để hoàn thiện theo hướng đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế.

+ Khẩn trương ban hành các nghị định hướng dẫn thi hành Luật ATTP nhằm tạo điều kiện để Luật này sớm đi vào thực tiễn. Đề nghị Bộ Y tế đề xuất với Chính phủ bổ sung thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính cho lực lượng Cảnh sát môi trường vào Nghị định thay thế Nghị định 178/2013/NĐCP quy định về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực ATTP.

+ Xây dựng và ban hành các quy định về điều kiện kinh doanh, phương tiện vận chuyển, công nghệ bảo quản đối với từng nhóm thực phẩm có nguy cơ mất an toàn cao như thịt, sữa, rau quả, thực phẩm ăn ngay, nước đóng chai...

+ Xây dựng một cách đồng bộ các quy trình quy phạm, các kỹ thuật canh tác trong sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, các quy trình công nghệ trong bảo quản, chế biến, trong phân phối, lưu thông…

+ Sớm ban hành và hoàn thiện các quy định về xuất, nhập khẩu các sản phẩm biến đổi gen và sinh vật biến đổi gen.

Thứ ba, hoàn thiện các quy định nhằm nâng cao năng lực quản lý nhà nước

+ Hợp lý hoá các văn bản luật, chính sách và quy định về ATTP để nâng cao tính thực thi của chúng như ban hành các quy định chi tiết, xuất bản các sách hướng dẫn thi hành.

+ Nghiên cứu xây dựng và ban hành các tiêu chí về văn minh thương mại trong kinh doanh thực phẩm. Trên cơ sở đó kiểm tra khả năng đáp ứng của các cơ sở kinh doanh thực phẩm để cấp giấy chứng nhận. Giấy chứng nhận này là một hình thức quảng bá hình ảnh của các cơ sở kinh doanh thực phẩm (chẳng hạn như cửa hàng rau sạch, chè không có dư lượng độc tố, thịt chăn nuôi theo quy trình sạch…)

Xây dựng, ban hành các quy định về kế hoạch hành động ATTP và kiểm dịch động thực vật theo nguyên tắc tiếp cận hệ thống toàn bộ ở tất cả các khâu trong chu trình thực phẩm, từ đó phân nhóm hành động theo chức năng và trách nhiệm của từng cơ quan, tổ chức thực hiện, thanh tra, giám sát, cơ chế phối hợp giữa các cơ quan cùng chịu trách nhiệm về các vấn đề ATTP.

Năm là, xây dựng hệ thống tiêu chuẩn quốc gia về ATTP phù hợp với khu vực và thế giới

Tiếp tục ban hành các quy định pháp lý để làm căn cứ cho việc kiểm soát thực phẩm của các hiệp hội ngành hàng, khu vực tư nhân cùng với sự tham gia của các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức xã hội khác.

Thứ tư, tăng cường nguồn lực cho hoạt động xây dựng pháp luật kiểm soát ATTP , nâng cao năng lực cho cán bộ làm công tác, rà soát, xây dựng, ban hành VBPL về kiểm soát. Bảo đảm cấp đủ ngân sách nhà nước cho hoạt động nghiên cứu, xây dựng pháp luật về ATTP.

Xây dựng và hoàn thiện các tiêu chuẩn về ATTP theo chuẩn quốc tế và đặc thù của Việt Nam. Mục đích cuối cùng là áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế vào thị trường trong nước. Tuy nhiên cần lưu ý rằng, những tiêu chuẩn của Codex, IPPC, OIE, dù dựa trên cơ sở khoa học nhưng rất khó thực hiện trong nước vì sẽ làm giá thực phẩm tăng ít nhất từ 5-10% và vì những tiêu chuẩn đó dựa trên tập quán ăn uống của người phương Tây. Do đó nên lựa chọn cách chuyển đổi từng bước sang tiêu chuẩn quốc tế.

Cần có sự phối hợp giữa các cơ quan soạn thảo và các doanh nghiệp, tham khảo ý kiến của các chuyên gia trong việc xây dựng tiêu chuẩn và các quy định quản lý để có thể bắt buộc doanh nghiệp thực hiện một cách có hiệu quả, tránh tình trạng áp đặt hoặc xây dựng tiêu chuẩn không dựa trên những chứng cứ khoa học.

Tranh thủ sự trợ giúp về kỹ thuật và chuyên gia của các tổ chức tiêu chuẩn, môi trường quốc tế đồng thời tăng cương công tác đào tạo đội ngũ chuyên gia trong lĩnh vực xây dựng hệ thống tiêu chuẩn quốc gia./.

Cơ Quan Hành Pháp Là Gì? Hệ Thống Cơ Quan Hành Pháp Của Việt Nam

1. Khái niệm đúng nhất về cơ quan hành pháp là gì?

Khái niệm đúng nhất về cơ quan hành pháp là gì?

Trong đó, cơ quan hành pháp chính trị thực hiện chức năng hoạch định chính sách, và đảm bảo rằng tất cả các luật đều được thực thi đúng bởi tất cả các cơ quan của chính phủ. Cơ quan hành pháp thường trực tức là bộ máy công vụ điều hành công việc hành chính hàng ngày và làm việc trong các cơ quan chính phủ. Nó hoạt động dưới sự giám sát và kiểm soát của các nhà điều hành chính trị.

Việc làm Công chức – Viên chức

2. Hệ thống cơ quan hành pháp của Việt Nam

Hệ thống cơ quan hành pháp của Việt Nam

Tùy theo từng quốc gia, mà cơ quan hành pháp có thể được cơ cấu và tổ chức không giống nhau. Vậy tại quốc gia Việt Nam chúng ta, cơ cấu tổ chức của cơ quan hành pháp là gì?

Cơ quan hành chính trong hệ thống hành pháp của Việt Nam cấp cao nhất là Chính phủ. Chính phủ có nhiệm vụ thi hành pháp luật, xây dựng các chính sách và chịu trách nhiệm trực tiếp về các vẫn đề xã hội, kinh tế.

Đứng đầu Chính phủ là Thủ tướng, người lãnh đạo và cũng là người chịu hoàn toàn trách nhiệm về cơ quan này. Thủ tướng Việt Nam có khá nhiều quyền hạn, là người đưa ra ý kiến cuối cùng về việc quyết định các chính sách, cũng như tổ chức và triển khai hoạt động thi hành luật. Bên cạnh đó, Thủ tướng còn là cá nhân có quyền đề bạt lên Quốc hội về các vấn đề bổ nhiệm, bãi nhiệm, khen thưởng, kỷ luật các cá nhân, đơn vị, cơ quan hành chính thuộc Chính phủ. Thủ tướng có trách nhiệm và vai trò trong việc đảm bảo hoạt động hành chính xuyên suốt từ cấp trên đến cấp dưới, từ TW đến địa phương, thể hiện tình đồng thuận, đoàn kết, nhất quán,…

Dưới Thủ tướng là các Phó thủ tướng, thông thường nước ta có tổ chức bao gồm 5 phó thủ tướng. Họ là người có nhiệm vụ hỗ trợ, giúp đỡ Thủ tướng, trong đó bao gồm tham mưu, đề xuất, thực hiện và triển khai các quyết định của Thủ tướng xuống các cấp Bộ và Ban ngành. Ngoài ra, khi Thủ tướng vắng mặt thì các Phó thủ tướng cũng có thể trở thành người đại diện Thủ tướng làm việc khi đã nhận được sự ủy quyền từ Thủ tướng.

– Ủy ban nhân dân các cấp: thông thường, mỗi địa phương sẽ có một đại diện cơ quan hành chính, đó chính là Ủy ban nhân dân (bao gồm UBND cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã). Theo quy định, các ủy ban nhân dân là do các hội đồng nhân dân với cấp tương ứng bầu ra. Ủy ban nhân dân cũng chính là cơ quan chấp hành của HĐND cùng cấp đó. Cơ quan này có nhiệm vụ tiếp nhận, triển khai và thực thi quyết định, nghị quyết do Hội đồng nhân dân giao xuống.

Các cấp dưới bộ là sở, phòng, ban. Tuy nhiên các cơ quan này đều thuộc Ủy ban nhân dân các cấp tương ứng Sở là cấp tỉnh, Phòng là cấp huyện, không thuộc cơ quan hành chính của Nhà nước. Các cơ quan này đều có nhiệm vụ tiếp nhận ý kiến, chủ trương chỉ đạo, triển khai và thi hành các hoạt động theo sự phân công của Ủy ban nhân dân các cấp tương ứng.

– Thứ ba là Chủ tịch nước: được xem là nguyên thủ quốc gia, nên được trao cả 3 quyền, lập pháp, tư pháp, hành pháp. Tất nhiên, ở khía cạnh hành pháp, chủ tịch nước có vai trò rất nổi bật. Cụ thể hơn, chủ tịch nước là cá nhân tham gia trực tiếp vào quá trình thành lập cơ cấu tổ chức bộ máy hành chính của Chính phủ, bao gồm các Thủ tướng, phó Thủ tướng, Bộ trưởng, Thủ trưởng ngang bộ cũng như hầu hết các thành viên còn lại thuộc bộ máy hành chính Nhà nước. Tiếp đó, chủ tịch nước cũng là người thực hiện các chức năng: ra quyết định khen thưởng, quyết định cho hay không cho nhập tịch, thống lĩnh lực lượng vũ trang, tiếp đón và đại diện cho các mối quan hệ quốc tế với nước ngoài,… Có thể nói, hầu hết trong mọi nhiệm vụ và quyền hạn của chủ tịch nước đều có mặt quyền hành pháp.

– Thứ bốn là chính quyền địa phương: Hoạch định chính sách, triển khai và thực thi pháp luật trong phạm vi địa phương chính là hai nhiệm vụ cơ bản của Hội động nhân dân và Ủy ban nhân dân. Và đây trong hành pháp cũng bao gồm những nội dung nhiệm vụ này,

Kết luận cho chúng ta thấy rằng, quyền hành pháp không chỉ được thực thi bởi cơ quan hành pháp. Mà nó còn được mở rộng ra những cá nhân, cơ quan thuộc phạm vi thực hiện các quyền khác, như lập pháp hay tư pháp. Cuối cùng, một sự thật cho thấy, bản chất của quyền hành pháp không phải độc tôn cơ quan hành pháp chịu trách nhiệm xây dựng và thực hiện.

4. Bạn có còn cơ hội việc làm trong các cơ quan hành chính thời nay?

Bạn có còn cơ hội việc làm trong các cơ quan hành chính thời nay?

Cho dù vậy, các cơ quan vẫn tạo điều kiện hết mức có thể để chiêu mộ các nhân tài, dần xóa bỏ chế độ con ông cháu cha, sân sau và chống lưng. Hãy học tập, cống hiến hết mình, và hãy cứ hy vọng về một ngày nào đó, tất cả mỗi chúng ta đều có sự nghiệp đẹp đẽ nhất theo con đường riêng nhất của mình.

Cơ quan hành pháp là gì? Hy vọng bạn đã hiểu được các vấn đề về nó. Nếu đang tìm kiếm việc làm hành chính, công chức, viên chức, cán bộ, bạn có thể cập nhật mọi tin tức việc làm tại chúng tôi

Cơ Sở Pháp Lý Mới Cho Cải Cách, Hiện Đại Hóa: Nhìn Từ Luật Hải Quan (Sửa Đổi)

Cơ sở pháp lý của Luật Hải quan (sửa đổi)

Việc sửa đổi Luật Hải quan xuất phát từ yêu cầu hội nhập quốc tế sâu rộng; Tạo hành lang pháp lý cho hiện đại hóa hải quan; Áp dụng rộng rãi hải quan điện tử, đáp ứng tốt yêu cầu của cải cách thủ tục hải quan (TTHQ), cải cách hiện đại hóa hải quan theo hướng công khai, minh bạch, hiệu quả hơn. Đồng thời, tạo cơ sở pháp lý để nâng cao hiệu quả, hiệu lực của công tác bảo vệ lợi ích, chủ quyền quốc gia, chống buôn lậu và gian lận thương mại, thu hút đầu tư và nâng cao sức cạnh tranh của DN, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Theo đó, những điểm nhấn căn bản của Luật được thể hiện trên các vấn đề sau:

Một là, thay đổi căn bản phương thức thực hiện TTHQ từ phương thức truyền thống, bán điện tử sang phương thức điện tử. Luật đã quy định việc khai hải quan được thực hiện theo phương thức điện tử, việc khai trên tờ khai giấy chỉ áp dụng đối với một số trường hợp cụ thể, do Chính phủ quy định (Điều 29); Việc kiểm tra hồ sơ hải quan được thực hiện thông qua hệ thống xử lý dữ liệu điện tử hải quan hoặc trực tiếp bởi công chức hải quan (Điều 31).

Hai là, Luật tạo cơ sở để tiếp tục đơn giản hóa thủ tục hành chính về hải quan thông qua các quy định về hồ sơ hải quan, thời hạn cơ quan hải quan làm TTHQ, quản lý hải quan đối với hàng hóa gia công, nhập sản xuất xuất khẩu (Điều 23, Điều 24, Điều 60).

– Về thời hạn làm TTHQ: Tại Điều 23 của Luật đã quy định rõ công chức hải quan kiểm tra hồ sơ chậm nhất 2 giờ làm việc kể từ thời điểm cơ quan hải quan tiếp nhận đầy đủ hồ sơ hải quan; thời gian kiểm tra thực tế hàng hoá là 8 giờ làm việc kể từ thời điểm người khai hải quan xuất trình đầy đủ hàng hoá cho cơ quan hải quan (Luật hiện hành là 02 ngày làm việc); Trường hợp cần thiết phải gia hạn thì thời gian gia hạn tối đa không quá 2 ngày.

– Về TTHQ đối với hàng hóa nhập khẩu để gia công, sản xuất hàng hóa xuất khẩu: Tại khoản 1 Điều 59 Luật Hải quan quy định, đây là đối tượng chịu sự kiểm tra, giám sát hải quan từ khi nhập khẩu, trong quá trình sản xuất ra sản phẩm cho đến khi sản phẩm được xuất khẩu hoặc thay đổi mục đích sử dụng. Theo đó, việc quản lý, theo dõi hàng hóa không thực hiện trên cơ sở thanh khoản từng tờ khai như hiện nay mà thực hiện trên cơ sở lượng hàng hóa nhập – xuất – tồn. Cơ quan hải quan có trách nhiệm kiểm tra cơ sở gia công, sản xuất; Năng lực gia công, sản xuất; Việc sử dụng nguyên liệu, vật tư nhập khẩu; Việc quyết toán, quản lý, sử dụng nguyên liệu, vật tư nhập khẩu để sản xuất, gia công hàng hóa xuất khẩu (Điều 59).

Ba là, Luật cũng quy định tạo cơ sở pháp lý áp dụng nguyên tắc quản lý rủi ro trong kiểm tra, giám sát hải quan; Có chế độ ưu tiên, tạo thuận lợi về TTHQ cho DN đáp ứng đủ điều kiện (Điều 16, Điều 17, Điều 38, Điều 39, Điều 40, Điều 41).

Luật Hải quan quy định các nội dung mang tính nguyên tắc về quản lý rủi ro trong hoạt động nghiệp vụ hải quan. Theo đó, cơ quan hải quan sẽ áp dụng quản lý rủi ro để quyết định việc kiểm tra, giám sát đối với hàng hóa, phương tiện vận tải; Hỗ trợ hoạt động phòng, chống buôn lậu và vận chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới. Quy định cụ thể hoạt động quản lý rủi ro, bao gồm việc thu thập, xử lý thông tin hải quan; Xây dựng tiêu chí và tổ chức đánh giá việc tuân thủ pháp luật của người khai hải quan, phân loại mức độ rủi ro; Tổ chức thực hiện các biện pháp quản lý hải quan phù hợp. Những nội dung này chưa được Luật hiện hành quy định.

Đồng thời, việc áp dụng quản lý rủi ro trong từng quy trình, nghiệp vụ hải quan cụ thể được quy định tại các điều: Điều 32 về kiểm tra hồ sơ hải quan; Điều 33 về kiểm tra thực tế hàng hóa; Điều 34 về kiểm tra thực tế hàng hóa trong trường hợp vắng mặt người khai hải quan; Điều 38 về phương thức giám sát hải quan; Điều 78 về các trường hợp kiểm tra sau thông quan; Các điều từ 93 đến 96 về thu thập, xử lý thông tin hải quan. Ngoài các quy định cụ thể hóa nguyên tắc áp dụng quản lý rủi ro trước, trong và sau khi thông quan, các nội dung chi tiết khác như tiêu chí đánh giá rủi ro, phân loại mức độ rủi ro, áp dụng cụ thể quản lý rủi ro sẽ do Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định.

Năm là, Luật Hải quan cũng tạo cơ sở pháp lý để thực hiện TTHQ, chế độ kiểm tra hàng hóa XNK theo Cơ chế một cửa quốc gia (Điều 4, Điều 24). Hiện nay, Cơ chế một cửa quốc gia đang được triển khai thí điểm theo Quyết định 48/2011/QĐ-TTg ngày 31/8/2011 của Thủ tướng Chính phủ. Dự kiến, tháng 12/2014 sẽ tổng kết việc thí điểm và đề xuất phương án triển khai chính thức Cơ chế hải quan một cửa quốc gia trong giai đoạn tiếp theo.

Thêm hành lang pháp lý mới

Để nâng cao hiệu quả, hiệu lực của công tác phòng chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới, tăng cường hoạt động kiểm tra sau thông quan, giám sát, kiểm soát của ngành Hải quan… Luật Hải quan (sửa đổi) đã có những quy định cụ thể hơn với các điều khoản sau:

– Về địa bàn hoạt động hải quan:

Điều 7 Luật Hải quan quy định theo hướng bổ sung cho đầy đủ và minh bạch một số địa điểm là địa bàn hoạt động hải quan, gồm: Khu vực, địa điểm khác đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước, được phép xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh hàng hóa, xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh phương tiện vận tải theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ; Khu vực đang lưu giữhàng hóa đang chịu sựgiám sát hải quan.

– Về tăng cường hoạt động của cơ quan hải quan trong phòng, chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới (Điều 88, 89, 90):

Điều 88 Luật Hải quan đã bổ sung các quy định, tạo cơ sở pháp lý để cơ quan hải quan tiếp tục truy đuổi khi có căn cứ xác định hàng hoá buôn lậu, vận chuyển trái phép qua biên giới, phương tiện vận tải chở hàng hóa buôn lậu, vận chuyển trái phép qua biên giới đang di chuyển từ địa bàn hoạt động hải quan ra ngoài địa bàn hoạt động hải quan; Đối với hàng hóa chịu sự giám sát hải quan đang vận chuyển trên các tuyến đường, cơ quan hải quan có trách nhiệm giám sát bằng các biện pháp nghiệp vụ hải quan; khi phát hiện có hành vi vi phạm pháp luật thì cơ quan hải quan chủ trì, phối hợp với các cơ quan nhà nước hữu quan kiểm tra, xử lý theo quy định của pháp luật.

Luật Hải quan cũng quy định cụ thể việc cơ quan hải quan có quyền sử dụng cờ hiệu, đèn hiệu, pháo hiệu, còi, loa; Sử dụng vũ khí và công cụ hỗ trợ theo quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ (khoản 5 Điều 89).

Điều 90 Luật Hải quan quy định bổ sung thẩm quyền dừng phương tiện vận tải, tạm giữ người, áp giải người vi phạm trong trường hợp có căn cứ cho rằng có hành vi buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới cho cơ quan hải quan. Đây là biện pháp, trường hợp chưa được quy định tại Luật Xử lý vi phạm hành chính. Luật Hải quan (sửa đổi) đã bổ sung các quy định này nhằm bảo đảm phù hợp với đặc thù của hoạt động chống buôn lậu, phạm vi địa bàn ở vùng cửa khẩu giáp biên giới, sân bay, trên biển; Nếu không được dừng phương tiện vận tải; Tạm giữ ngay người có hành vi buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới thì các đối tượng sẽ nhanh chóng tẩu thoát sang bên kia biên giới hoặc lên máy bay, phương tiện vận tải khác để xuất cảnh. Đồng thời, quy định rõ thẩm quyền áp dụng các biện pháp nêu trên là Chi cục trưởng Chi cục Hải quan, Đội trưởng Đội Kiểm soát thuộc Cục Hải quan, Đội trưởng Đội Kiểm soát chống buôn lậu và Hải đội trưởng Hải đội Kiểm soát trên biển thuộc Cục Điều tra chống buôn lậu.

– Về việc tăng cường hoạt động kiểm tra sau thông quan:

Được quy định tại các Điều từ 77 đến Điều 82 của Luật này đã quy định cụ thể hơn về kiểm tra sau thông quan, tập trung vào các nội dung:

Tóm lại, trong bối cảnh hội nhập ngày càng sâu rộng, Luật Hải quan (sửa đổi) có ý nghĩa rất quan trọng trong việc phát triển kinh tế của đất nước. Quốc hội ban hành dự án Luật này nhằm hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về hải quan; đảm bảo tiếp tục cải cách hành chính, hiện đại hóa hải quan, đặc biệt là hệ thống TTHQ điện tử đáp ứng yêu cầu và tạo thuận lợi hơn nữa cho hoạt động thương mại, đầu tư, dịch vụ, phát triển kinh tế – xã hội và hội nhập quốc tế.

Bạn đang đọc nội dung bài viết Cơ Sở Pháp Lý Là Gì? Những Thuật Ngữ Liên Quan Đến Cơ Sở Pháp Lý trên website Athena4me.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!